Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Đề tài hoạt động người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại thị xã sơn tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.39 KB, 9 trang )

Lời nói đầu
Theo kết kết quả điều tra Lao động- Việc làm, tại thời điểm 1/7/2006 lực
lượng lao động cả nước (gồm những người đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động
kinh tế và những người thất nghiệp) có hơn 45.128 ngàn người, trong đó khu vực
thành thị chiếm 26,18%, khu vực nông thôn chiếm 73,82% với đặc điểm nguồn
nhân lực trẻ, có quy mô lớn nên đã, đang và sẽ tạo ra nguồn cung dồi dào về nhân
lực. Hằng năm số lượng người cần có việc làm tăng thêm hơn 1,5 triệu người. Trong
khi đó, với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế như hiện nay, cầu về nhân
lực còn hạn chế và phản ánh một cơ cấu lạc hậu, đại bộ phận nguồn nhân lực còn
nằm trong khu vực nông nghiệp. Chính sự bất cân đối này đã đặt ra vấn đề là phải
giải quyết việc làm cho người lao động.
Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện bằng thị trường trong
nước mà còn phải chú trọng phát triển cả thị trường ngoài biên giới, chính vì vậy
vấn đề người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hiện nay đang được
Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm, chú trọng.
Hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài đã được thực hiện từ những
năm đầu của thập niên tám mươi và rất được chú trọng trong những năm gần đây,
bên cạnh những thành quả to lớn đã đạt được thì vẫn còn những hạn chế nhất định
và cũng bộc lộ một số khiếm khuyết cần khắc phục. Thị xã Sơn Tây- thành phố Hà
Nội không nằm ngoài thực trạng chung này của cả nước. Với mục đích tìm hiểu
thực trạng để đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả hoạt động người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, em xin chọn nội dung tiểu luận về
hoạt động người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại thị xã Sơn Tây
nghiên cứu để có thể nhìn nhận một cách cụ thể nhất trong việc thực hiện hoạt động
này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình chu đáo của Giảng viên
Nguyễn Thị Minh Hòa đã giúp em hoàn thiện tiểu luận này. Mặc dù em đã cố gắng
trong việc nghiên cứu, song không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong tiếp tục
được thầy, cô xem xét và chỉ bảo để tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin
chân thành cảm ơn thầy cô.
1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái niệm:
Vấn đề "Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng" những năm
trước đổi mới được thực hiện dưới hình thức "Hợp tác quốc tế về lao động", đến
đầu những năm chín mươi thì hoạt động này được sử dụng bằng thuật ngữ Đưa
người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và trong những
năm gần đây thì sử dụng thuật ngữ Xuất khẩu lao động để chỉ hoạt động chuyển
dịch lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác. Để quản lý hoạt động này, ngày
29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội đã thông qua Luật Người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng
1. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi là
người lao động đi làm việc ở nước ngoài) là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam,
có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước
tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật này.
2. Hợp đồng cung ứng lao động là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa doanh
nghiệp, tổ chức sự nghiệp của Việt Nam với bên nước ngoài về điều kiện, nghĩa vụ
của các bên trong việc cung ứng và tiếp nhận người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài.
3. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là sự thỏa thuận
bằng văn bản giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp với người lao động về quyền,
nghĩa vụ của các bên trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
4. Hợp đồng cá nhân là sự thỏa thuận trực tiếp bằng văn bản giữa người lao
động với bên nước ngoài về việc người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
II. Các hình thức đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:
Theo điều 6 Luật "Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo theo hợp
đồng" thì Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo một trong các hình thức sau
đây:
1. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp
được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;

2. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp
trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài;
3. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình
thức thực tập nâng cao tay nghề;
4. Hợp đồng cá nhân.
2
Luật cũng quy định đối với những doanh nghiệp được phép đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy
phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tính đến ngày 31/12/2007 trong cả nước có 151 doanh nghiệp có giấy phép
hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có 11 doanh
nghiệp tư nhân.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở
NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
I. Đặc điểm tình hình
1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của thị xã Sơn Tây
Thị xã Sơn Tây là một đô thị nhỏ nằm cách Thủ đô Hà Nội khoảng 45km về
phía tây- bắc bao gồm 15 đơn vị hành chính xã, phường có diện tích 11346ha, dân
số (2008) là 124202 người, mật độ dân số thị xã là 10,95 người/ha. Về địa hình là
đồng bằng xen lẫn đồi gò thấp nên không thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp
nên giá trị sản xuất nông nghiệp (năm 2008) chỉ chiếm 8,45% tổng giá trị sản phẩm
của thị xã. Với điều kiện thị xã Sơn Tây từng là trung tâm tỉnh lị (tỉnh Sơn Tây cũ),
với hai dòng sông Hồng, sông Tích Giang (nối với sông Đáy) và các đường quốc lộ
32, 21 chạy qua với các di tích di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đã được nhà
nước xếp hạng, có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ trong đó có những
cơ sở được nhà nước đầu tư từ những năm trước đổi mới là những điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thị xã.
2. Điều kiện lao động của thị xã Sơn Tây

Kết quả điều tra lao động- việc làm năm 2006 đến 2008 cho thấy thi xã Sơn
Tây có dân số trẻ, tốc độ tăng thấp hơn cả nước:
Biểu 1: Quy mô dân số và lao động thị xã Sơn Tây giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: người
Tiêu mục Dân số Lao động Lao động ở nông thôn
Số Lượng Tỉ lệ so với
dân số (%)
Số lương Tỉ lệ so với
lao động (%)
2006 121 491 76539 62,99 41692 54,47
2007 122 921 77563 63.09 42189 54,39
2008 124 202 78619 63.29 42415 53,95
(Nguồn: Phòng Thống kê thị xã Sơn Tây)
Qua biểu quy mô dân số và lao động trên ta thấy thị xã Sơn Tây là đô thị có
dân số trẻ với tỉ lệ người từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế và người thất
nghiệp là khá cao và vẫn có xu hướng gia tăng. Từ năm 1998 thị xã đã hoàn thành
phổ cập Trung học cơ sở, số người trong độ tuổi theo học Trung học phổ thông và
3
tương đương là rất cao, mặt khác trên địa bàn thị xã có một số các trường đào tạo
như trường Cao đẳng công nghiệp Việt- Hung, trường Việt- Ba (nay là cơ sở 2
trường Đại học Lao động Xã hội), Phân viện 2- Học viện Ngân hàng, Trường Trung
cấp kỹ thuật ô tô xe máy (Bộ Quốc phòng), Trường Trung cấp Quân y (Học viện
Quân y). Với đặc điểm dân số trẻ có trình độ văn hóa cao và có điều kiện thuận lợi
để tham gia các lớp đào tạo là một điều kiện vô cùng thuận lợi để nâng cao chất
lượng nguồn lao động là nguồn lực to lớn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
thị xã. Tuy nhiên với mật độ dân số đông, điều kiện tự nhiên không thuận lợi để
phát triển nông nghiệp trong khi số lượng lao động tập trung ở khu vực nông là cao
(khoảng 54% tổng số lao động của thị xã) là một sức ép lớn về giải quyết việc làm
cho khu vực nông thôn, do đó ngoài hướng dịch chuyển lao động sang khu vực công
nghiệp-xây dựng và du lịch-dịch vụ thì đưa người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng (xuất khẩu lao động) cũng là một hướng đi quan trọng đã và đang được chính
quyền thị xã quan tâm phát triển.
II. Thực trạng hoạt động người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng tại thị xã Sơn Tây
1. Kết quả đạt được
1.1. Chính sách hỗ trợ
Nhận thấy việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (xuất khẩu lao
động) là một hướng đi quan trọng đối với thị xã Sơn Tây, chính quyền thị xã đã có
những chính sách quan trọng để hỗ trợ công tác xuất khẩu lao động phát triển. Năm
2005 tại kỳ họp thứ 3 Hội đồng nhân dân khóa 17 thị xã Sơn Tây đã có nghị quyết
chuyên đề về đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Ngày 09/11/2005 Ủy ban nhân
dân thị xã Sơn Tây đã ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo Xuất khẩu lao động do
một đồng chí Phó Chủ tịch thị xã làm Trưởng ban, đồng chí Trưởng phòng Lao
động Thương binh và Xã hội làm Phó ban thường trực cùng với các ủy viên là cán
bộ các phòng, ban thuộc ngành LĐTBXH, Đài truyền thanh, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Đoàn thanh niên thị xã. Ngoài việc tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc Ủy
ban nhân dân các xã, phường, Ban chỉ đạo đã có những chính sách, biện pháp
khuyến khích các doanh nghiệp đến làm dịch vụ xuất khẩu lao động và giúp đỡ
người lao động đi xuất khẩu lao động.
Ban chỉ đạo đã phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây
(nay là Hà Nội) kêu gọi và khuyến khích các công ty làm dịch vụ xuất khẩu lao
động đến địa phương hợp tác, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuê, mượn địa
điểm để tiến hành tuyên truyền, vận động, tuyển chọn người lao động. Xây dựng cơ
chế phối hợp giữa doanh nghiệp, ngân hàng với hội đoàn thể đại diện cho người lao
đông (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên). Đó là thực hiện tuyên truyền
về yêu cầu tiêu chuẩn, nghĩa vụ, chế độ đãi ngộ, thị trường làm việc, thời hạn hợp
đồng cho người lao động thông qua hệ thống đài truyền thanh thị xã và các tổ chức
hội đoàn thể cho hội viên.
4
Về chính sách hỗ trợ về tài chính thì người lao động đi làm việc ở nước ngoài

theo hợp đồng có nhu cầu vay nếu là đối tượng hộ nghèo, hộ chính sách người có
công sẽ vay tại Ngân hàng chính sách xã hội bằng 80% tiền phí, lệ phí phải đóng
nhưng không quá 50 triệu đồng và không phải thế chấp, được Ủy ban nhân dân xã,
phường bảo lãnh với lãi xuất rất thấp (ổn định ở mức 0,65%/tháng); còn các đối
tượng còn lại thì vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với số tiền
được vay tối đa là 70% phí, lệ phí phải đóng (không kể tiền đặt cọc nếu có) và phải
thế chấp tại ngân hàng bằng tài sản như quyền sử dụng đất.
1.2. Công tác tuyển chọn, giáo dục- đào tạo định hướng
Công tác tuyển chọn người lao động để đưa đi làm việc ở nước ngoài được
các tổ chức Hội đoàn thể tiến hành hướng dẫn người lao động có nhu cầu lập hồ sơ
rồi chuyển cho các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động, từ đó doanh
nghiệp trức tiếp tuyển chọn và đào tạo người lao động. Sau quá trình đào tạo nghề
nghiêp, ngoại ngữ, và văn hóa của nước đến thì tiến hành kiểm tra, nếu người lao
động nào đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì doanh nghiệp tiến hành đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng doanh nghiệp đã ký kết với đối tác tại nước
ngoài. Thị trường xuất khẩu lao động tập trung chủ yếu vào Đài Loan, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Malaixia, Các nước Trung Đông. Điều này được thể hiện qua biểu sau:
Biểu2: kết quả công tác xuất khẩu lao động giai đoạn 2006- 2008 tại thị xã
Sơn Tây phân theo thị trường
Đơnvị tính: người
Năm
Tên nước đến
2006 2007 2008
Đài Loan 200 150 80
Hàn Quốc 100 80 90
Malaixia 150 160 120
Nhật Bản 12 27 25
Quatar 100 200 350
Tổng số 562 617 665
(Nguồn: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thị xã Sơn Tây)

Qua biểu trên ta thấy số lượng người đi làm việc ở nước ngoài của thị xã đều
tăng qua các năm với mức tăng từ 8- 9%/năm, nhưng mức tăng có sự khác biệt lớn
giữa các thị trường. Năm 2006 thị trường xuất khẩu lao động của thị xã chủ yếu là
Đài Loan với 200 lao động chiếm tới 36% tổng số lao động đi làm việc ở nước
ngoài, tiếp theo là thị trường Malaixia, Hàn Quốc, Quatar, thị trường Nhật Bản chỉ
chiếm tỉ trọng rất thấp với 12 lao động. Tuy nhiên thị trường Đài Loan đã giảm dần
qua các năm cả về số lượng cũng như tỉ trọng và đến năm 2008 chỉ còn chiếm hơn
5
12% tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài của thị xã trong khi thị trường
Quatar đã tăng nhanh chóng và đến năm 2008 đã chiếm tới hơn 52%, còn các thị
trường khác cũng có biến động nhưng không đáng kể.
Kết quả này cho thấy lao động đi làm việc ở nước ngoài chủ yếu là lao động
phổ thông, còn các thị trường đòi hỏi lao động kỹ thuật cao vẫn còn hạn chế. Cụ thể
lao động đi làm việc ở Đài Loan chủ yếu là phụ nữ giúp việc gia đình, thợ xây, thợ
cơ khí, lái xe chủ yếu thông qua Công ty Thương mại và Xây dựng thuộc Bộ Giao
thông vận tải (VIETTRANCIMEX), thị trường Quatar và các nước Trung Đông,
Malaixia chủ yếu được thực hiện qua Công ty Cung ứng dịch vụ hàng không
(AIRSERCO) với lao động tại Quatar và các nước Trung Đông là thợ xây, mộc cốt
pha, cơ khi xây dựng, lái xe, thị trường Malaixia là thợ may và giúp việc gia đình.
Thị trường Nhật Bản được công ty AIRSERCO thực hiện thông qua hình thức tu
nghiệp sinh với công việc là chế biến hải sản, cơ khí ô tô.
Riêng thị trường Hàn Quốc được thực hiện qua hình thức thi tuyển trực tiếp
bởi Ủy ban Kiểm tra tiếng Hàn thuộc Hiệp hội Ngôn ngữ Hàn Quốc là cơ quan được
chỉ định phối hợp với Cục Quản lý lao động ngoài nước- Bộ Lao động Thương binh
và Xã Hội Việt Nam (QLLĐNN) dựa trên sự phân bổ chỉ tiêu của Cục QLLĐNN
cho các Sở Lao động Thương binh và Xã hội trong đó ưu tiên bộ đội xuất ngũ, đối
tượng hộ nghèo, người có công và các học viên tốt nghiệp các trường nghề của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội.
Với kết quả đạt được bước đầu này đã góp phần to lớn trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động, giúp nhiều hộ gia đình vươn lên thoát nghèo, ổn định

cuộc sống, một số hộ có mức sống khá giả.
2. Một số tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác đưa người đi làm việc ở nước
ngoài còn bộc lộ một số hạn chế nhất định.
2.1 Công tác tổ chức thực hiện:
Có thể nói phần lớn người lao động Việt Nam nói chung đi làm việc ở nước
ngoài đều cần cù chăm chỉ, có ý thức lao động thì vẫn còn một bộ phận lao động
thiếu ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp trong đó có cả các lao động của thị xã
Sơn Tây dẫn đến một số lao động phải về nước trước thời hạn hoặc bị trục xuất về
nước do bỏ trốn ra ngoài làm việc. Vấn đề này chỉ chiếm tỉ lệ rất ít trong số người
lao động xong đã làm ảnh hưởng to lớn đến lĩnh vực xuất khẩu lao động của nước ta
nói chung và thị xã Sơn Tây nói riêng.
2.2 Chính sách hỗ trợ tài chính
Người lao động đi làm việc nước ngoài ở thị xã Sơn Tây chủ yếu tập trung
vào các thị trường phổ thông ngoài yếu tố do trình độ tay nghề, ngoại ngữ hạn chế
của người lao động còn do những thị trường có mức thu nhập cao thì mức phí lệ phí
cũng cao và số tiền đặt cọc khá lớn trong khi người lao động chỉ được vay ở mức
6
hạn chế và không được vay để nộp tiền đặt cọc do vậy rất ít người lao động có thể
tiếp cận được với thị trường cao cấp như Nhật Bản, Mỹ, Australia.
III. Một số giải pháp
Để hoạt động Người đi làm việc ở nước ngoài hiệu quả và bền vững thì ngoài
tăng cường thực hiện các biện pháp đang làm cần bổ sung thêm một số biện pháp
sau:
1. Tăng cường công tác tuyển chọn, giáo dục- đào tạo định hướng người lao
động. Cụ thể đó là:
Hoàn thiện Ban chỉ đạo Xuất khẩu lao động từ thị xã đến các xã, phường để
tăng cường công tác quản lý, giúp đỡ hoạt động xuất khẩu lao động, nắm bắt được
những khó khăn, vướng mắc đối với các doanh nghiệp và người lao động từ đó có
biện pháp giúp đỡ kịp thời, hiệu quả. Giúp các doanh nghiệp tuyên truyền, phổ biến

rộng rãi các chỉ tiêu, điều kiện, tiêu chuẩn để người lao động hiểu biết, nắm chắc từ
đó tuyển chọn được những người lao động có nguyện vọng, đủ tiêu chuẩn, điều
kiện, có ý thức tổ chức kỷ luật.
Tăng cường đào tạo cho người lao động cả về chuyên môn nghề nghiệp cũng
như ngoại ngữ, pháp luật, văn hóa của nước đến để người lao động nhanh chóng bắt
kịp với với môi trường lao động của nước đến.
Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các
trường đào tạo trên địa bàn để tuyển chọn được những người lao động có chất lượng
cao đáp ứng được những thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ,
Australia.
2. Cần tiếp tục hỗ trợ người lao động về tài chính để họ có điều kiện đi làm
việc ở nước ngoài một cách thuận lợi. Như tăng thêm nguồn vốn cho Ngân Hàng
chính sách xã hội để ngoài đối tượng hộ nghèo, người có công thì đối tượng hộ cận
nghèo có thể tiếp cận nguồn vay ưu đãi này và có thể tăng mức vay lên cao hơn để
những đối tượng này có thể tiếp cận được với những thị trường có mức đóng phí, lệ
phí cao nhưng thu nhập cao. Đối với những đối tượng vay từ Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn thì cần tăng thêm mức vay đối với những thị trường
phải đặt cọc để người lao động có thể tiếp cận được với cao cấp này. Tuy nhiên cần
phải tăng tính rằng buộc về trách nhiệm giữa người lao động, gia đình họ với ngân
hàng và doanh nghiệp xuất khẩu lao động để đảm bảo an toàn về vốn và kỷ luật lao
động.
LỜI KẾT
7
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những mối quan tâm nước ta cũng
như thị xã Sơn Tây hiện nay. Việc giải quyết việc làm như thế nào cho có khoa học
và đạt được hiệu quả cả về mặt kinh tế lẫn xã hội là một câu hỏi không chỉ đặt ra đối
với cơ quan chức năng mà đối với tất cả mọi người. Để giải quyết việc làm ngày nay
trong xu thế hội nhập, vấn đề người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng đang được các quốc gia hết sức quan tâm, tạo nên những thị trường sôi động
cho các quốc gia . Hoạt động này cũng được nhà nước ta khuyến khích phát triển

trong vòng 10 năm trở lại đây và đã thu được những thành tựu to lớn. Do vậy, nhằm
tạo sự phát triển mạnh hơn nữa trong hoạt động XKLĐ, cần thiết phải có những giải
pháp cụ thể cho từng địa phương, đại diện là thị xã Sơn Tây như đã trình bày để có
thể hoàn thiện công tác này, cho kết quả hoạt động ngày càng cao, góp phần đẩy
nhanh sự phát triển của đất nước để tiến gần hơn với sự phát triển như vũ bão của
các quốc gia trên thế giới. Đối với nhưng sinh viên chuyên ngành về kinh tế lao
động, điều này lại càng trở nên cấp thiết, chính vì vậy việc nghiên cứu về vấn đề
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là hoàn toàn đúng đắn và
cần thiết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
8
- Giáo trình Thị trường lao động (Đại học Lao động Xã Hội);
- Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Nghị quyết số 03/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thị xã Sơn Tây khóa 17
- Báo cáo kết quả công tác Xuất khẩu lao động (Phòng Lao động Thương binh và
Xã hội thị xã Sơn Tây)
- Báo cáo dân số và lao động (Phòng Thống kê thị xã Sơn Tây)


9

×