Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG VỚI TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.74 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
CHU THỊ QUỲNH
BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG VỚI TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HÒA
Huế, 2012
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Hòa.
Các số liệu và tài liệu trong luận văn này đều trung thực
và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn
Chu Thị Quỳnh
Lời Cảm Ơn
Lời Cảm Ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Hòa - người đã tận tình
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy
cô giáo ở khoa Lý luận chính trị, trường Đại học khoa
học Huế đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, xin gửi lời tri ân đến những người thân


trong gia đình và bạn bè đã luôn ở bên chia sẻ, giúp đỡ,
động viên tôi về tinh thần trong suốt thời gian qua.
Học viên
Chu Thị Quỳnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
5. Đóng góp của luận văn 6
6. Kết cấu của luận văn 6
CHƯƠNG 1 8
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG, KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ 8
1.1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 8
1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 8
1.1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng 8
1.1.1.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng 11
1.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 13
1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng 13
1.1.2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng 15
1.2. Kinh tế và chính trị 17
1.2.1. Khái niệm kinh tế và chính trị 17
1.2.1.1. Khái niệm kinh tế 17

1.2.1.2. Khái niệm chính trị 21
1.2.2. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị 25
1.2.2.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan niệm của các nhà tư tưởng,
các nhà triết học trước Mác 25
1.2.2.2. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin 30
1.2.2.3. Cơ sở hạ tầng với kinh tế, kiến trúc thượng tầng với chính trị 41
CHƯƠNG 2 43
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI
KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY 43
2.1. Yêu cầu khách quan của việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở nước ta hiện nay 43
2.1.1. Cơ sở lý luận 43
2.1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị 48
2.1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị 49
2.1.2. Cơ sở thực tiễn 52
2.2. Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện
nay 57
2.2.1. Định hướng đổi mới về kinh tế 58
2.2.2. Định hướng đổi mới về chính trị 64
2.2.3. Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị 71
2.3. Giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện
nay 72
2.3.1. Giải pháp đổi mới kinh tế 72
2.3.2. Giải pháp đổi mới chính trị 82
2.3.3. Giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị 90
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đã trải qua 25 năm đổi mới, chặng đường đó chưa hẳn là dài
nhưng cũng đã đem lại nhiều sự đổi thay to lớn, nhiều thành tựu trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Một trong những nguyên nhân góp phần tạo nên những thành
công đó chính là do Đảng ta đã nhận thức và vận dụng đúng đắn quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng hay
cụ thể hơn là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình xây dựng, phát
triển đất nước. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội,
chúng thống nhất biện chứng với nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định
còn kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Mỗi cơ sở hạ
tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó đồng thời quy
định tính chất của kiến trúc thượng tầng đó.
Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở
hạ tầng mà nó mang tính độc lập tương đối và có khả năng tác động trở lại rất mạnh
mẽ đối với cơ sở hạ tầng của xã hội. Nếu tác động cùng chiều thì đó sẽ là tác động
tích cực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế còn nếu như là tác động ngược chiều thì
nó sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của sản xuất và xã hội. Khi kiến trúc thượng
tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng đó
cũng được thay thế bằng một kiến trúc thượng tầng mới, tiến bộ hơn.
Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng chính là cơ sở
lý luận cho việc giải quyết mối quan hệ giữa hai lĩnh vực kinh tế và chính trị. Bởi
lẽ, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là sự thể hiện cô đọng cho mối quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong xã hội. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị
là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi và xuyên suốt trong lịch sử phát triển của xã hội có
giai cấp đồng thời quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội đó. Do vậy, mối
quan hệ giữa hai lĩnh vực này luôn luôn đựoc xem là tâm điểm để các nhà lý luận,
các nhà tư tưởng của các thời đại quan tâm và nghiên cứu. Trong mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị thì kinh tế là cái có trước còn chính trị là cái có sau.
2

Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị luôn chịu sự tác động và chi
phối của kinh tế, chính vì thế, chính trị không thể tách rời khỏi kinh tế. Tuy nhiên,
chính trị cũng có sự tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế, do đó, nếu kinh tế
không phù hợp với chính trị thì sẽ dẫn tới sự bất ổn định, trì trệ thậm chí rối loạn xã
hội. Ngược lại, nếu giữa chúng có sự thống nhất, phù hợp với nhau thì sẽ tạo nên sự
ổn định, phát triển cho xã hội. Có thể thấy, việc nhận thức và xử lý mối quan hệ này
trong thực tiễn ra sao là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của nền kinh tế cũng như chế độ chính trị - xã hội của một đất nước. Xuất phát từ
những đặc điểm trên, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã và đang là vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng trong đường lối cũng như
trong những chủ trương và chính sách mà Ðảng và nhà nước ta đề ra.
Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa thì một trong những vấn đề mà chúng ta cần phải
giải quyết tốt đầu tiên đó chính là mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm
vững và giải quyết tốt trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta” [64,
tr.66], “đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
[28, tr.99].
Với những lý do đó, tác giả quyết định chọn “Biện chứng của cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng với tiến trình đổi mới kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài
Có thể nói, ở nước ta hiện nay mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đang được coi là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt nhất trong tiến trình đổi mới
đất nước. Chính vì lẽ đó, trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, nhiều tác phẩm bàn đến vấn đề này. Cụ thể như: “Chính trị với kinh
tế và sự vận dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của
Vũ Hoàng Giao, Đại học quốc gia Hà Nội, 1996; “Những tư tưởng cơ bản của

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị”, Luận
3
văn thạc sĩ của Phạm Thị Minh Lan, Viện triết học, Hà Nội, 1999; “Quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: Những vấn đề cơ bản của Việt Nam”, Đề tài
khoa học cấp Bộ do PGS.TS. Lương Đình Hải làm chủ nhiệm, Viện Triết học, 2009.
Đề tài làm rõ thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, vạch ra xu hướng vận động và trên cơ sở đó đề xuất một
số nguyên tắc định hướng cho việc kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
“Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam”, Đề tài cấp nhà
nước do GS.TS. Duơng Xuân Ngọc làm chủ nhiệm, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2010. Trong đề tài này, tác giả đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị đồng thời nhấn mạnh kinh tế phát triển là cơ sở đảm bảo vững chắc
cho ổn định chính trị - xã hội và ngược lại sự ổn định chính trị - xã hội là tiền đề,
điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Đề tài cũng cho thấy rõ sự nhận thức, vận
dụng đúng đắn và sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và nhà
nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nhờ đó đã góp phần
giúp đất nước ta giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh
đó, đề tài cũng nêu lên những vấn đề cần chú ý đồng thời mở ra những hướng giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trong thời
gian tới; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc
gia, 2011. Trong tác phẩm này tác giả đã nêu lên những mối quan hệ lớn cần được
giải quyết tốt là mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mối
quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; mối quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nuớc quản lý, nhân dân làm chủ. Trong những mối quan hệ đó

thì mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được tác giả khẳng định là
mối quan hệ “có vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú
trọng nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội
4
của nước ta, vì nó liên quan đến yếu tố kinh tế được xem như nền tảng số một của
sự phát triển, đồng thời, liên quan đến chính trị là yếu tố nhạy cảm nhất, phức tạp
nhất trong đời sống xã hội” [64, tr.52]; “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam” do GS.TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, 2012. Thông qua tác phẩm tác giả trình bày cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng như những nhân tố tác
động và thực trạng giải quyết mối quan hệ đó ở nước ta từ năm 1986 đến nay. Tác
giả cũng đưa ra quan điểm cùng các giải pháp giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.
Ngoài ra, trên các tạp chí Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Lý luận chính trị
cũng có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề trên như: “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay” của Hoàng Minh Đô, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 1, 1992; “ Chính trị với kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
ở nước ta hiện nay” của Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995;
“Tính tất yếu kinh tế và chính trị trong sự hình thành và phát triển của Nhà nước pháp
quyền” của Nguyễn Hữu Khiển, Tạp chí Triết học, số 6, 1997; “Quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam” của Đoàn Quang Thọ, Tạp chí Triết
học, số 2, 1997; “Vấn đề nhận thức và giải quyết mối quan hệ chính trị - kinh tế trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” của Ngô Ngọc Thắng, Tạp chí Triết học, số 4
(167), 2005; “Vận dụng tư tưởng của C.Mác về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta” của Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Cộng sản, số
777, 2007; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị” của
Trần Sĩ Phán, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2, 2007; “Đặc điểm mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam - vấn đề và giải pháp” của Trần Ngọc Hiên, Tạp chí
Cộng sản, số 800, 2009; “Mấy vấn đề về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam hiện nay” của Lương Đình Hải, Tạp chí Triết học, số 7, 2010; “Quan niệm

của Mác - Ăngghen về vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế” của Vũ
Văn Phúc, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, 2011; “Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam” của Trần Thành, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10,
2011; “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là mối quan hệ cơ bản,
cốt lõi” của Dương Phú Hiệp, Tạp chí Cộng sản, số 824, 2011 và một số sách trình
5
bày quan điểm, đường lối của Đảng trong Đại hội XI như: “Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI”; “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong cương lĩnh”của
Trương Giang Long - Trần Hoàng Ngân (chủ biên); “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI”, (2012); “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI”, (2012)
Các tác phẩm, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến và góp phần làm rõ
những khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đồng thời nghiên
cứu tổng kết những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài học về giải quyết mối quan hệ
này ở nước ta trong thời gian qua nhằm tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn
lọc các tác phẩm, công trình nghiên cứu trên, đề tài “Biện chứng của cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng với tiến trình đổi mới kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện
nay” tiếp tục đi sâu nghiên cứu với mong muốn phát triển, bổ sung và làm rõ hơn
nữa vấn đề để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của
tiến trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích này nhiệm vụ của luận văn sẽ là:
- Phân tích làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, giữa chính trị và kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý
luận để giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng công cuộc đổi mới, đưa ra các định hướng
và giải pháp trong tiến trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu
xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
6
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp
chủ yếu như phân tích, tổng hợp, lôgíc và lịch sử trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ tiến trình đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay đồng thời nêu lên định hướng cũng như các giải pháp trong
việc giải quyết tốt mối quan hệ này.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
Triết học và những ai quan tâm, nghiên cứu tới vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 2 chương và 5 tiết, cụ thể:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG,
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng
1.1.1.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
1.1.2. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

1.1.2.2. Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng
1.2. Kinh tế và chính trị
1.2.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
1.2.1.1. Khái niệm kinh tế
1.2.1.2. Khái niệm chính trị
1.2.2. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
1.2.2.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan niệm của các nhà tư
tưởng, các nhà triết học trước Mác
7
1.2.2.2. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin
1.2.2.3. Cơ sở hạ tầng với kinh tế, kiến trúc thượng tầng với chính trị
CHƯƠNG 2. GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH
TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu khách quan của việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay
2.1.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
2.1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
2.2. Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta hiện nay
2.2.1. Định hướng đổi mới kinh tế
2.2.2. Định hướng đổi mới chính trị
2.2.3. Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị
2.3. Giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở nước ta hiện nay
2.3.1. Giải pháp đổi mới kinh tế
2.3.2. Giải pháp đổi mới chính trị

2.3.3. Giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG, KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định. Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của
các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một cơ sở hạ tầng nhất định và nó được hình thành một
cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của loài người. Sở dĩ có thể nói
như vậy là vì quan hệ sản xuất - yếu tố tạo nên cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật
chất tồn tại hoàn toàn độc lập với ý chí và ý thức của con người.
Quan hệ sản xuất là những quan hệ giữa người và người trong quá trình sản
xuất; trao đổi và phân phối của cải vật chất. Con người muốn tồn tại thì trước hết
phải tiến hành hoạt động lao động sản xuất và trong quá trình đó con người không
chỉ thực hiện mối quan hệ với tự nhiên mà còn tạo ra mối quan hệ giữa con nguời
và con người. Hoạt động lao động sản xuất sẽ không thể tiến hành bình thường
được nếu như con người không kết hợp, không hoạt động, làm việc và trao đổi với
nhau. Chính vì thế dù muốn hay không thì con người vẫn phải thực hiện mối quan
hệ giữa con người với nhau cùng với mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để
duy trì hoạt động sản xuất.
Mối quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của bất kỳ cá nhân nào. Vì thế, dù là do con người tạo ra nhưng quan hệ sản xuất
luôn được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và phải tuân
theo những quy luật của sự vận động của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất được
hình thành một cách khách quan, do đó, cơ sở hạ tầng cũng được hình thành một

cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất.
Chính vì vậy, C.Mác đã từng viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn
9
của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát
triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ
sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [9, tr.15].
Trong một xã hội cụ thể thì cơ sở hạ tầng bao gồm trong nó ba loại quan hệ
sản xuất đó là: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản
xuất mầm mống. Như vậy, trong một hình thái kinh tế - xã hội thì ngoài những quan
hệ sản xuất giữ vai trò thống trị của xã hội hiện tại thì còn có tàn dư của những quan
hệ sản xuất ở xã hội trước và mầm mống của những quan hệ sản xuất ở xã hội
tương lai.
Trong những quan hệ sản xuất hình thành nên cơ sở hạ tầng của một xã hội
thì quan hệ sản xuất thống trị luôn luôn là yếu tố giữ vai trò chủ đạo, chi phối và
quyết định đối với các quan hệ sản xuất khác cũng như đối với toàn bộ cơ sở hạ
tầng của xã hội đó. Nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và
được xem là đặc trưng cho bản chất của một cơ sở hạ tầng trong một xã hội cụ thể.
Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất
thì kiểu quan hệ sản xuất thống trị và thành phần kinh tế tương ứng với nó bao giờ
cũng giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản
xuất khác, quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội. Đây chính là cơ sở để Đảng và nhà nước hoạch định ra những chủ
trương, chính sách về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong nền kinh tế đó thì thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng đóng vai trò là nền tảng vững chắc của
nền kinh tế nước ta.
Tuy vậy, trong hệ thống cơ cấu kinh tế thì không chỉ có quan hệ sản xuất

thống trị mà cả những quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng
có những vai trò nhất định. Ở những hình thái kinh tế - xã hội mà cơ sở hạ tầng đã
phát triển thì quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống giữ vai trò
không đáng kể, ngược lại, ở những hình thái kinh tế - xã hội khi cơ sở hạ tầng đang
ở giai đoạn mang tính chất quá độ thì chúng lại có vị trí quan trọng.
10
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất;
quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ trong phân phối sản
phẩm trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất.
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh thì cơ sở hạ tầng phát triển và thống nhất tức là
trong cơ sở hạ tầng đó không chứa đựng sự đối kháng hay mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế giữa các giai cấp, các nhóm xã hội. Trong nền kinh tế lúc bấy giờ, hình thức sở
hữu là sở hữu toàn dân và tập thể; mối quan hệ giữa người và người là hợp tác,
tương trợ lẫn nhau; sản phẩm làm ra được phân phối theo lao động; không còn tồn
tại chế độ bóc lột.
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến sâu sắc và triệt để
đồng thời là một thời kì mang tính chuyển tiếp, do đó, cơ sở hạ tầng được hình
thành vào giai đoạn này chưa mang đầy đủ những đặc trưng của cơ sở hạ tầng xã
hội chủ nghĩa. Nuớc ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội nên cơ sở hạ tầng chúng ta
đang hướng tới xây dựng là cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa với nền tảng là quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Tuy nhiên, do
nước ta đang trong thời kì quá độ hơn thế nữa lại đi lên từ một xuất phát điểm rất
thấp, do vậy, cơ sở hạ tầng lúc này là cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với
những đặc trưng riêng.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải được tiến hành tuần tự từng bước với
những hình thức và quy mô thích hợp nên chưa thể tồn tại duy nhất một chế độ sở
hữu mà cơ cấu kinh tế ở nước ta lúc này phải là nhiều quan hệ sản xuất với nhiều
hình thức sở hữu khác nhau. Quan điểm này được thể hiện qua các kỳ đại hội và
đến đại hội XI Đảng đã nêu lên quan điểm xây dựng quan hệ sản xuất một cách
đúng đắn và đồng bộ trên cả 3 mặt:

Về mặt sở hữu, Đảng ta xác định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta có cả công hữu, tư hữu và tập thể với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan
11
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh.
Về mặt tổ chức và quản lý sản xuất, Đảng ta xác định phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Nền kinh tế đó vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường,
vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Về mặt phân phối, thực hiện phân phối công bằng cả các yếu tố sản xuất, các
cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra. Trong phân phối sản phẩm, chủ yếu
căn cứ vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác; phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội.
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, cơ sở hạ tầng ở nước ta trong giai đoạn này là cơ sở hạ tầng với cơ
cấu kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng của nền kinh tế. Các thành phần kinh tế
này dù khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất nhưng lại cùng thống nhất với nhau
trong nền kinh tế quốc dân. Chúng vừa hợp tác, liên kết lại vừa cạnh tranh với nhau.
Trong những thành phần kinh tế đó thì thành phần kinh tế tương ứng với quan hệ sản
xuất thống trị là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ cơ cấu kinh tế.
Trong Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Những điều trên cho thấy rằng, khái niệm
cơ sở hạ tầng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là cơ sở lý luận cho
chúng ta tiến hành tiến trình đổi mới kinh tế cũng như chính trị ở nước ta hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo cùng với những thiết chế xã hội tương ứng
của chúng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội được hình
thành, xây dựng trên nền tảng của cơ sở hạ tầng nhất định. Kiến trúc thượng tầng
12
bao gồm nhiều yếu tố trong đó mỗi yếu tố lại mang những đặc điểm riêng với
những quy luật phát triển riêng của mình. Mặc dù vậy, các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng không vì thế mà tách rời nhau, trái lại chúng có sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau đồng thời đều được hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng trong đó có những yếu tố có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như chính trị,
pháp quyền nhưng cũng có những yếu tố có quan hệ gián tiếp như triết học, tôn
giáo, nghệ thuật. Kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp thì cũng mang tính
giai cấp. Điều này thể hiện trong sự đối lập và trong cuộc đấu tranh về mặt chính trị -
tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng trong đó đặc trưng là sự thống trị về mặt chính
trị - tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhà nước là bộ phận đóng vai trò quan trọng nhất
trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nó là bộ máy quyền lực của giai
cấp thống trị trong xã hội đó. Chính nhờ có nhà nước mà giai cấp cầm quyền mới
thực hiện được sự thống trị của mình trên tất cả các mặt của đời sống xã hội thông
qua đó có thể bảo vệ và củng cố vững chắc địa vị cũng như quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, ngoài nhà nước và những bộ phận khác đóng vai trò là công cụ của
giai cấp thống trị thì trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp còn
có các yếu tố đối lập với bộ phận trên đó là những tư tưởng, quan điểm cùng những
tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị khác. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, giống như cơ sở hạ tầng thì việc xây dựng kiến trúc thượng tầng cũng

phải được tiến hành một cách tự giác và theo những bước phù hợp.
Những đặc điểm của cơ sở hạ tầng đã quy định đặc trưng của kiến trúc
thượng tầng mà chúng ta đang xây dựng là một kiến trúc thượng tầng với sự nhất
trí cao về chính trị và tinh thần. Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng chính là tiền
đề, điều kiện cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng do đó việc có những chính sách, chủ
trương hợp lí trong phát triển kiến trúc thượng tầng là điều rất quan trọng và mang
tính cấp thiết. Xây dựng và phát triển kinh tế không thể tách rời khỏi những vấn
đề về chính trị, văn hóa, xã hội mà chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại
rất chặt chẽ với nhau. Do đó, cùng với việc đổi mới, đẩy mạnh việc phát triển kinh
tế thì chúng ta cũng đồng thời phải tiến hành đổi mới trên lĩnh vực chính trị, văn
hóa, xã hội.
13
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn luôn coi
trọng mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta
luôn luôn kiên định con đường đi lên chủ xã hội đồng thời lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động; làm cho chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân. Đảng và nhà nước luôn quan tâm, xây dựng nền văn hóa dân tộc,
chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Đảng cũng không ngừng xây dựng, phát triển và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam cùng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng ta cũng
xem việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân trong sạch, vững mạnh là một trong những tiêu chí xác định tiến bộ xã
hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng nhấn mạnh: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ,
làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ trí thức, đạo đức, thể lực và

thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ
thuật ” [28, tr.75].
1.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của một hình
thái kinh tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng đồng thời tác động qua lại lẫn
nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng
còn kiến trúc thượng tầng cũng có sự tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Những nhà duy tâm khi giải thích về nguyên nhân, nguồn gốc của sự vận
động của đời sống kinh tế - xã hội lại thường quy chúng về ý thức tư tưởng hoặc
thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền hay đạo đức. Theo họ quan hệ nhà
nước và pháp luật quyết định quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định sự phát
triển khách quan của xã hội loài người.
14
Không giống như vậy, C.Mác đã từng viết: “Không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái
đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào
ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một
thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý
thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa
các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” [9, tr.14-15].
Như vậy, chủ nghĩa Mác đã phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa
duy tâm đồng thời khẳng định rằng: quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan
hệ vật chất quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư tưởng và các quan hệ xã
hội khác. Trong xã hội, kiến trúc thượng tầng luôn biểu hiện rất đa dạng, phong phú và
phức tạp thậm chí có lúc nó dường như không gắn với cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, về
thực chất thì mọi biểu hiện của kiến trúc thượng tầng đều xuất phát, bắt nguồn từ chính
cơ cấu kinh tế của xã hội.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết
thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương
ứng với nó; tính chất, chiều hướng phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ quyết định tính
chất, chiều hướng phát triển của kiến trúc thượng tầng đó. Trong xã hội có giai cấp,
giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì sẽ giữ địa vị thống trị trong
đời sống chính trị và tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quy
định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong
lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng giai cấp trong lĩnh vực
kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng dù trực tiếp hay gián tiếp thì đều
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quy định. Sự quyết định của cơ sở
hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn ở chỗ khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm
hay muộn sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Sự thay đổi của cơ
sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng là một quá trình hết sức
phức tạp. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp từ hình thái
15
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác mà còn diễn ra trong bản
thân mỗi hình thái.
Sự thay đổi này cũng diễn ra không giống nhau ở các yếu tố, bộ phận của
kiến trúc thượng tầng. Sự khác nhau này thể hiện ở chỗ khi cơ sở hạ tầng thay đổi
thì có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo nhanh chóng như
chính trị, pháp quyền nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo,
nghệ thuật và ngoài ra còn có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Sự
thay đổi của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp thì phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Như vậy, rõ ràng khi “cơ sở kinh tế
thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh
chóng” [9, tr.15].
1.1.2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Mặc dù khẳng định kiến trúc thượng tầng nảy sinh trên cơ sở hạ tầng và do
cơ sở hạ tầng quyết định nhưng chủ nghĩa Mác vẫn luôn nhấn mạnh tính độc lập

tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cùng với các yếu tố cấu thành nó có tính độc lập
tương đối với cái đã sản sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm
thụ động, giản đơn và máy móc mà nó có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối
với cơ sở hạ tầng.
Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có
vai trò đặc biệt quan trọng và có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì nhà
nước là bộ máy quyền lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Chức năng xã
hội của kiến trúc thượng tầng là xây dựng, bảo vệ, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
hiện tồn, chống lại các nguy cơ làm suy yếu và phá hoại chế độ kinh tế - xã hội đó.
Để thực hiện điều đó thì nhà nước chính là nhân tố có vai trò quan trọng vì
nó chi phối và ảnh hưởng đến sự tác động của các yếu tố còn lại của kiến trúc
thượng tầng đến cơ sở hạ tầng cũng như toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Thông
qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp giành chính quyền về tay giai cấp mình và cũng
đồng thời tạo nên cho mình sức mạnh về kinh tế. Sau khi nắm được quyền lực, giai
cấp thống trị không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội để từng bước
thống trị về trên tất cả các lĩnh vực khác.
16
Kinh tế phát triển, nhà nước được tăng cường và củng cố. Nhà nước được
củng cố lại tạo sự vững chắc cho địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. Kiến
trúc thượng tầng sẽ không thể có sự tác động trở lại mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng
nếu không có vai trò của nhà nước với tư cách là một bộ máy của giai cấp thống trị
với hệ thống thể chế, pháp luật và pháp chế hiệu quả. Tuy vậy, trong kiến trúc
thượng tầng thì không chỉ có nhà nước mà toàn bộ các yếu tố, các bộ phận của nó
đều có sự tác động đến cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật cũng đều có sự tác động đến cơ sở kinh tế, tuy nhiên, mỗi yếu tố lại có
vai trò, cách thức tác động khác nhau và theo những cơ chế riêng của mình. Sự tác
động của các yếu tố này đến cơ sở hạ tầng là không hề nhỏ. Sự tác động của kiến
trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng: khi tác động của

kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, lúc đó nó sẽ là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, sự phát triển của xã hội còn
nếu sự tác động đó là ngược chiều thì sẽ tạo thành trở ngại, kìm hãm sự phát triển
của sản xuất cũng như sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Bên cạnh việc tác động đến cơ sở hạ tầng thì giữa các yếu tố, các bộ phận
trong bản thân mỗi kiến trúc thượng tầng cũng có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Trong một hình thái kinh tế - xã hội thì sự vận động của các yếu tố, các bộ phận của
kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau. Có những lúc
giữa các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng nảy sinh mâu thuẫn, sự
không đồng bộ và điều này có thể dẫn tới sự chống đối lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ
phận đó.
Sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, thông qua
nhà nước, có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Trong chủ nghĩa xã hội thì
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu như
không có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì sẽ không thể
hình thành được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Để xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và xây
dựng được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa thì phải có kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa với nhà nước là công cụ đắc lực. Chính vì vậy khi đề cập đến vai trò của
17
nhà nước Ph.Ăngghen đã viết: “Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một
lực lượng kinh tế” [5, tr.739].
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng là rất mạnh mẽ tuy
nhiên sự tác động đó không làm thay đổi được xu hướng phát triển khách quan của
xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội nối tiếp
nhau từ thấp tới cao. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là do
sự tác động của các quy luật khách quan trong đó có quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nếu kiến trúc
thượng tầng đang duy trì bảo vệ cho một quan hệ sản xuất mà quan hệ sản xuất đó
đã trở nên lỗi thời, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất thì lúc đó kiến trúc
thượng tầng cũng trở nên lạc hậu, phản động.

Sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng đó cũng được loại bỏ theo đúng quy luật
phát triển của xã hội đồng thời sẽ được thay thế bằng một kiến trúc thượng tầng mới
tiến bộ hơn. Do vậy, chúng ta không nên tuyệt đối hóa, đề cao vai trò của kiến trúc
thượng tầng đến mức phủ nhận tính tất yếu của sự vận động xã hội, của những quy
luật kinh tế khách quan vì như thế sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng thời
sẽ không thấy được tiến trình khách quan của lịch sử. Kinh tế là lĩnh vực đại diện cho
cơ sở hạ tầng còn chính trị là bộ phận tạo thành quan trọng nhất trong kiến trúc
thượng tầng. Chính vì thế, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng đã đặt cơ sở lý luận khoa học cho việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị.
1.2. Kinh tế và chính trị
1.2.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
1.2.1.1. Khái niệm kinh tế
Đời sống xã hội loài người đã và đang diễn ra rất sôi động trên nhiều lĩnh
vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tinh thần, lĩnh vực xã hội. Trong tất cả
các lĩnh vực đó thì kinh tế là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng nhất đồng thời không
thể thiếu đối với đời sống xã hội loài người. Vậy kinh tế là gì? Trong lịch sử đã
từng có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kinh tế. Kinh tế theo tiếng Hy Lạp là
Oikonomike nghĩa là nghệ thuật tiến hành công việc nội trợ, nghệ thuật quản lý
kinh tế gia đình.
18
Ngày nay, với tư cách là một phạm trù khoa học thì kinh tế theo nghĩa rộng
được hiểu là “hoạt động tạo ra của cải vật chất; là toàn bộ phương thức sản xuất và
trao đổi của một chế độ xã hội; là tổng hòa các quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất, tạo nên kết cấu kinh tế của chế độ xã hội” [64,
tr.52]. Nếu chúng ta hiểu theo một nghĩa hẹp hơn thì kinh tế là toàn bộ các ngành hay
bộ phận của nền kinh tế quốc dân bao gồm cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế.
Trước hết, kinh tế là hoạt động tạo ra của cải vật chất, là cơ sở cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Chúng ta biết rằng ăn, mặc, ở là những nhu cầu
hết sức thiết yếu và không thể thiếu đảm bảo cho sự tồn tại của con người. Để thỏa

mãn những nhu cầu đó thì con người trước hết phải tiến hành hoạt động lao động
sản xuất. Hoạt động lao động sản xuất hay chính hoạt động kinh tế là hoạt động đã
tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn những nhu cầu của con người.
Các hoạt động khác như chính trị, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật chỉ có thể
tiến hành được khi dựa trên nền tảng là hoạt động lao động sản xuất. “Con người
cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh
giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học ”
[11, tr.166]. Chính vì lẽ đó, nếu không tiến hành hoạt động lao động sản xuất thì
con người cũng không thể tiến hành bất cứ một hoạt động nào khác. Vậy, có thể nói
hoạt động kinh tế là hoạt động tạo ra của cải vật chất, đáp ứng những nhu cầu sinh
tồn và phát triển của con người đồng thời cũng là hoạt động cơ bản nhất của đời
sống xã hội.
Kinh tế là hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất mà sản xuất vật chất lại
luôn được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định. Do vậy, kinh tế cũng
chính là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội. Phương
thức sản xuất là cách thức thực hiện quá trình sản xuất vật chất của con người ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một
phương thức sản xuất đặc trưng riêng của mình và chính phương thức sản xuất đó
nói lên sự khác nhau của mỗi thời đại.
Khi phương thức sản xuất thay đổi thì tất cả các mặt của đời sống xã hội cũng
có sự thay đổi căn bản từ kinh tế, chính trị đến tinh thần Sự vận động, phát triển cũng
như sự thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã
19
hội loài người từ thấp đến cao hay nói cách khác lịch sử xã hội loài người chính là lịch
sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất chính là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tuơng ứng với nó.
Bên cạnh việc là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã
hội thì kinh tế còn là tổng hoà của các quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất, bên cạnh việc tạo ra của cải

vật chất cho xã hội thì con người cũng đồng thời thực hiện những mối quan hệ của
mình đó là mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên. C.Mác đã từng viết: “ Muốn sản xuất được, người ta phải có
những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự
nhiên, tức là việc sản xuất ” [8, tr.552].
Hai mối quan hệ này không tách rời nhau mà chúng tồn tại thống nhất với nhau
hình thành nên quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao
động với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Nó biểu hiện mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất
thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người
trong việc cải biến giới tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực
lượng sản xuất bao gồm người lao động với thể lực, kĩ năng lao động, tri thức nhất
định và tư liệu sản xuất trong đó bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động.
Trong quá trình sản xuất con người cũng đồng thời thể hiện mối “quan hệ song
trùng” của mình đó là mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên.
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thể hiện ở lực lượng sản xuất còn
quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình
sản xuất đó. Quan hệ sản xuất bao gồm các mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và phân công lao động, quan hệ
trong phân phối sản phẩm. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì mỗi mặt lại có vai
trò và ý nghĩa riêng của mình tuy nhiên quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất vẫn là
quan hệ cơ bản và đặc trưng cho quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất về tư liệu sản

×