Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vai trò của ngân hàng nhà nước đới với việc thành lập mới các ngân hàng thương mại cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.88 KB, 29 trang )

Lời Nói Đầu.
Năm 2007 đã bắt đầu, nước ta đã tiến thêm một bước dài trên con đường
phát triển kinh tế trong kế hoạch phát triển từ 2000 – 2020. Chúng ta đã chính
thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ những ngày cuối
năm 2006. Sự kiện đó đánh dấu một cơ hội lớn và thách thức lại càng lớn hơn
nữa khi chúng ta phải chấp nhận những luật lệ quốc tế và mở cửa tạo điều kiện
cho các công ty, tập đoàn lớn của thế giới xâm nhập vào thị trường Việt Nam
nhưng cũng là cơ hội cho các Doanh nghiệp trong nước tham gia vào các thị
trường lớn trên thế giới khi các hạn ngạch xuẩt khẩu được rỡ bỏ. Còn một sự
kiện là Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC vào trung tuần
tháng 11 năm 2006. Sự kiện đã thu hút được sự chú ý của toàn thế giới. Qua sự
kiện đó bộ mặt đất nước đã thay đổi khá nhiều trong con mắt nhà đầu tư nước
ngoài. Qua đó họ thấy được những thế mạnh phát triển của đất nước như con
người, môi trường kinh tế, tài nguyên và hơn nữa là có tình hình an ninh, chính
trị ổn định, vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lớn trên thế
giới đầu tư vào Việt Nam.
Theo đánh giá sơ bộ thì có 3 lĩnh vực mà sẽ bị ảnh hưởng sớm nhất đó là lĩnh
vực Ngân hàng, lĩnh vực bán lẻ và lĩnh vực công nghệ bưu chính viễn thông.
Theo đó các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới sẽ đổ một khối lượng vốn rất lớn
vào Việt Nam để đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế thông qua kênh
phân phối chính là các Ngân hàng thương mại ( NHTM). Cùng với đó là sự xuất
hiện của vô số các NHTM nước ngoài xâm nhập vào thị trường tài chính Việt
Nam. Bên cạnh sự xuất hiện của vô số các NHTM của nước ngoài thành lập chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam là sự thành lập của vô số các Ngân
hàng thương mại cổ phần ( NHTMCP) trong nước.
Năm 2006 là một năm phát triển bùng nổ của các NHTM, thị trường chứng
khoán cũng như công ty chứng khoán của các NHTM. Các ngân hàng liên tục
tăng vốn qua niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và góp vốn đầu tư
của các cổ đông. Cuối năm lợi nhuận của các NHTM lớn hơn rất nhiều so với
1
tổng kết của năm 2005. Các NHTM chia lãi cổ tức cũng rất lớn điều đó thu hút


đầu tư của các nhà đầu tư trong nước. Vì vậy năm 2007 hứa hẹn là một năm phát
triển rất nóng của thị trường tài chính trong nước.
Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, với sự gia tăng việc thành lập các Ngân
hàng mới hiện nay. Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) phải có những biện pháp và
những quy định cụ thể để những NHTMCP này có thể phát triển và đứng vững
trong điều kiện sự xâm nhập mạnh mẽ của các Ngân Hàng và các tập đoàn tài
chính mạnh trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những biện pháp đó
NHNN phải có những chính sách hỗ trợ hợp lý phù hợp với những quy định của
Quốc Tế nhằm tăng cường sự phát triển của hệ thống NHTM vững mạnh có khả
năng cạnh tranh ngang hàng với các NH lớn trong khu vực và thế giới. Và một
lý do quan trọng khác là: NHNN phải đưa ra những quy định cụ thể nhằm bảo
vệ quyền lợi của các khách hàng cũng như những quy định chống cạnh tranh
không lành mạnh giữa các Ngân hàng.
Trong khuân khổ một đề án, em xin trình bày những vấn đề chung nhất về sự
thành lập một Ngân hàng mới, và vai trò quản lý của nhà nước, ngân hàng nhà
nước trước tình hình đó. Với đề tài: “Vai trò quản lý của Ngân Hàng nhà nước
đối với việc thành lập mới các Ngân Hàng Thương Mại cổ phần.”. Do hạn chế
về kiến thức, lượng thông tin nên đề án còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận
được sự đóng góp bổ xung của thầy giáo Nguyễn Anh Tuấn G.V hướng dẫn em
làm đề án này để đề án hoàn chỉnh hơn.
2
Phần 1, Lý thuyết về NHTM và thành lập mới một NHTM.
1.1 Khái quát chung về NHTM.
1.1.1 Khái niệm NHTM.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng rất đa dạng, bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển
của nền kinh tế, trong đó ngân hàng thương mại chiếm tỉ trọng lớn nhất với quy
mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết
kiệm lớn nhất trong mọi nền kinh tế. Trong đó, chủ thể là các cá nhân, hộ gia
đình, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng.

Thu nhập từ ngân hàng có khi là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều gia đình,
đối với các Doanh nghiệp thì Ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để
phục vụ cho việc mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây nhà máy, mua sắm trang thiết
bị. Khi các cá nhân, doanh nghiệp cần thanh toán các khoản tiền mua hàng hoá
và dịch vụ họ thường dùng Séc, thẻ tín dung hay tài khoản điện tử....Khi họ cần
những thông tin tài chính, cần tư vấn lập kế hoạch kinh doanh họ sẽ tìm đến
Ngân hàng.
Trong nền kinh tế, Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài
chính quan trọng nhất, ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc bịêt là
các chính sách tiền tệ, vì vậy nhờ Ngân hàng chính phủ có thể ổn định nền kinh
tế bằng các chính sách tiền tệ của mình.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với mọi nền
kinh tế. Để đưa ra được định nghĩa chính xác về ngân hàng là rất khó nhưng có
thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi:” Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán.”
Qua cách tiếp cận Ngân hàng trên phương diện những loại hình mà chúng
cung cấp:” Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
3
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.”
Nhưng thực tế hiện nay, trong nền kinh tế thị trường rất nhiều các dịch vụ
đa dạng của nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng
khoán, công ty môi giới chứng khoán quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm
hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng. Ngược lại,
ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh( các tổ chức tài chính phi
Ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và

môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ
và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
1.1.2 Chức năng của NHTM.
1.1.2.1 Trung gian tài chính.
Như trong phần khái niệm về Ngân hàng thì Ngân hàng là một tổ chức trung
gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự
tiếp xúc với 2 lại chủ thể:
(1) Các cá nhân và các tổ chức có thặng dư trong chi tiêu, khi họ có thu nhập
cao hơn mức tiêu dùng của họ dẫn đến họ có thặng dư ( thường là thặng dư
tiền). Do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
(2) Các cá nhân và các tổ chức bị thâm hụt trong chi tiêu, tức là
đầu tư và tiêu dùng lớn hơn thu nhập của họ, vì vậy họ là những người cần bổ
xung vốn.
Sự tồn tại của 2 loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng.
Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (1) sang nhóm thứ (2) nếu cả 2 cùng
có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa 2
nhóm. Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là làm thế nào để tiền từ nhóm (2) có thể
được đưa về nhóm (1). Những người cần vốn làm sao để có thể tìm được những
người có thặng dư về chi tiêu do giới hạn về thời gian, không gian về quy mô....
Và quan trọng là lấy gì để đảm bảo rằng người có tiền sẽ cho người khác vay
4
tiền. Vì vậy vai trò của Ngân hàng ở đây là trung gian tài chính. Người có tiền sẽ
tin vào Ngân hàng và thông qua ngân hàng để tiền của mình có thể đến đúng địa
chỉ. Và người cần vốn cũng có một địa chỉ để có thể tìm kiếm nguồn vốn thường
xuyên và an toàn.
Trong khi đó, Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro
trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Và thực tế
là các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Một lý do nữa làm cho các
ngân hàng phát triển ổn định và thịnh vượng là họ có khả năng thẩm định thông
tin. Sự phân bổ thông tin không đều và năng lực phân tích thông tin trên thị

trường dẫn đến tình trạng “ thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả
của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng vì ngân hàng
có chuyên môn và các công cụ đánh giá các thông tin để đưa ra khả năng lựa
chọn các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất.
1.1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán.
Trước khi có sự xuất hiện của ngân hàng thì con người vẫn quen với tiền kim
loại như vàng, bạc, kim loại quý...Sau khi có các ngân hàng thợ vàng tạo ra các
giấy nhận nợ với khách hàng. Và khi giấy nhận nợ được ngân hàng phát hành
với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều
người chấp nhận. Như vậy, ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán đầu tiên.
Với nhiều ưu thế, dần dần, giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại là
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó đã trở thành tiền tệ.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời nhu cầu mỗi nước muốn có
đồng tiền riêng đặc trưng cho quốc gia của mình, từ đó việc in tiền tập trung vào
một tổ chức hoặc bộ tài chính hoặc ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt việc
các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc riêng của mình.
1.1.2.3 Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá,
dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
5
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán, như thanh toán bằng Séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp các mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần.
Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử
dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hoá, góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh
toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng

và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3 Các dịch vụ của ngân hàng.
Ngân hàng được coi là một doang nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ cho công
chúng và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải xác định được nhu cầu của xã hội
về những dịch vụ mà mình đưa ra nhằm thực hiện có hiệu quả một cách tối đa.
Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ đầu tiên phải kể đến của ngân hàng là mua bán
ngoại tệ, do nhu cầu của các nhà đầu tư vào Việt Nam cần VNĐ nên họ bán
ngoại tệ của mình, hay những nhà nhập khẩu ở Viêt Nam cần mua hàng hoá
nước ngoài nên cần đổi nội tệ sang ngoại tệ. Hoặc đơn giản hơn là nhu cầu của
các khách du lịch nên họ cần đổi tiền. Ngân hàng đứng ra mua bán từ loại tiền
này sang loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện
nay thì việc mua bán ngoại tệ thường do các ngân hàng lớn thực hiện bởi những
giao dịch như vậy thường có rủi ro cao và cần một trình độ chuyên môn cao.
Nhận tiền gửi:
Ngân hàng luôn luôn cần một lượng tiền lớn để cho vay, do đó ngân hàng
cũng phải huy động được một lượng tiền tương đương với lượng tiền cho vay
đó. Do vậy ngân hàng luôn luôn tích cực trong việc khuyến khích khách hàng
gửi tiền. Ngân hàng nhận tiền gửi của những người có thặng dư chi tiêu với cam
kết sẽ trả đúng hạn. Ngân hàng coi lãi của khoản tiền gửi đó như phần thưởng
6
mà ngân hàng trả cho khách hàng do họ đã hy sinh sự tiêu dùng trong trước mắt
để cho ngân hàng có thể tạm thời dùng số vốn của họ để kinh doanh. Các ngân
hàng phải canh tranh nhau khốc liệt nhằm thu hút sự chú ý, tin tưởng cũng như
quyết định gửi khoản tiền của mình vào một ngân hàng. Hiện tại có rất nhiều
cách để ngân hàng tăng cường thu hút tiền gửi
Ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp Agribank: dự thưởng vàng miếng có chữ A
Hay Ngân hàng ngoại thương có thưởng lãi suất cho các chứng chỉ tiền gửi có
giá trị cao…..
Cho vay:

* Cho vay thương mại:
Ngân hàng cho người mua vay tiền để họ có tiền mua và dự trữ hàng hoá.
* Cho vay tiêu dùng:
Ngân hàng thường không hay cho người tiêu dùng vay tiền vì rủi ro khá cao
nhưng hiện nay do sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay của các ngân hàng nên buộc các ngân hàng phải hướng đến người
tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
* Tài trợ cho dự án:
Bên cạnh các khoản cho vay ngắn hạn và trung hạn thì ngân hàng con cho
vay các khoản vay dài hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong
tài trợ cho các dự án. Tuy rằng loại tài trợ này rủi ro rất cao nhưng lợi nhuận
khổng lồ đã khiếm cho các ngân hàng không thể đứng ngoài cuộc. Thậm chí còn
có các ngân hàng cho vay để đầu tư vào đất, bất động sản.
Bảo quản vật có giá:
Ngày nay do điều kiện thuận lợi là lưu giư tiền cần an ninh tốt nhất nên các
ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, trang sức, đá quý và các vật có giá khác
của khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ đồ và giao lại cho khách
hàng giấy biên nhận. Khách hàng có thể lấy bất cứ lúc nào với tờ giấy biên nhận
của mình nhưng phải trả một khoản phí cho ngân hàng.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
7
Khi các thương gia gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không
chi thực hiện việc bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thanh toán cho
khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không
dùng tiền mặt. Các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng họ có quyền viết giấy
thanh toán cho khách hàng ( Sec) và khách hàng cầm tờ Sec đó đến ngân hàng
và được ngân hàng thanh toán quy ra tiền mặt. Khi ngân hàng mở rộng quy mô,
liên tục gia tăng các chi nhánh tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nhân khi thanh
toán. Vì vậy, càng khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng va nhờ
ngân hàng thanh toán hộ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem

là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng
với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát
triển như uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng máy, điện, thẻ….
Ngoài ra ngân hàng còn có rất nhiều các dịch vụ khác như: Quản lý ngân
quỹ, tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê các thiết bị
trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ
môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch
vụ đại lý.
1.1.4 Các nhân tố tác động tới NHTM.
- Chính phủ thực hiện chính sách giảm bao cấp và can thiệp trực tiếp.
- Sự phát triển chu cầu dịch vụ tài chính.
- Xu hướng đa dạng hoá trong môi trường hội nhập quốc tế.
- Sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Yêu cầu tăng vốn.
- Khả năng “ di chuyển “ của khách hàng làm gia tăng tính nhạy cảm với lãi
xuất của tài sản và nguồn vốn.
- Cách mạng trong công nghệ ngân hàng.
1.2 Cơ sở lý thuyết về thành lập mới một NHTM.
1.2.1 Cơ sở thực tiễn.
8
Trong tình hình thực tế hiện nay, nhu cầu huy động vốn của các Doanh nghiệp
là vô cùng lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Các Doanh nghiệp lớn, có uy tín thường cổ phần hoá, phát hành cổ phiếu
hay tự huy động vốn nhưng các Doanh nghiệp nhỏ thì không thể làm điều đó
hay chính các Doanh nghiệp lớn cung không thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn của
mình khi tự huy động. Vì vậy các Doanh nghiệp đương nhiên phải tìm đến ngân
hàng như một cách tìm nguồn tiền thường xuyên và ổn định nhất. Và chính vì
nhu cầu lớn đó đòi hỏi các NHTM phải tăng cường mở rộng quy mô, tăng vốn
hoặc là cơ hội cho các nhà đầu tư, nhà tài chính mở NHTMCP.
Hơn nữa hiện nay các tập đoàn kinh tế lớn trong nước như Tổng công ty bưu

chính viễn thông Việt Nam, Điện lực Việt Nam (EVN) hay tập đoàn dầu khí, tập
đoàn bảo hiểm, Tổng công ty XD Sông đà….. đang đứng trước nhu cầu về vốn
và trong tay cũng có đầy đủ những yêu cầu để thành lập một NHTM CP. Và có
vẻ đi cùng với thành công của NHTM CP Quân Đội thì không sớm thì muộn
những Tổng công ty hay tập đoàn này sẽ nhảy vào lĩnh vực tài chính đầy cơ hội
và hấp dẫn này.
Nhưng hiện nay, chính NHNN cần phải cân nhắc cấp giấy phép thành lập cho
các NHTMCP vì có rất nhiều NHTM mới thành lập có kết quả kinh doanh
không mấy khả quan.Theo “ báo điện tử diendandoanhnghiep” thì họ đã có cuộc
phỏng vấn với thống đốc NHNN Vịêt Nam bài viết có tựa đề “ Hạn chế thành
lập Ngân Hàng mới (13/04/2006)” .
Nội dung bài phỏng vấn: “Ngân hàng nhà nước (NHNN) đang gấp rút xây
dựng quy định về quản trị ngân hàng. Theo chủ trương này, NHNN sẽ hạn
chế thành lập các ngân hàng mới, thay vào đó là củng cố nâng cao chất
lượng của hệ thống ngân hàng đang hoạt động. Để hiểu rõ hơn vấn đề này,
DĐDN đã có cuộc PV Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý.
9
- Hiện nay, một số TCty lớn chuyển sang tập đoàn đều có chủ trương thành lập
ngân hàng mới. Nhưng với quy chế đang soạn thảo, NHNN lại hạn chế thành lập
các ngân hàng mới. Tại sao vậy, thưa Thống đốc?
Chúng ta đã mở cửa cho đối tác nước ngoài, vậy không lý do gì lại khép cửa đối
với các nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, kinh doanh ngân hàng là kinh doanh
có điều kiện, nó gắn liền với sự ổn định an toàn của hệ thống nền kinh tế,vì vậy
không phải ai muốn kinh doanh ngân hàng cũng được. Hai năm vừa qua hoạt
động ngân hàng có lợi nhuận cao, do vậy nhiều người đang muốn nhảy vào kinh
doanh lĩnh vực này mà không hiểu được rằng các ngân hàng đã phải trả giá rất
đắt mới đạt được kết quả hiện nay. Tôi lấy ví dụ không ít ngân hàng như VP
Bank mới được chấm dứt kiểm soát đặc biệt 1 năm qua, rồi Eximbank nợ quá
hạn 1.200 tỷ, đến nay vẫn tồn đọng cần xử lý tiếp, và thậm chí nhiều ngân hàng
không chia lợi tức cổ đông trong suốt 5 - 10 năm. Số ít ngân hàng mới có lợi

nhuận 2 - 3 năm vừa qua tương đối tốt. Vì vậy, muốn kinh doanh ngân hàng
đừng ảo tưởng về lợi nhuận của ngân hàng.
Đối với NHNN, chúng tôi đã phải đóng cửa rút giấy phép, sáp nhập và xử lý rất
nhiều hậu quả nặng nề từ 53 ngân hàng cổ phần xuống còn 36. Hiện nay, chúng
tôi chưa hoàn toàn yên tâm với bộ máy này. Sự phát triển tiếp tục của những tổ
chức tín dụng theo tôi đòi hỏi quan trọng nhất là nguồn nhân lực. Những người
quản trị ngân hàng có kinh nghiệm biết quản lý rủi ro và phải có bộ máy kiểm
soát kiểm tra chặt chẽ mới hạn chế được rủi ro. Do vậy, không phải các tập đoàn
cứ có tiền là có thể kinh doanh ngân hàng được.
- Theo quy chế mà NHNN đang soạn thảo thì các tổ chức muốn thành lập ngân
hàng mới phải có vốn 1.000 tỷ đồng, tương đương với ngân hàng cổ phần cỡ lớn
của VN. Vậy quy định này có quá chặt không, thưa Thống đốc?
Thực ra, việc tái cơ cấu hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước và
cổ phần hiện đang được tiếp tục. Theo đó, hàng loạt tiêu chuẩn quốc tế đang
được NHNN đưa vào để các ngân hàng tuân thủ nhằm mục tiêu xa hơn là hội
10
nhập, chứ không chỉ lành mạnh hoá và nâng cao độ an toàn như trước đây.
Trong bối cảnh việc kiện toàn hệ thống đang còn dở dang thì việc cấp phép
đương nhiên cũng đang được chúng tôi xem xét xây dựng đưa vào quy chế. Hơn
nữa, nếu thành lập thêm các ngân hàng mới thì những tiêu chuẩn cao sẽ được
xem xét áp dụng với mục tiêu là nếu thành lập thêm các tổ chức tín dụng mới thì
những tổ chức này sẽ phải hoạt động có hiệu quả. Một điều kiện quan trọng nhất
- theo tôi đó là vốn của các tổ chức này rất cao. Dự kiến một ngân hàng mới
thành lập sẽ có vốn ít nhất là 1.000 tỷ đồng, tương đương với vốn điều lệ của
ngân hàng cỡ lớn như Sacombank, ACB... Đó là chưa nói tới một số tiêu chuẩn
khác về chất lượng quản trị điều hành, công nghệ...”
Qua bài phỏng vấn trên thì đã lộ rõ được những khó khăn mà một NHTMCP
mới thành lập gặp phải và khó khăn để một tổ chức, tập đoàn có tiềm lực về tài
chính có thể thành lập một NHTM và quản lý tốt hoạt động của các NHTM.
Thực tế cho thấy có rất ít các NHTMCP mới thành lập mà có thể thu hút sự quan

tâm và lòng tin của khách hàng đến gửi tiền và gửi tiết kiệm. Như NHTM CP
Toàn Cầu ( G- Bank) với những tiện ích trong quản lý tài khoản của khách hàng
nhưng với tâm lý người Việt Nam luôn luôn đặt an toàn cho đồng vốn của mình
lên hàng đầu lòng tin cho một NHTMCP mới thành lập chắc chắn không cao.
Hơn nữa đối tượng cho vay của các NHTMCP mới thành lập thường chưa có độ
tin cậy, chưa có mức độ an toàn cần thiết nên dẫn đến tình trạng nợ quá hạn và
các khoản nợ xấu trong các NHTM CP là tương đối lớn và là một vấn đề rất khó
giải quyết trong nay mai.
1.2.2 Cơ sở pháp lý.
NHTM là một tổ chức tín dụng chịu sự quản lý của NHNN và hoạt động như
một doanh nghiệp độc lập. Nên hoạt động của một NHTM phải tuân theo quy
định của NHNN và Luật Doanh nghiệp nhưng trong vấn đề thành lập mới một
NHTM ta chỉ xét theo luật các tổ chức tín dụng.
11

×