Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Những đặc điểm chủ yếu của triết học Trung Quốc cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.13 KB, 30 trang )

TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
MÔN TRIẾT HỌC
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TRIẾT HỌC
I. Triết học và vai trò của nó đối với đời sống xã hội
PHẦN II: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
I. Lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại:
Nghiên cứu lịch sử triết học dùng 2 phương pháp:
 Phương pháp lịch sử
 Phương pháp logic
- Với tư cách là nghiên cứu phản ánh xã hội nói chung.
1. Những đặc điểm chủ yếu của triết học Trung Quốc cổ đại:
Nền lịch sử Trung Quốc cổ đại chủ yếu xuất hiện vào thời Xuân thu-Chiến
quốc kéo dài khoảng 500 năm bắt đầu từ TK7, kết thúc ở TK2 TCN. Đây là thời kỳ
chiếm hữu nô lệ ở phương Đông bắt đầu tan rã, xã hội Trung Quốc cổ đại trải qua
nhiều biến động mạnh mẽ. Thể chế thống nhất của nhà Chu phân hóa trong tình cảnh
chiến tranh và bạo lực, đất nước bị chia cắt thành hàng trăm các quốc gia lớn nhỏ khác
nhau. Trong bối cảnh nói trên các nhà tư tưởng Trung Quốc với tinh thần ái quốc đã
nghiên cứu, khởi thảo, phát triển các hệ thống lý luận, tìm hiểu phản ánh những
nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc biến động, phải tìm ra con đường đưa đất
nước trở lại sự ổn định, thống nhất, thịnh trị.
Nền triết học Trung Quốc cổ đại mang màu sắc của những học thuyết chính
trị xã hội, thể hiện tinh thần nhân bản và cách nhận thức con người và xã hội trên nền
tảng của các giá trị cổ đại phương Đông. Khác với các nhà triết học phương Tây, các
nhà triết học Trung Quốc không trực tiếp nghiên cứu các vấn đề phù hợp với lý luận
triết học, logic học, lý luận nhận thức. Mục đích của các nhà triết học Trung Quốc cổ
đại là hướng đến những mục đích chính trị cụ thể là làm ổn định và thống nhất đất
nước.
Nền triết học Trung Quốc cổ đại không chú trọng nghiên cứu thế giới trong
tính chỉnh thể thống nhất của nó, các nhà triết học ưu tiên nghiên cứu các vấn đề thuộc
về xã hội và con người. Nội dung về các học thuyết về con người của triết học Trung
Quốc cổ đại chỉ chú trọng nghiên cứu, khai thác mặt giá trị tinh thần của con người


trên cơ sở đó phát triển thành những học thuyết triết học thể hiện tinh thần nhân bản
cao cả. Triết học Trung Quốc cổ đại không đặt vấn đề nghiên cứu con người dưới dạng
là một thực thể thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội. Triết học Trung Quốc cổ đại
không trực tiếp nêu lên hệ thống các khái niệm, nguyên lý của triết học với tư cách là
công cụ của nhận thức triết học. Các nhà triết học Trung Quốc cổ đại chỉ sử dụng hệ
thống các khái niệm nói lên một cách gián tiếp nhằm thể hiện ý chí và mục đích chính
trị xã hội của mình.
Nền triết học Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng sâu sắc, phổ biến và toàn diện
đến quá trình hình thành phát triển các tư tưởng triết học của dân tộc Việt Nam chúng
1
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
ta qua các thời kỳ nhưng nền triết học ấy trải qua các triều đại phong kiến ở nước ta,
nó đã được tiếp thu một cách có chọn lọc để hình thành các giá trị tư tưởng, triết lý và
các hình thức tư duy mang đậm phong cách tư duy, mang đậm bản chất văn hóa để
ứng dụng vào hoạt động thực tiễn, quá trình dựng nước và giữ nước.
2. Những tư tưởng triết học cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại:
Nền triết học Trung Quốc cổ đại từ thời Xuân thu-chiến quốc trừ trường phái Âm
dương đã xuất hiện trước đó. Nội dung của các học thuyết triết học Trung Quốc rất
phong phú, đa dạng với nhiều lập trường, quan điểm, quan niệm khác nhau. Nhưng xét
về mặt mục đích, các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại đều thể hiện tinh thần
chính trị cơ bản là tìm con đường cho sự thống nhất đất nước, giải thích các hiện tượng
của thế giới và xã hội trên cơ sở hoạt động của con người. Những thứ nói trên tập
trung phản ánh trong tư tưởng của Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia.
Các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại về cơ bản đều được xây dựng và phát
triển theo những nguyên tắc triết học của Âm dương gia. Các nhà triết học Trung Quốc
cổ đại đã dựa vào những quy luật cơ bản của phép biện chứng âm dương được thể hiện
trong học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tư tưởng về Âm Dương nêu lên quan điểm về
thế giới quan của Âm dương gia được thể hiện theo xu hướng duy vật. Tư tưởng Ngũ
hành phản ánh sự vận động biến đổi, phát triển cũng như sự phát sinh và sự diệt vong
của các sự vật và hiện tượng. Âm dương gia quan niệm 5 yếu tố đầu tiên quy định sự

ra đời, biến đổi, phát triển của vạn vật bao gồm: kim,mộc, thủy, hỏa, thổ. Năm yếu tố
nói trên được gọi là Ngũ Đức, hay 5 thuộc tính cơ bản tiêu biểu cho bản chất của sự
vật và những nhóm sự vật, các lớp sự vật, hiện tượng trong thế giới. Các yếu tố về Ngũ
hành, liên hệ, tác động, quy định, ràng buộc lẫn nhau tạo thành 2 quy luật cơ bản bao
trùm phổ biến trong toàn bộ vũ trụ.
Quy luật Ngũ hành tương sinh phản ánh tính liên hệ vật chất của Ngũ hành trong
đó sự tác động của các yếu tố dẫn đến quá trình bồi đắp, nuôi dưỡng, tạo điều kiện, cơ
hội dẫn đến sự phát triển. Kim sinh Thủy, Thủy dưỡng Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh
Thổ, Thổ sinh Kim.
Âm dương gia cho rằng một khi các yếu tố thuộc về Ngũ hành tác động lẫn nhau
theo chiều tương sinh thì dẫn đến sự phát triển, sự ra đời của cái mới.
Quy luật Ngũ hành tương khắc là các yếu tố thuộc Ngũ hành tác động ức chế, kìm
hãm, ngăn cản lẫn nhau dẫn đến diệt vong. Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc
Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Âm dương gia cho rằng Ngũ hành tương sinh và Ngũ hành tương khắc chi phối
toàn bộ vũ trụ, giới tự nhiên cũng như sự biến đổi của xã hội loài người đều chịu tính
quy định của Ngũ hành tương sinh và Ngũ hành tương khắc. Các nhà triết học Trung
Quốc cổ đại đã sử dụng 2 quy luật cơ bản nói trên để trả lời giải thích cho các hiện
tượng, các biến đổi của xã hội Trung Quốc cổ đại ở thời kỳ Chiến quốc, nguyên nhân
của các cuộc đấu tranh. Nguyên nhân của những giai đoạn thăng trầm của các giai
đoạn lịch sử, các vương triều phong kiến đều là kết quả của sự chi phối của Ngũ hành
2
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
tương sinh và Ngũ hành tương khắc. Trên cơ sở của những sự luận giải ấy, các nhà
triết học Trung Quốc cổ đại đã trình bày các quan điểm triết học của mình được cụ thể
hóa thành những học thuyết chính trị-xã hội, họ đưa ra những giải pháp tạo ra các q
trình hưng thịnh phù hợp với tính chất tương sinh vốn có của thế giới vật chất. Trong
q trình nói trên các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đã nêu lên những quan điểm cơ
bản về xã hội và con người, những quan điểm nói trên được chứa đựng trong những
học thuyết về con người của chủ nghĩa nhân văn.

 Nho gia (Khổng tử)
- Khổng Tử, người nước Lỗ (tỉnh Sơn Đơng bây giờ), 551-449 TCN, tên Khâu, tự
Trọng Ni.
-
Chính trò xã hội xuất phát từ con người, đạo đức suy đồi, bá đạo nổi lên nên ông
muốn tìm ra một học thuyết (ông đi qua 36 nứơc, nhưng không đựơc vua chúa ở các
nước khác chấp nhận). Ông biên sọan các Kinh điển gồm có:
+ Ngũ kinh (kinh thi, kinh thư, kinh lễ, kinh dòch, kinh xuân thu)
+ Tứ thư: lụân ngữ (lời giảng giải của Khổng tử đựơc ghi chép lại) sau đó có
Mạnh tử (đệ tử của Khổng tử) có biên sọan kinh thượng và kinh hạ sau đó nữa có
kinh Đại học, Trung Dung…
* Các giai đọan phát triển của Nho giáo:
- Nho nguyên thủy: (Khổng tử – Mạnh Tử) Mạnh tử phát triển nho giáo của
Khổng tử theo hướng duy tâm, thần bí.
- Tuân tử: phát triển theo hứơng duy vật, cực đoan 2 chiều.
- Hán Nho (thời nhà Hán) có Đổng Trọng Thư
- Tống Nho: đẩy tư tưởng triết học của Khổng tử lên mang tính cực đoan, lý
học đời Tống (Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy, Chu Đôn Di)

Về mặt tư tưởng:
- Đề cao vai trò đạo đức, đi vào chính trò nhưng dùng đạo đức cai trò, người ta còn
gọi thuyết của Khổng tử là học thuyết đạo đức chính trò (nhân sinh)
- Bàn đến vấn đề tư tưởng về thế giới.
+ Trời: đồng nhất với tự nhiên, trời đất 4 mùa, vạn vật sinh sôi, duy vật biện
chứng.
+ Trời là lực lượng siêu nhiên, tối cao, chi phối mọi vật mang yếu tố thần bí
siêu nhiên – mệnh trời (trời đònh mệnh chi phối tất cả).
- Mệnh trời: âm dương
- Mệnh đất: nhu – cương
- Mệnh người: nhân – nghóa

+ Trời – đạo: chi phối mọi vật, siêu tự nhiên (thiên đạo)

Tư tửơng biện chứng:
- Quan niệm quỷ thần: do khí thiên tạo thành, không hiện hữu nhưng không nên
bàn tới, tránh xa ra là tốt nhất (kính nhi viễn chi)

Tư tưởng đạo đức:
3
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
- Quan niệm và đề cao đạo đức, quan niệm ngũ luân ( 5 quan hệ cơ bản chi phối
đời sống con người)
+ quan hệ vua tôi
+ quan hệ cha con
+ quan hệ chồng vợ
+ quan hệ anh em
+ quan hệ bằng hữu (bạn bè)
- Trong đó 3 mối quan hệ cơ bản quan trọng nhất là quan hệ vua tôi, quan hệ cha
con và quan hệ chồng vợ (gọi là tam cương).
- Đức của con người trong mối quan hệ: vua –tôi (vua nhân –tôi trung), cha-con
(cha từ – con hiếu), chồng vợ (chồng nghóa – vợ nghe lời), anh – em (anh lãnh –
em để), bằng hữu (trọng tín).
- Đặt nặng: Trung Hiếu, (tôi phải trung dù vua như thế nào, con phải hiếu dù cha
như thế nào).
- Trong các mối quan hệ trên, hình thành 5 đức thừơng hằng của con ngừơi (ngũ
thừơng): nhân, nghóa, lễ, trí, tín. Một số quan niệm đối với người bề trên là: nhân,
trí, dũng.
- Ở đây Khổng tử nhấn mạnh đến chữ “nhân”, nhân là hạt nhân. Nhân là điều
Khổng tử quan tâm nhiều nhất. Sau này có học thuyết nhân học.
- Nhân:
+ Nói về con người, nóii những cái tốt đẹp, cao quý của con người. Ở đây

Khổng tử nói đến “ái nhân”, yêu thường con ngừơi đặc biệt là người thân của
mình. Hạn chế mà Khổng tử nêu ra “Người quân tử là người có lòng nhân họăc
người không có lòng nhân, nhưng tiểu nhân là người không có lòng nhân”.
+ Người có nhân thì có nghóa, có lễ: Nhân, đạo làm ngừơi, có thể hiểu là bao
gồm cả nghóa, lễ, trí, tín. “Quân tử cốt ở điều nhân, tiểu nhân cốt ở điều lợi”
+ Điều làm vì ngừơi khác: điều mình muốn thì làm cho người, điều mình không
muốn thì đừng làm cho người khác.
- Nhân là hạt nhân còn nghóa, lễ, trí, tín là hình thức biểu hiện của điều nhân.
- Nghóa: là điều mà mình cần phải làm về mặt đạo đức trong ứng xử với ngừơi khác
đó là tinh thần xuất thế của nhà Nho.
- Lễ: quy tắc,lễ nghi, quy phạm, cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ
xã hội – đảm bảo trật tự kỷ cương có trên có dưới. Có khi thể hiện như một điều
luật, công cụ để trò nứơc, đó gọi là lễ trò.
- Trí: Khổng tử: “ Có thể có người có trí nhưng không có nhân nhưng không thể
không có người có điều nhân mà không có trí”.
- Tín: niềm tin, kinh doanh mà không có tín, muốn có giao dòch mà không có tín thì
khó mà tồn tại đựơc.

Theo Khổng tử: là muốn khôi phục lại một xã hội như thời nhà Chu nhưng
không thể dùng bá đạo để cai trò, có thể sẽ thống trò đựơc nhưng nó sẽ có những
4
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
mầm mống phản lại, do vậy phải dùng đạo đức để cai trò.

Học thuyết chính trò:
+ Đề cao vai tròn đạo đức “đức trò”.
+ Chính danh: vò trí, vai trò, xã hội của người có danh phải xứng với thực (danh đi
đôi với thực, danh phản ánh thực). Danh phải tương xứng với thực đó là quan niệm
chính danh đònh phận.
- Danh thấp hơn thực – đánh mất danh.

- Vô danh mà muốn làm cao – ăn cắp danh.
- Danh thực không tương xứng – sinh lọan.
“Danh bất chính, ngôn bất thuận
Ngôn bất thuận, sự bất thành”

Đề cao giáo dục:
- Về nhận thức: qua thực tế thì mới có hiểu biết, đặt nặng giáo dục (Khổng tử)
- Giáo dục: mục đích để thành người có nhân, không phải thăng quan trục lợi mà
để giúp đời, khai sáng con ngừơi, có hiểu biết.
- Giáo dục : phương pháp từ từ từng bứơc từ thấp đến cao (tu – tập – hành).
- Ngừơi quân tử rèn luyện đạo đức: tu thân, tề gia, trò quốc, bình thiên hạ.

Hạn chế:
- Trong giáo dục Khổng tử chỉ đề cao đến giáo dục đạo đức mà không đề cao đến
giáo dục kinh tế, kỹ thuật, lao động chân tay.
- Sau khi Khổng tử đi quan nhiều nứơc nhưng không đựơc trọng dụng nên về mở
trừơng dạy học. ng là người thầy đầu tiên của mọi thế hệ nên đựơc gọi là Chí
thánh tiên sư (Khổng tử) và Mạnh tử thì đựơc gọi là Á thánh tiên sư.
- Nho giáo mặc dù có những hạn chế nhưng mặt tích cực cũng rất nhiều do vậy
chúng ta cũng phải đi theo. Học đạo đức nhưng cũng cần phải học khoa học, kỹ
thuật (tư tửơng hiện nay).
- Đề cao sự tu dưỡng bản thân.

Văn hóa Nho giáo:
- ng bà ta ngày xưa đã tiếp thu Nho giáo dưới lăng kính đạo đức của người Việt
Nam.
 Đạo gia (Lão tử)
- Ngừơi sáng lập: Lão tử.
- Họ Lý, tự là Đạo, sống cùng thời Khổng tử, ngừơi kế thừa là Trang tử.
- Kinh điển: có cuốn Đạo đức Kinh (Lão tử) đựơc dòch ra tiếng Việt, rất nhiều

ngừơi chú giải luận bàn. Trang tử có cuốn Nam Hoa Kinh.

Học thuyết về đạo:
- Có lúc đạo là bản thể của vũ trụ, có trước trời đất, sinh ra trời đất (từ không
đến có – vạn vật, không ở đây đựơc Lão tử cho là Đạo. Từ 0 -1-2-3-…vạn vật, yếu
tố duy tâm, thần bí, có ý kiến duy vật.)
- Đạo là cái huyền vi chi phối mọi vật.
5
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
- Đạo là con đừơng chi phối sự vận động, sự vận hành của vạn vật.
- Đạo là cái vô vi và hữu vi: không thể nhìn thấy, sờ thấy, nhưng nó hiện hữu
chi phối mọi sự vật. Lão tử đề cao vô vi, phê phán hữu vi.

Nhận thức luận:
- Lão tử cho rằng không phải đi khám phá, chỉ cần ở nhà cũng có thể luận ra
đựơc (duy tâm), không cần xem xét thế giới mà biết đựơc mọi vật.

Quan điểm chính trò:
-Lão tử chủ trương tư tửơng “ vô vi nhi trò”, chủ trương nứơc nhỏ dân ít, gà gáy
3 nứơc nghe, của rơi từ sáng đến tối không ai nhặt, nhận ra luật của tự nhiên, sống
hòa mình vào tự nhiên.
Chú ý: Có một trừơng phái theo Đạo Lão (thờ Thái thựơng Lão quân và Lão
tử) luyện đan trừơng sinh bất lão, tiểu trừ yêu ma (không phải là Đạo gia).
 Pháp gia (Hàn Phi tử)
- Người sáng lập là Hàn Phi tử, tác phẩm Hàn Phi tử.
- Kế thừa quan điểm theo hứơng duy vật của Nho gia, thừa nhận tính khách quan
của thế giới. Con người thuộc tính ác, nhu cầu dục vọng nên sinh ra hành vi phạm
pháp.
* Học thuyết Pháp gia:
- Đề cao vai trò pháp luật, tư tửơng “pháp trò”, “thừa biến pháp biến” tư tưởng

duy vật biện chứng.
- Tư tưởng pháp trò: Không phải đến thời Hàn Phi tử mới có mà Hàn Phi tử kế
thừa và tổng hợp tư tưởng pháp trò trứơc đó. Cụ thể
+ Thận Đáo: đề cao thế ( vò thế của ngừơi đề ra và duy trì pháp luật)
+ Thân Bất Hại: đề cao pháp: luật pháp ràng buộc hành vi con người.
+ Thương Ưởng: đề cao thuật, nghệ thuật, phương pháp, thủ đọan để hành
xử pháp luật, mẹo dùng thuật.
- Hàn Phi tử kết hợp chặt chẽ cả 3 yếu tố pháp, thuật và thế, đưa ra hệ thống
pháp luật ràng buộc, phải nghiêm minh nhưng có thuật hành xử.
II. Triết học Ấn Độ cổ đại:
1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội:
- Hình thành vào khỏang giữa thiên niên kỷ thứ 3 TCN
- Điều kiện tự nhiên: thiên nhiên có những vùng phì nhiêu màu mỡ, lại cũng có
những vùng rất khắc nghiệt.
- Điều kiện lòch sử xã hội:
+ Xã hội: lạc hậu, trì trệ như trước đây
+ Phân chia giai cấp: xã hội hình thành các đẳng cấp chính
- Tăng lữ (Bà la môn)
- Quý tộc
- Bình dân tự do
6
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
- Tiện nô, nô lệ
* Con người bò đè ép dưới 2 áp lực (nhân quyền và thần quyền) Từ đó đặt ra các
vấn đề:
+ đặt ra vấn đề là giải thóat con người như thế nào?
+ Con người (nhân dân lao động) bò cùng khổ, không lối thóat
+ Yêu cầu giải thóat con người
+ Tìm cách giải thóat trong đời sống tâm linh.
- Điều kòên văn hóa:

- Lòch sử Ấn Độ đựơc chia qua 3 thời kỳ:
* Thế kỷ 25 TCN~ TK15 TCN: nền văn minh Sông Ấn – văn hóa Happa – chủ
nhân nền văn minh này là Dravida. Thời kỳ nào đã tìm ra đựơc hệ số pi

, tìm ra số
0, khai căn bậc 2 bậc 3.
* Thế kỷ 15TCN ~ TK7 TCN: là thời kỳ văn minh Veda, thời kỳ xâm nhập của
người Arya (tập người du mục Arya) chiếm hữu và hòa nhập vào nền văn hóa
Dravida hình thành một thời kỳ mới (có vò thần Brahman, Atman). Tư tưởng là làm
sao thóat khỏi linh hồn của Atman để con người trở về với linh hồn Brahman.
- Theo kinh Veda: sớm nhất (RagVeda), muộn nhất (Upanisad)
* Thời kỳ TK6 TCN ~TK1 TCN: trào lưu của các nhà triết học cổ đại, hình thành
các trào lưu triết học tôn giáo.
* Triết học Ấn Độ cổ đại hình thành 2 trào lưu lớn (hay 2 hệ thống)
+ Hệ thống chính thống (Atstika) chính thống vì thừa nhận tính đúng đắn của
Kinh Veda. Gồm có trừơng phái: Samkhya, Mimansa, Vaisesika, Ngaya, Yoga,
Vedanta.
+ Hệ thống không chính thống (tà giáo, gọi là Natstika) : không thừa nhận tính
đúng đắn của Kinh Veda. Gồm có cá trừơng phái Lokayata (triệt để theo CNDV),
Jaina, Buddha (Phật giáo)
2. Tư tưởng triết học Phật giáo (Budda)
 Quan niệm về thế giới quan của Phật giáo:
- Thụôc thế giới quan Phật giáo, ra đời vào khỏang cuối TK16 TCN.
- Sáng lập ra từ Thái tử Suddarta (Tất Đạt đa) dòch ra là người đạt đựơc mục
đích.
- Sau khi đắc đạo trở thành Sakyamuni (Thích ca mâu ni) hay là Buddha (Phật,
Bụt)
- Tư tưởng triết học: thế giới quan Phật giáo được trình bày trong kinh sách có
3 bộ: Kinh – Tam tạng (Ba tạng này gồm thiên kinh vạn quyển.)
+ Tạng kinh (ghi lạilời thuyết pháp của Đức phật)

+ Tạng luật (ghi lại các giới luật của người tu hành)
+ Tạng luận (sự luận bàn, luận giải của các học giả, đệ tử của Đức phật)
- Phật giáo nêu rằng tất cả các sự vật không tồn tại thật, không có người sáng
lập ra thế giới, tồn tại có như không, tồn tại ảo, không có người tạo ra thế giới
7
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
(Phật không sáng lập, trong khi người thiên chúa giáo thì cho rằng thế giới và tất cả
các sự vật, vật chất đều do 1 ngừơi đầy quyền năng đó là Chúa Jesus).
- Mọi vật luôn biến đổi, thừơng biến như ảo ảnh, không có gì là thường hằng,
thuộc khái niệm vô thừơng.
- Thế giới là sự giả hợp giữa danh và sắc.
- Vận động theo chu trình: sinh – trụ – dò – diệt, thành – trụ – họai – không.
- Bản thân con người cũng là sự giả hợp của ngũ uẩn: sắc (vật chất), trụ (cảm
giác), tưởng (ấn tượng), thành (tư duy), thức (ý thức) = tụ rồi lại tan, không tồn tại,
không có cái tôi, tư tưởng “vô ngã”
- Tư tưởng triết học: sự vật hiện tượng tồn tại khách quan, mang tính duy vật
chất phát và biện chứng sơ khai.
Quan niệm:
Phật giáo là một trong những triết học lớn của dòng triết học Ấn Độ. Phật giáo
xuất hiện từ thời cổ điển, là thời kỳ xã hội Ấn độ trải qua nhiều cơn biến động mạnh
mẽ, hàng loạt những cuộc đấu tranh chống lại trật tự đẳng cấp của đạo Bàlamơn đòi
thực hiện bình đẳng xã hội. Phật giáo là tư tưởng tiên phong trong phong trào nói trên.
Lý luận về thế giới quan của Phật giáo thể hiện nhiều tư tưởng tiến bộ và khoa học,
cách nhìn về vũ trụ Phật giáo được xây dựng theo lập trường của chủ nghĩa duy vật và
với một phép biện chứng vượt qua sự khái qt của khoa học tự nhiên, Phật giáo
khẳng định khơng có thực thể đầu tiên sáng tạo ra vũ trụ, tồn bộ vũ trụ ln ln ở
trong q trình vận động, biến đổi khơng ngừng(vơ thường). Trong tác phẩm: “Thanh
dung thực luận” của Kinh Phật có đoạn viết: “Có người cố chấp cho là có đại tự thiên
lúc nào cũng bao khắp cả sinh ra chư pháp (vạn vật) thực ra là khơng có gì cả, bản
ngã của sự vật chỉ là: sắc sắc, khơng khơng”.

Quan điểm về vũ trụ Phật giáo cho rằng, vũ trụ là vơ cùng, vơ thủy, vơ chung,
khơng có điểm đầu cũng khơng có điểm kết thúc. Ngun nhân của sự vận động phải
biến đổi của các sự vật hiện tượng được Phật giáo trình bày thơng qua học thuyết
nhân-quả với 3 khái niệm cơ bản là nhân-quả-dun.
Khái niệm nhân được Phật giáo định nghĩa như sau: là cái gì phát động ra ở vật
gây ra một hay nhiều biến đổi được gọi là nhân.
Quả được định nghĩa: cái gì kết hợp lại từ nhân, do nhân sinh ra thì được gọi là
quả.
Dun: khơng phải là yếu tố cố định mà nó là ngẫu hợp của nhiều yếu tố, điều
kiện hồn cảnh tạo điều kiện để cho nhân tạo thành quả. Như vậy dun chính là
phương thức của q trình chuyển hóa từ lượng thành chất của thế giới hiện thực
khách quan.
VD. Hạt là nhân của cây, cây là quả của hạt. Nhưng hạt muốn thành cây thì phải
có các điều kiện: đất, khơng khí, nước, độ ẩm…những điều kiện đó là dun.
Mối quan hệ nhân-quả là mối quan hệ sản sinh, ngun nhân sinh ra kết quả,
ngun nhân như thế nào thì sẽ sinh ra kết quả như thế ấy. Kinh Phật viết: “Nhân nào
8
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
quả ấy, trồng hành được hành, trồng đậu được đậu”.
Mối quan hệ nhân quả bao trùm tồn bộ vũ trụ, ngun nhân tạo ra kết quả, kết
quả đến lượt nó lại trở thành ngun nhân của kết quả khác. Ngun nhân nhờ dun
mà tạo thành kết quả vì vậy Phật giáo còn gọi mối quan hệ nhân-quả là mối quan hệ
nhân dun. Mối quan hệ nhân dun được thực hiện trong vũ trụ vượt ra khỏi giới
hạn khơng gian và thời gian. Chúng kết hợp với nhau trơi chảy như một dòng sơng cho
nên Đạo Phật mới gọi là Thiên hà. Mối quan hệ nói trên diễn ra khơng ngừng, khơng
nghỉ, khơng bao giờ chấm dứt nên Đạo Phật mới gọi là Dun hà mãn.
Tư tưởng vũ trụ của Phật giáo thể hiện lập trường triết học duy vật với cách nhìn
biện chứng tổng thể của vũ trụ là một trong những tư tưởng tiến bộ khoa học của thời
kỳ cổ đại, nó khơng những đã đặt nền móng cho sự phát triển của các xu hướng triết
học duy vật ở Ấn độ mà nó còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các khoa học tự

nhiên và của tồn bộ lịch sử triết học Phương Đơng. Q trình hình thành và phát triển
tư tưởng triết học ở Việt Nam qua các triều đại phong kiến, nhiều nhà tư tưởng ở nước
ta đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của thế giới quan Phật giáo.
 Triết lý nhân sinh của Phật giáo:
-
Ln hồi (samsara) nghĩa là bánh xe có 8 phần là 8 đạo (bát chánh đạo).
- Đời là bể khổ, nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước mắt của đại dương –
mục đích là giải thóat con người khỏi khổ đau trần thế.
- Học thuyết của Phật: giải thóat chúng sinh khỏi bể khổ với 4 chân lý (tứ diệu
đ
ế): khổ đế (khổ triền miên), nhân đế (tập đế),
* Khổ đế: bể khổ có 8 nỗi khổ cơ bản:
+ sinh – lão – bệnh – tử
+ thụ biệt ly (yêu mà bò chia cắt)
+ óan tăng hội (ghét mà ở cùng nhau)
+ sở cầu bất đắc (muốn mà không đựơc)
+ ngũ thụ uẩn (nhu cầu của con người).
* Nhân đế: nỗi khổ là có nguyên nhân (12 nguyên nhân) và có luật nhân quả,
nhưng theo Phật gọi là nhân duyên có 12 (thập nhò nhân duyên)
+ vô minh (ngu dốt)
+ hành (đuổi theo dục vọng, ảo ảnh nhưng cho là thật)
+ thức (ý thức, suy nghó)
+ danh sắc (tinh thần, vật chất)
+ lục nhập (sự kết hợp danh sắc)
+ xúc (có sự tiếp xúc)
+ thụ (có ấn tượng)
+ ái (yêu thích)
+ thư (giữ cho mình)
+ hữu (muốn có)
+ sinh (có vạn vật)

9
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
+ lão tử (già rồi mất đi)
Từ đó: vô minh là cái quyết đònh, do không có ý thức nên rơi vào bể khổ, duy tâm
chủ quan.
* Diệt đế: con ngừơi có nỗi khổ, khi biết được nguyên nhân của cái khổ thì có
thể khóat khỏi bể khổ vì thế Đức Phật tìm đừơng để con người có thể thoát khỏi bể
khổ. Như vậy cái khổ là có thể diệt đựơc.
* Đạo đế: con đường diệt khổ gồm “bát chính đạo”:
- chính kiến (có hiểu biết đúng đắn)
- chính tư duy (suy nghó đúng)
- chính ngữ (lời nói đúng đắn ngay thẳng, trung thực)
- chính nghiệp (giữ cho nghiệp ngay thẳng)
- chính mệnh
- chính tinh tiến (luôn cố gắng, nổ lực tu luyện)
- chính niệm (tin vào con đừơng tu luyện, con đừơng giải thóat sẽ thành
công)
- chính đònh (tập trung cao độ để nghiệm ra được chính đạo, không lệ
thuộc và bò chi phối, xao động bởi các sự vật hiện tựơng xung quanh, xem nó
có mà như không, không tham vọng thì sẽ thóat khổ).
- Từ bát chính đạo – giới ( thóat khỏi những cám dỗ trong nhân gian, không xao
động bởi những thứ xung quanh) , phải đònh thì tuệ (trí tuệ bát nhã) sẽ tiến đến cõi
niết bàn (Nivarna) từ đó mà thoát khỏi khổ đau.
Niết bàn (Nivarna)
- Có người cho rằng đó là cảnh giới đẹp đẽ, an lạc, con người hòa nhập vónh
hằng, không cạnh tranh, có 5 cảnh giới.
- Có quan niệm cho rằng niết bàn không có cảnh giới, chỉ là trạng thái tinh
thần siêu thóat, không vướng bận gì cả, ngay cả trong đời sống này cũng có thể đến
niết bàn vì Phật tại tâm (tu bằng tâm của mình đó chính là niết bàn. Trong trừơng
hợp này Đức Phật thiên về niết bàn này hơn là cảnh giới thật sự) Nhưng tư tưởng

này thuộc duy tâm, siêu hình (do khoa học kém phát triển, còn mang tính duy vật
sơ khai chất phát xen lẫn duy tâm, biện chứng xen lẫn siêu hình)
- Triết học Phật giáo nghiêng về nhân sinh quan, duy tâm.
- Sau khi Đức Phật nhập diệt, giáo đòan Phật giáo chia thành 2 trừơng phái:
+ Thượng tọa bộ: duy trì nguyên bản lời thuyết giáo của Đức Phật.
+ Đại chúng bộ: chủ trương biên sọan lời thuyết pháp của Đức Phật thành
những lời đơn giản cho chúng nhân dễ hiểu.
+ Đến TK2 TCN, lại chia thêm 2 bộ nữa.
- Đầu công nguyên,
+ Đại thừa phật giáo ra đời (quan niệm tự giác giác tha, mình đã giác ngộ
đắc đạo thì phải giúp người khác cùng giác ngộ)
+ Tiểu thừa phật giáo ra đời (quan niệm tự giác tự tha)
10
TRIỂT HỌC- MR LÊ CƠNG LAI
- Hình thành tư tửơng:
+ Ở đâu có nhiều Phật = Đại thừa (nổi bật là Ấn Độ, Trung Quốc)
+ Ở đâu có nhiều La hán = Tiểu thừa
( Ở VN thừa nhận vừa Phật vừa La hán)
- Giáo lý Phật giáo: Phật đến chính từ tột đỉnh quyền lực, tiền tại danh vọng, vợ
con nhưng từ bỏ tất cả để tìm con đường giải thóat chúng sinh. Lấy bản thân mình
làm chứng cho chúng sinh thấy rằng bất cứ ai cũng có nỗi khổ dù giàu hay nghèo.
Bất cứ ai cũng có thể đi tu, đó chính là tư tửơng bát ái, bình đẳng.
- Về mặt nhân sinh: Phật giáo là xuất thế, từ bỏ tất cả để đi tu là tiêu cực.
- TK9 SCN có sự xâm nhập của Hồi giáo tại Ấn Độ nhưng lúc này Phật giáo đã lan
tỏa sang nhiều quốc gia khác như VN, Lào,Campuchia.
- TK12 bò tàn lụi tại Ấn Độ (chính là nơi phát sinh là Phật giáo nhưng rất phát triển
ở các quốc gia khác.
- TK3 ~ TK2: Phật giáo đựơc truyền vào VN từ 2 con đừơng (Nam Tông và Bắc
Tông), cũng có khi đựơc nói rằng đựơc chia bằng 2 con đừơng đó là con đừơng Hồ
Tiêu (người đi buôn đừơng biển khi đi chở theo những người truyền giáo để truyền

đạo) và bằng con đừơng đồng cỏ hay còn gọi là đường tơ lụa (đường bộ) vào VN,
nói chung là đều từ con đừơng buôn bán. Vì vậy con người VN mang tư tưởng bao
dung, vò tha, bát ái. VN quan niệm Phật là 1 vò thần vạn năng, ở mọi nơi trên thế
giới,luôn giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn ở mọi lúc mọi nơi.
- Phật giáo phát triển mạnh ở đời nhà Trần (Trần Thái Tông) theo thiền Trúc Lâm
tiên tư
û.
Triết lý:
Triết lý nhân sinh của Phật giáo là quan niệm về xã hội và con người được xây
dựng trong bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại phản đối chế độ trật tự đẳng cấp của đạo
Bàlamơn. Triết lý nhân sinh của Phật giáo được khởi nguồn từ tư tưởng giải thốt- một
tư tưởng bao trùm tồn bộ tư tưởng triết học và tơn giáo của người Ấn độ. Phật giáo
rất phát triển học thuyết nhân quả để giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội và con
người bằng biện pháp biện chứng nhưng Phật giáo khơng chủ trương giải phóng xã hội
lật đổ ách áp bức bóc lột và sự bất cơng trong xã hội bằng con đường bạo lực. Phật
giáo chủ trương giải phóng xã hội bằng giải phóng đời sống tinh thần thơng qua biện
pháp cải tạo đời sống tâm linh. Phật giáo xây dựng học thuyết thập nhị nhân dun để
phân tích mối quan hệ nhân quả của mọi sự biến đổi của đời sống chúng sinh nói
chung. Phật giáo thừa nhận sự tồn tại độc lập của linh hồn được biểu hiện như là tính
đặc thù của ý thức cá thể đối với mỗi thể xác.
Theo Phật giáo, linh hồn chính là bản ngã là thực thể quyết định sự tồn tại và
biến đổi của mọi cá thể. Linh hồn là sự thể hiện cụ thể của tinh thần vũ trụ (Brahman)
nhưng về mặt hình thức linh hồn là yếu tố hữu lượng chịu sự chi phối của thập nhị
nhân dun. Khi thể xác mất đi, linh hồn tách ra khỏi thể xác, tiếp tục chịu sự quy định
của thập nhị nhân dun được thể hiện cụ thể do quy định của nghiệp chướng, nghiệp
11
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
báo. Vì lẽ đó, đời sống chúng sinh luôn luôn vận động trong vòng luân hồi không thể
thoát ra khỏi các nỗi khổ triền miên. Từ đó Phật giáo chỉ ra chúng sinh cần phải nhận
thức được những sự thật hiển nhiên, những chân lý vốn có ở đời, đó là Tứ diệu đế. Tứ

diệu đế bao gồm tập đế, khổ đế, đạo đế và diệt đế. Phật giáo đặt vấn đề khổ do đâu mà
ra , đồng thời Phật giáo trả lời chính dục vọng đã đưa chúng sinh loài người rơi vào bể
khổ.
Khổ đế là những nổi khổ hiển nhiên tác động trực tiếp đến đời sống chúng sinh.
Tập đế và khổ đế tồn tại một cách hiện thực, khi chúng sinh nhận thức được nó thì
phải tìm cách loại bỏ nó. Từ đó Phật giáo xây dựng Đạo đế bao gồm Bát chính đạo tức
là 8 con đường chúng sinh phải trải nghiệm. Cùng với quá trình trải nghiệm nói trên
Phật đã đề cao vai trò của sự rèn luyện, tu dưỡng, kiên trì phấn đấu thực hiện các công
cụ của sự nghiệp thiền định thông qua các nguyên tắc của chân lý Diệt đế. Nội dung
của Diệt đế được Phật giáo trình bày cụ thể bằng các biện pháp, giải pháp, cách thức
của lục độ (6 phép tu) và ngũ giới (5 điều răn).
Nội dung của tư tưởng Đạo đế và Diệt đế của Phật giáo là một hệ thống lý luận
về triết lý nhân sinh nêu lên những quan niệm và sự lý giải tuyệt vời của Phật giáo về
con người và xã hội. Mặc dù được bắt đầu từ những tiền đề của chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo nhưng Phật giáo đã nêu lên các quan niệm về triết lý nhân sinh của mình bằng
một hệ thống lý luận của chủ nghĩa nhân văn, đề cao giá trị của đạo đức và văn hóa mà
con người của mọi thời đại cần phải hướng tới. Triết lý nhân sinh của Phật giáo là một
học thuyết mang đầy đủ giá trị của chủ nghĩa nhân bản thể hiện rõ nét tính đặc thù
riêng biệt của các dân tộc phương Đông. Vì vậy ảnh hưởng của Phật giáo đã lan tỏa tới
các dân tộc phương Đông chi phối các giá trị hình thành tinh thần của các dân tộc nói
trên trong đó có Việt Nam.
Trải qua các thời đại khác nhau Phật giáo đã đồng hành và hòa quyện các hệ tư
tưởng khác nhau như Nho giáo, Đạo giáo cùng với bản chất văn hóa riêng biệt của dân
tộc Việt Nam, Phật giáo đã tạo thành một bộ phận tư tưởng không thể thiếu được trong
quá trình hình thành ý thức độc lập của dân tộc chúng ta.
III. Triết học cổ điển Đức:
1. Điều kiện kinh tế- xã hội đối với sự ra đời của triết học cổ điển Đức:
Nước Đức vào những năm cuối TK18 đầu TK19, vẫn là một quốc gia lạc hậu cả về
mặt kinh tế và chính trị xã hội. Thể chế quân chủ nước Phổ đã chia cắt nước Đức
thành hàng trăm quốc gia và bang khác nhau. Các đế chế địa phương thống trị nước

Đức trong tình trạng các cứ làm cho xã hội nước Đức ở thời kỳ này càng ngày càng trở
nên lạc hậu, nền kinh tế bị đình đốn, các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp đều phát
triển chậm chạp. Trong khi đó chủ nghĩa tư bản đã được hình thành và phát triển ở các
quốc gia lãnh địa như Pháp, Anh đã làm cho nền kinh tế xã hội ở nước này phát triển
mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng tỏ sự ưu việt của nó trước
sự lỗi thời của phương thức phong kiến. Trong bối cảnh nói trên, ảnh hưởng của chủ
12
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
nghĩa tư sản ở Châu Âu tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của tầng lớp tư sản hình thành
trong lòng của chế độ tư sản của nước Đức. Một bộ phận của tầng lớp trí thức ở nước
Đức đã tiếp thu tư tưởng cách mạng và khoa học, khởi dậy các trào lưu tiến bộ ở xã
hội.
Ở các nước nói trên đồng thời họ trở thành những người chuẩn bị lý luận khoa học
cho sự xuất hiện cuộc cách mạng tư sản ở nước Đức. Nền triết học cổ điển Đức ra đời
trong hoàn cảnh nói trên. Khái niệm “triết học của Đức” dùng để chỉ sự phát triển rực
rỡ của triết học ở Đức cuối TK18 đến giữa TK19. Nền triết học này đã có ảnh hưởng
lớn đối với nền triết học hiện đại, đặc biệt nó trở thành một trong những tiền đề quyết
định sự ra đời của triết học mác xít.
2. Một số đại biểu xuất sắc và những tư tưởng triết học chủ yếu của Đức:
Sự ra đời của nền triết học Đức mang trong đó những nội dung cơ bản của mọi nền
triết học trong lịch sử triết học. Những nội dung cơ bản ấy phù hợp với lĩnh vực thế
giới quan, phép biện chứng và lý luận nhận thức, nó được hình thành trên cơ sở của sự
kế thừa những tinh hoa của nền triết học cổ đại đồng thời nó được giải quyết và trả lời
dựa trên nền tảng của những tài liệu mới nhất của khoa học tự nhiên hiện đại đồng thời
nó cũng đáp ứng được những vấn đề của đời sống thực tiễn xã hội Châu Âu lúc bấy
giờ.
Nhà triết học Cantơ (1724-1804) là người đặt nền móng cho sự ra đời của
triết học Đức. Những tư tưởng triết học của ông về sau này đã được nhà triết học
Heghen coi là “Tập đại thánh” của nền triết học ở Đức. Triết học của Cantơ được chia
làm 2 thời kỳ. Thời kỳ đầu là thời kỳ tiền phê phán, thời kỳ sau là thời kỳ phê phán.

Ở thời kỳ tiền phê phán với tư cách là 1 nhà bác học với những cống hiến xuất sắc
trong các lĩnh vực thiên văn học, cơ học, vật lý học. Ông đã trình bày những giả thiết
lớn về sự hình thành bầu trời và giới tự nhiên. Cantơ cũng chứng minh hiện tượng thủy
triều là biểu hiện của mối quan hệ của sự hấp dẫn quyết định sự tồn tại của mặt trăng
và trái đất. Thông qua thành tựu nói trên ông đã khái quát tư tưởng triết học cơ bản về
tự nhiên và khoa học về lực hút và lực đẩy giữa trái đất và mặt trăng là biểu hiện của
sự thống nhất trong sự mâu thuẩn trong sự tồn tại của sự vật.
Cantơ là người xuất phát từ nguyên lý cơ bản của Niutơn nhưng ông không dừng
lại ở giới hạn Niutơn. Điều đó cho thấy trong lịch sử của triết học và khoa học tự nhiên
Cantơ là người đã vượt ra khỏi giới hạn của những mệnh đề siêu hình để đi tới những
khái niệm cơ bản và đầu tiên của phép biện chứng. Triết học Cantơ ở thời kỳ tiền phê
phán gắn liền với khoa học tự nhiên vì vậy nó trở nên trong sáng, dễ hiểu. Mác đánh
giá ở thời kỳ tiền phê phán Cantơ là một người duy vật.
Thời kỳ phê phán triết học của Cantơ trở nên rắm rối, phức tạp, khó hiểu, chứa
đựng nhiều mâu thuẩn biểu hiện sự xung đột về mặt tư tưởng nhưng chính ở thời kỳ
phê phán triết học Cantơ lại chứa đựng nhiều ý nghĩa to lớn nhất là đối với lĩnh vực lý
luận nhận thức và logic học. Nội dung cơ bản của lý luận nhận thức của Cantơ được
phản ánh trong quan niệm của ông về khái niệm: “Vật tự nó”.
13
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
Trong lý luận nhận thức Cantơ nói có 2 phần là bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất: có tri thức có sẵn (tiên nghiệm-có trước), tồn tại bên ngoài chúng ta
nên Cantơ nói “vật tự nó”. Tồn tại vô hình trong chính hiện thực chúng ta.
+ Hiện tượng (kinh nghiệm): Cantơ xây dựng lý luận nhận thức cho nó. Một thực
tế cho thấy: xã hội càng phát triển, con người càng bất lực.
Trong duy vật chứng minh, có những điều con người chưa biết chứ không có
những điều con người không biết.
Trong lý luận sự vật trong triết học của Cantơ chứa đựng mâu thuẩn trong nhận
thức của ông đó là những quan niệm siêu hình mà ông đã kế thừa những tư tưởng của
Niutơn mà khoa học biện chứng và khoa học tự nhiên đã và đang tìm kiếm. Từ đó

Cantơ cho rằng đối tượng của nhận thức là đối tượng bên ngoài chúng ta nhưng thế
giới hiện thực ấy vừa tồn tại dưới dạng thế giới bản chất với tư cách là những nguyên
lý tối cao của vũ trụ vừa tồn tại dưới dạng thế giới hiện tượng với tư cách là sự tồn tại
của con người. Thế giới hiện tượng đối tượng phản ánh của mọi khoa học tự nhiên.
Trong đó quan hệ nhận thức của con người Cantơ thừa nhận các quy luật khách quan
tác động và chi phối chủ thể nhận thức đồng thời ông lại thừa nhận thế giới hiện thực
nói chung được đặt trong mối quan hệ với thế giới bản chất tồn tại bên ngoài khả năng
của con người (vật tự nó) và chi phối hoạt động của con người.
Thành tựu vĩ đại nhất của nền triết học Đức là phép biện chứng. Người khởi
xướng phát triển phép biện chứng thành 1 khoa học của nhận thức là Cantơ và người
đưa phép biện chứng lên ngang tầm 1 khoa học là nhà triết học Phaderit Heghen
(1770-1831).
IV. Triết học cổ đại Hy Lạp:
1. Điều kiện ra đời và đặc điểm của triết học cổ đại Hy Lạp:
Điều kiện kinh tế-xã hội:
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy lạp kéo dài từ TK11 đến TK8 TCN. Với sự phân
hóa của kết cấu giai cấp cơ bản là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Nền triết học cổ
đại Hy Lạp được hình thành phản ánh nhu cầu trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp nô
lệ và giai cấp chủ nô. Ở thời kỳ đầu giai cấp chủ nô tiến bộ khi quan hệ sản xuất của
nó còn phù hợp với lực lượng sản xuất đang ở giai đoạn phát triển. Vì vậy tư tưởng
triết học của giai cấp về cơ bản phản ánh nhu cầu phát triển nói chung của xã hội Hy
Lạp lúc bấy giờ. Về sau này sự phân hóa của giai cấp chủ nô đã làm tan rã thể chế nhà
nước cộng hòa dẫn đến việc hình thành thể chế chuyên chế. Triết học của giai cấp chủ
nô gắn liền với chủ nghĩa duy tâm và phong trào chủ nghĩa duy vật tiến bộ xuất hiện
trong cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô.
Đặc điểm của nền triết học Hy Lạp là triết học gắn liền với khoa học tự nhiên, các
nhà triết học cổ đại Hy Lạp đồng thời cũng là những nhà khoa học tự nhiên. Triết học
cổ đại Hy lạp luôn luôn thể hiện sự chứng minh bằng các tiền đề lý luận mang tính
chất duy lý và thực nghiệm. Triết học cổ đại Hy lạp luôn luôn thể hiện tính hệ thống,
14

TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
tính logic chặt chẽ và tính trình bày dưới dạng những học thuyết cân đối về bản thể
luận, nhận thức luận, phương pháp luận ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu tự nhiên
và xã hội.
2. Những nội dung cơ bản của triết học cổ đại Hy Lạp:
Trong quá trình khởi thảo các học thuyết triết học mặc dù theo lập trường và
quan điểm triết học khác nhau nhưng về cơ bản các nhà triết học cổ đại Hy lạp kể cả
các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm đều cố gắng phát triển lý luận
triết học dưới dạng một hệ thống bao gồm lý luận về học thuyết tồn tại phản ánh thế
giới quan. Lý luận về học thuyết nhận thức vạch ra con đường, cách thức nhận thức
thế giới từ đó hình thành phương pháp luận của nhận thức mà thành tựu cơ bản của nó
là phép biện chứng. Lý luận về chủ nghĩa nhân sinh là một nội dung quan trọng của
triết học cổ đại Hy Lạp.
Lý luận về bản thể của thế giới với tư cách là trang bị thế giới quan được thể hiện
trong quan điểm của các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm.
Đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trong lĩnh vực thế giới quan bao gồm các
nhà triết học Heracorit, Demoncorit, Loxit. Đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy tâm là
nhà triết học duy tâm Platon với học thuyết khái niệm đã trở thành ngọn nguồn của
triết học Heghen thuộc dòng triết học cổ điển Đức. Ngoài ra còn có quan điểm nhị
nguyên của nhà triết học Aristot, người đặt nền móng cho logic học và lý luận nhận
thức.
Học thuyết về vật chất là 1 trong những thành tựu rực rỡ của các nhà triết học Hy
lạp với những tư tưởng xuất phát về thuyết các yếu tố nhưng bước tiến quan trọng nhất
trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học cổ đại Hy lạp là thuyết nguyên tử của
Loxit và Demoncorit. Nội dung của học thuyết này cho rằng thế giới có cấu tạo từ
nguyên tử, nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được, các nguyên tử
đồng nhất về mặt chất lượng nhưng khác nhau về mặt số lượng và cấu trúc. Về vận
động nguyên tử được quy về vận động cơ học tức là sự dịch chuyển, thay đổi vị trí của
nguyên tử và các vật thể ở trong không gian. Sự hạn chế trong quan niệm về vận động
của vật chất của Loxit và Demoncorit về sau này đã được Epyuya bổ sung bằng tư

tưởng về sự đi chệch đường thẳng của nguyên tử trong vận động. Sự bổ sung nói trên
đã làm cho học thuyết nguyên tử trở nên tiến bộ mang tính chất khoa học và cách
mạng đối với việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội.
Thuyết nguyên tử phản ánh sự tiến bộ trên con đường xây dựng và khái quát
phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật, nó chứa đựng tư duy trừu tượng và trình độ
khái quát tương đối phổ biến về thuộc tính căn bản của 1 lớp sự vật và hiện tượng nào
đó trong thế giới hiện thực. Thuyết nguyên tử của các nhà triết học Hy lạp đã được các
nhà triết học trong lịch sử triết học kế thừa với tư cách là một phạm trù triết học của
chủ nghĩa duy vật, nó thống trị trong nhận thức triết học, trong khoa học tự nhiên kéo
dài đến giai đoạn của Niutơn.
15
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
 Tư tưởng về phép biện chứng
Nền triết học Hy lạp cổ đại là một trong những khởi nguồn của phép biện chứng.
Nhà triết học Heracơrít, một trong những nhà triết học đầu tiên đặt nền móng để xây
dựng lý luận biện chứng về thế giới hiện thực khách quan. Trong quan niệm đẩu tiên
của mình Heracơrít coi biện chứng là một hình thức của tư duy dùng để phản ánh thế
giới hiện thực. Ở thời kỳ đầu khi khoa học tự nhiên đang ở giai đoạn sơ khai quan
niệm về bản thể của thế giới của Heracơrít biểu hiện tính chất trực quan khi ông cho
rằng bản thể của thế giới là ngọn lửa nhưng trong nội dung của lý luận về bản thể đã
xuất hiện tư tưởng biện chứng về thế giới trong đó ông đã đưa ra mệnh đề về sự vận
động và biến đổi. Tính đặc thù của tư tưởng này ở chỗ ông đã thừa nhận sự thống nhất
mâu thuẩn của 2 mặt vận động và đứng im, sinh thành và hiện hữu.
Với Heracơrít sự thống nhất giữa vận động và đứng im là sự thống nhất của
những mặt đối lập, chúng tồn tại không thiếu nhau và thể hiện thông qua nhau. Quan
niệm nói trên về sau này đã được các nhà triết học của các thời đại như Cantơ,
Heghen, Mác đều cho rằng đó là một dự đoán thiên tài, vượt trước sự chứng minh của
các khoa học thực nghiệm. Heracơrít cũng là người đầu tiên thấy được rằng sự thống
nhất của các mặt đối lập đồng thời bao hàm trong nó sự chuyển hóa lẫn nhau của các
mặt đối lập là cơ sở phổ biến và khách quan của mọi sự phát triển.

Heracơrít cũng là người đầu tiên nêu ra mối quan hệ giữa nội dung khách quan
của cái phản ánh với hình thức chủ quan của quá trình phản ánh chính là tư duy của
con người có thể phản ánh phù hợp với đối tượng phản ánh đó là mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức.
Heracơrít cũng là người đầu tiên đã trình bày khái niệm Logos. Logos là sự thống
nhất giữa các yếu tố tạo nên sự vật nhưng nó không phải là sự thống nhất giữa các yếu
tố rời rạc mà là sự thống nhất của những mối liên hệ tất yếu ở trong quá trình các yếu
tố của sự vật thường xuyên liên hệ tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Logos là cái
có tính khách quan bởi vì nó là cái vốn có của sự vật. Heracơrít khẳng định tư duy của
con người có thể phản ánh phù hợp với logos khách quan. Như vậy, nhận thức của tư
duy chính là hình thức của sự phản ánh, nó tồn tại với tư cách là logos chủ quan.
Heracơrít trong khi nêu lên tính thống nhất giữa logos khách quan và logos chủ
quan thì đồng thời ông cũng nêu lên tư tưởng về sự phù hợp tương đối giữa logos
khách quan và logos chủ quan và như vậy nhận thức của con người chỉ là sự tiệm cận
với logos khách quan. Tư tưởng biện chứng của Heracơrít làm nổi bật lên nội dung cơ
bản và đầu tiên của mọi phép biện chứng về sau này. Đó là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển. Nhà
triết học Heghen gọi tư tưởng của Heracơrít là tinh hoa của mọi thời đại và là báu vật
của những người làm biện chứng. Trong quan niệm về sự thống nhất của các mặt đối
lập Heracơrít đã thấy được sự hài hòa đó chỉ có tính tương đối, sự thống nhất của các
mặt đối lập là có giới hạn, trong quá trình vận động biến đổi chúng chuyển hóa đấu
16
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
tranh lẫn nhau làm cho sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời.
Tiếp tục những tư tưởng quý báu về phép biện chứng của Heracơrít về sau này khi
xây dựng các học thuyết về sự vận động khái niệm, nhà triết học Xôcrat và Platon, 2
đại biểu vĩ đại của nền triết học duy tâm đã hướng sự phát triển của phép biện chứng
dưới hình thức duy tâm khách quan. Những đóng góp của Xôcrat và Platon đã được kế
thừa trong triết học của Heghen và về sau này Angghen đã đánh giá những tư tưởng
của biện chứng duy tâm xuất sắc của Xôcrat và Platon đã tạo ra động lực thúc đẩy sự

hình thành và phát triển của tư duy trừu tượng nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển
của các khoa học tự nhiên. Lênin đã tổng kết thành tựu của phép biện chứng của các
nhà triết học cổ đại Hy Lạp như sau, phép biện chứng Hy lạp cổ đại được hiểu là giai
đoạn đầu tiên trong lịch sử nhận thức mang tính biện chứng về sự phát triển của hiện
thực, dù rằng phép biện chứng ở giai đoạn này là phép biện chứng khách quan tự phát
nhưng tính chất uyên bác của nó đã tạo ra sự thúc đẩy cho mọi sự phát triển của mọi
nền triết học và các khoa học cụ thể cần phải hiện đại.
Ngoài những thành tựu cơ bản về phép biện chứng và lý luận về bản thể của thế
giới, các nhà triết học cổ đại Hy Lạp còn có đóng góp về lý luận nhận thức trong đó sự
phân tích về các giai đoạn của nhận thức, các hình thức của nhận thức và đặt chúng
trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau quy định sự phát triển của quá trình nhận
thức. Nhà triết học Aristot, người khởi đầu xây dựng logic học với tư cách là logic
nhận thức ông đã chỉ ra mối quan hệ phụ thuộc và kéo theo tạo ra sự phát triển của
nhận thức như mối quan hệ giữa khái niệm và phán đoán, giữa phán đoán và suy luận
chính là cơ sở hình thành tư duy trừu tượng. Aristot là người đầu tiên đưa ra lý thuyết
về Tam đoạn luận (tư duy 3 đoạn).
VD. Đặt ra tiền đề: mọi kim loại đều dẫn điện
Đồng (Cu) là kim loại
Phản ánh kết luận: Đồng có thể dẫn diện
Đây không phải là thực nghiệm  kết luận là suy luận
Về sau này trên cơ sở của logic học hình thức, các nhà triết học cổ điển Đức đã
phát triển thành logic biện chứng với tư cách là những hình thức nhận thức cao nhất
của tư duy.
Nền triết học cổ đại Hy Lạp chứa đựng những giá trị lý luận có ý nghĩa đối với sự
phát triển của các nền triết học về sau này. Cùng với nền triết học của Ấn độ và Trung
Quốc cổ đại, nền triết học cổ đại Hy Lạp đã góp phần quyết định sự hình thành những
xu hướng, trường phái chủ đạo trong lịch sử triết học qua các thời đại trong đó có nền
triết học Mac xít.
PHẦN III: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I.

Hoàn cảnh ra đời của triết học Mác-Lênin:
 Triết học Mác-Lênin ra đời vào những năm 40 của TK19. Vào thời kỳ này các
điều kiện kinh tế-xã hội, các tiền đề về khoa học tự nhiên và các lý luận đã phát triển
đến trình độ chín muồi tạo điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
17
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
một khuynh hướng duy vật đã được hình thành ở thời kỳ cổ đại được Mác-Angghen
phát triển ở trình độ cao nhất trong điều kiện của lịch sử xã hội hiện đại.
 Về điều kiện kinh tế-xã hội, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tồn tại
và phát triển trên 200 năm bên cạnh những ưu điểm về sự phát triển phương thức sản
xuất, giải phóng con người và xã hội ra khỏi những quan hệ phong kiến chật hẹp đồng
thời nó cũng bắt đầu bộc lộ những mâu thuẩn nội tại nằm ngay trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là sự xung đột giữa lực lượng sản xuất càng ngày càng có
tính xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu tư nhân với
tư liệu sản xuất. Mâu thuẩn nói trên biểu hiện ra bên ngoài xã hội thành các cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Trong
bối cảnh đó Mác đã đưa ra dự báo về khả năng khách quan xuất hiện một phương thức
sản xuất tiến bộ trong tương lai. Sứ mệnh lịch sử được Mác và Angghen kỳ vọng
chính là giai cấp công nhân của các nước Tây Âu. Lý luận của 2 ông là nhằm trang bị
vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản trong sự nghiệp đấu tranh lật đổ phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
 Về tiền đề khoa học tự nhiên, những phát minh quan trọng của khoa học tự
nhiên thuộc các lĩnh vực vật lý, sinh vật học và khoa học tiến hóa đã góp phần khẳng
định quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy là hoàn toàn đúng
đắn. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Robert Maye đã cho thấy tính
thống nhất của thế giới vật chất được biểu hiện sự vận động của vật chất, nguyên nân
của vận động vật chất mang tính khách quan. Vận động của vật chất cũng chính là
phương thức tồn tại của vật chất. Những phát hiện nói trên đã chứng tỏ những quan
niệm siêu hình về thế giới là thiếu sót và sai lầm. Học thuyết về tế bào của Slayden và
Saranne cũng đã chứng minh, thế giới sinh vật có sự thống nhất về mặt cấu trúc và

hình thái thông qua quá trình phát triển của tế bào từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết
tiến hóa của Dacuyn đã đưa lại những quan niệm về nguồn gốc của con người, nó đã
được viết phê phán những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về nguồn gốc của sự
sống.
 Về tiền đề lý luận nền triết học cổ điển Đức- mà trực tiếp là quan điểm duy vật
của Lutich Phoiơbắc đã tạo cho Mac và Angghen niềm tin về khoa học về chủ nghĩa
duy vật. Phép biện chứng lỗi lạc của nhà triết học duy tâm Heghen chính là cơ sở lý
luận thực tiễn cho sự ra đời của phép biện chứng mac-xit. Trong quá trình kế thừa lý
của Phoiơbắc và Heghen, Mac và Angghen đồng thời đã loại bỏ những quan điểm
không phù hợp của các ông. Đó là quan điểm siêu hình về thế giới của Phoiơbắc và thế
giới quan duy tâm của Heghen.
II. Một số chuyên đề của triết học Mác-Lênin:
 Chuyên đề 1: Thế giới quan duy vật biện chứng, cơ sở lý luận của thế giới
quan khoa học.
Khái niệm thế giới quan:
Thế giới quan hiểu theo nghĩa chung nhất là những quan điểm, quan niệm của con
18
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và về vị trí của con người trong
thế giới ấy. Khi con người biết nhận thức thế giới thì nhu cầu cần nhận thức là nhu cầu
tất yếu trong cuộc sống. Vì vậy,lịch sử quá trình nhận thức và cải tạo thế giới cũng
đồng thời là lịch sử của quá trình hình thành của các hình thức thế giới quan khác
nhau. Ở thời kỳ đầu tiên khi trình độ nhận thức về thế giới còn thấp kém, con người bị
phụ thuộc và bị chi phối 1 cách toàn diện về tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện đó
quan niệm về thế giới quan biểu hiện tính chất huyền thoại và thần thoại. Về sau này
khi có tôn giáo xuất hiện, thế giới quan của con người lần lượt chịu sự chi phối của các
quan niệm tôn giáo. Thế giới quan tôn giáo với đặc điểm của nó là biểu hiện niềm tin
mãnh liệt, niềm tin về sức mạnh siêu nhiên đối với thế giới. Đối với con người được
biểu hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng siêu nhiên
ấy.

Biểu hiện phản ánh của tôn giáo là sự phản ánh hư ảo và trong đầu óc của con
người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ với một
chức năng mà con người luôn tìm kiếm và cần thiết đó là chức năng đền bù hư ảo.
Thế giới quan triết học với biểu hiện quan trọng là sự thể hiện bằng hệ thống lý
luận thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu
ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người mà còn
chứng minh các quan điểm, quan niệm ấy bằng lý luận.
Lịch sử của quá trình hình thành, phát triển của các học thuyết, các trường phái
triết học đồng thời cũng là lịch sử của các quá trình hình thành, xây dựng và phát triển
các hình thức thế giới quan khác nhau. Việc xây dựng nội dung, bản chất, quan niệm,
quan điểm của các hình thức thế giới quan phụ thuộc vào những vấn đề sau:
 Việc giải quyết mặt thứ 1 của vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân
chia thành triết học duy vật và duy tâm. Vậy từ đó thế giới quan triết học
cũng được khẳng định hoặc theo lập trường duy vật, hoặc theo lập trường duy
tâm.
 Trình độ phát triển thế giới quan, thế giới quan triết học là 1 hệ thống lý luận
biểu hiện thế giới quan triết học là một hệ thống lý luận biểu hiện khả năng
con người về thế giới ở trong điều kiện và giai đoạn lịch sử nhất định. Điều
đó cho thấy việc khái quát tri thức thế giới quan phụ thuộc vào sự phát triển
của đời sống, của các điều kiện hoàn cảnh xã hội và những trình độ phát triển
nhất định của các khoa học cụ thể. Vì vậy trong lịch sử triết học đã hình
thành những hình thức thế giới quan cơ bản sau:
 thế giới quan duy vật thô sơ chất phát thời cổ đại là hình thức thế giới
quan đầu tiên của chủ nghĩa duy vật, nó được xây dựng trên cơ sở của
các quan điểm trực quan về thế giới.
 thế giới quan duy vật siêu hình là sản phẩm của sự phản ánh thế giới khi
khoa học tự nhiên đặt ra nhiệm vụ phân tích các lĩnh vực của thế giới
dựa trên nền tảng của cơ học cổ điển.
19
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI

 thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả của sự kế thừa những tinh
hoa của các lý luận của thế giới quan duy vật đồng thời nó được chứng
minh bởi những thành tựu mới của khoa học tự nhiên và của thực tiễn.
Đối lập với thế giới quan duy vật là hình thức thế giới quan duy tâm với
những biểu hiện của nó là thế giới quan duy tâm chủ quan và thế giới
quan duy tâm khách quan. Bản chất nói chung của chủ nghĩa duy tâm là
phủ nhận sự tồn tại của thế giới vật chất và đi tìm nguyên nhân của mọi
sự vật, mọi hiện tượng từ các hiện tượng tinh thần.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân
của thế giới quan khoa học:
Quan niệm nhất quán có tính thống nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
quan niệm duy vật triệt để, toàn diện về thế giới. Tính thống nhất và toàn diện về thế
giới được chủ nghĩa duy vật biện chứng quán triệt từ tự nhiên đến xã hội. Quan điểm
nói trên được xây dựng từ nguyên tắc về tính thống nhất từ vật chất của thế giới. Phạm
trù vật chất của triết học Mác-Lênin đã đưa ra một thuộc tính phổ biến khách quan vốn
có của toàn bộ hệ thống vật chất là thực tại khách quan.
 Chuyên đề 2: Phép biện chứng duy vật – Phương pháp luận nhận thức khoa
học và thực tiễn.
Khái niệm phép biện chứng:
Lần đầu tiên được nêu ta trong tư tưởng nhận thức của các nhà triết học cổ đại Hy
Lạp. Đối với nhận thức triết học, phép biện chứng là một hình thức của tư duy dùng để
phản ánh những mối liên hệ, quan hệ, sự tác động qua lại, quy định và ràng buộc lẫn
nhau trong quá trình tồn tại, biến đổi và phát triển sự vật hiện tượng nói chung trong
toàn bộ thế giới. Phép biện chứng được hình thành và phát triển ở thời kỳ cổ đại, các
nhà triết học duy vật phương Đông và phương Tây đều coi phép biện chứng là 1 hình
thức phương pháp luận của nhận thức nhưng ở thời kỳ này lý luận về phép biện chứng
còn hết sức sơ xài chưa được chứng minh bằng thực nghiệm khoa học và hoạt động
thực tiễn. Quan niệm về phép biện chứng của các nhà triết học cổ đại chủ yếu đựa trên
cơ sở của sự phỏng đoán biểu hiện tính trực quan trong quá trình nhận thức. Về sau
này khi các khoa học cụ thể phát triển đến 1 trình độ nhất định làm xuất hiện nhu cầu

phân tích các lĩnh vực cụ thể của thế giới. Dựa trên quan điểm của cơ học cổ điển,
phương pháp siêu hình ra đời thay thế cho phép biện chứng. Đối với nhận thức triết
học, phép siêu hình là 1 hình thức của tư duy, phản ánh sự vật và hiện tượng trong sự
tĩnh đại không có sự vận động biến đổi, không có mối quan hệ, liên hệ, quy định và
ràng buộc lẫn nhau. Phươgn pháp siêu hình thống trị mạnh mẽ trong khoa học tự nhiên
và triết học ở TK17 và nữa đầu TK18. Nó trở nên bất lực trước sự phát triển của các
khoa học vào đầu TK19.
Phương pháp biện chứng trở lại khẳng định vai trò và vị thế của nó khi các khoa
học tự nhiên phát triển lên một bậc cao hơn đặt ra nhiệm vụ mới là nhận thức thế giới
20
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
trong tính chỉnh thể thống nhất của các bộ phận, các quá trình khác nhau của toàn bộ
thế giới vật chất. Người khôi phục và phát triển phép biện chứng thành một hệ thống
lý luận của khoa học phương pháp luận là nhà triết học Heghen nhưng phép biện
chứng của ông lại được thực hiện dưới hình thức duy tâm. Trong quá trình kế thừa di
sản lý luận của Heghen, mác-Angghen đã phủ định thế giới quan duy tâm thần bí của
ông trả lại cho phép biện chứng bản chất vốn có của nó. Đó là phép biện chứng về thế
giới hiện thực khách quan- phép biện chứng duy vật.
Nội dung của phép biện chứng duy vật:
 Nguyên lý cơ bản:
- Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến.
- Phép biện chứng duy vật về sự phát triển.
thống nhất có tính phổ biến, khách quan, tất yếu.
 Hệ thống các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Quy luật về thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (chỉ ra nguồn gốc
bên trong của sự phát triển)
- Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và
ngược lại. (cách thức của sự phát triển)
- Quy luật phủ định của phủ định (khuynh hướng của sự phát triển không
theo đường thẳng mà theo đường xoắn)

 biện chứng của sự phát triển.
 Các cặp phạm trù cơ bản: 6 cặp phạm trù:
- Chung – riêng
- Nguyên nhân – kết quả
- Nội dung – hình thức
- Bản chất – hiện tượng
- Tất nhiên – ngẫu nhiên
- Khả năng – hiện thực
 Chuyên đề 3: Hình thái kinh tế - xã hội.
Những tiền đề xuất phát các học thuyết hình thái kinh tế- xã hội:
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội và giá trị thặng dư trong lĩnh vực kinh tế
chính trị học là 1 trong 2 phát kiến của chủ nghĩa Mác thuộc lĩnh vực triết học và kinh
tế chính trị. Khác với quan niệm của các nhà triết học cổ điển Đức, Mác trong quá
trình nghiên cứu xã hội đã tìm ra điểm xuất phát từ chính cuộc sống hiện thực của xã
hội loài người. Mác khẳng định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do
đó cũng là tiền đề của mọi lịch sử là con người phải sản xuất ra của cải vật chất để
thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đồng thời cũng là nhu cầu cơ bản quyết định sự ra
đời, tồn tại của xã hội đó là những nhu cầu mang tính khách quan. Muốn vậy con
người phải hoạt động để thỏa mãn những nhu cầu đó. Để tồn tại và phát triển con
người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn phải sản xuất ra của cải tinh thần
đồng thời phải sản xuất ra chính bản thân con người và các quan hệ xã hội của nó.
21
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
Các lĩnh vực sản xuất nói trên không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Đó cũng là điểm khác biệt
giữa con người và động vật. Quá trình sản xuất vật chất đã tạo ra phương thức sản xuất
vật chất của con người. Từ trong đời sống sản xuất, Mác đã tìm ra hai mặt không tách
rời nhau 1 cặp là quan hệ giữa người với giới tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất. Về sau này, Mác đã chỉ rõ mặt quan hệ giữa người
với giới tự nhiên chính là lực lượng sản xuất vật chất của xã hội. Mặt quan hệ con

người với con người trong sản xuất được biểu hiện ở quan hệ về sở hữu tư liệu sản
xuất, quan hệ về phân công lao động, quan hệ về hưởng thụ sản phẩm lao động đó
chính là quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là những khái
niệm cơ bản đầu tiên được hình thành và khái quát trong quá trình Các-Mác xây dựng
các cấu trúc còn lại của hình thái kinh tế- xã hội.
Cấu trúc hình thái kinh tế- xã hội:
Trong lịch sử triết học và xã hội học, các nhà tư tưởng trước Mác, trong khi
nghiên cứu về xã hội, họ đều căn cứ vào một tiêu chí, một mặt hoặc một số mặt nào đó
của xã hội đồng thời coi những tiêu chí, những mặt ấy là cơ sở của sự hình thành và
phát triển của xã hội, thậm chí các nhà duy vật trước Mác do bị hạn chế bởi phương
pháp siêu hình mặc dù họ đứng trên lập trường duy vật để giải thích xã hội nhưng xét
đến cùng do quan điểm phiến diện trong cách đánh giá xã hội cho nên quan niệm của
những nhà duy vật ấy cũng đã tự phát rơi vào các quan điểm duy tâm.
Khắc phục những thiếu sót và sai lầm nói trên Mác đã quán triệt quan điểm duy
vật biện chứng trong cách xem xét và đánh giá xã hội. Mác đã sử dụng phương pháp
khoa học đi từ trừu tượng đến cụ thể và trung bình tuyệt đối với 2 nguyên tắc nghiên
cứu là nguyên tắc lịch sử và nguyên tắc logic để xây dựng lý luận triết học của xã hội.
Từ đó ông đã phát biểu quan điểm của mình bằng lý luận về hình thái kinh tế- xã hội
với tư cách là một hệ thống và một cấu trúc hoàn thiện.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội được Mác phát biểu như sau: hình thái kinh
tế- xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và với một kiểu kiến trúc thượng tầng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phân tích cấu trúc của hình thái kinh tế- xã hội:
PTSX quan hệ giữa người với giới tự nhiên trong sản xuất (LLSX)
 quan hệ giữa người với người trong sản xuất (QHSX)
 quan hệ sở hữu TLSX
 quan hệ phân công, điều hành TLSX
 quan hệ phân phối sản phẩm

 Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương
ứng và mối quan hệ nội tại của kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất nhất định.
22
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
 Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành một cơ cấu kinh tế của
xã hội ở trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
 Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, bộ phận quan trọng nhất của kiến
trúc thượng tầng là nhà nước, kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng
không tuyệt đối mà theo 2 mặt:
- Tích cực: tạo điều kiện cơ sở hạ tầng phát triển, bảo vệ cơ sở hạ tầng
- Tiêu cực: kìm hãm
 Có bao nhiêu thành phần kinh tế thì có bấy nhiêu quan hệ sản xuất.
 Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất biến đổi như
thế nào thì quan hệ sản xuất biến đổi như thế ấy.
Biện chứng của lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội được Mác khái quát dưới dạng một phạm trù
của triết học Mác về lịch sử. Quan điểm duy vật được thống nhất với phép biện chứng
là cơ sở lý luận khoa học của quá trình xây dựng lý luận về hình thái kinh tế- xã hội.
Đứng trên quan điểm duy vật Mác đã phân tích những mặt chủ yếu của hình thái kinh
tế- xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng trong
đó lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của một xã hội được biểu hiện một
cách cụ thể ở trong từng giai đoạn lịch sử. Lịch sử phát triển của xã hội loài người xét
cho đến cùng và trước hết là lịch sử của sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Nội
dung của mọi nền sản xuất vật chất được biểu hiện ở khả năng của con người trong
quá trình tạo ra tư liệu sản xuất với tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất. Những yếu tố
nói trên vừa hợp thành lực lượng sản xuất đồng thời là khả năng tạo ra của cải vật chất
trong quá trình tác động vào thế giới tự nhiên.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện nội dung của phương thức
sản xuất và đến lượt nó, mỗi một nội dung nhất định của phương thức sản xuất đòi hỏi

phải có những kiểu nhất định của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất với tư cách là
hình thức của phương thức sản xuất. Nó được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng
trực tiếp của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất
sẽ được xây dựng tương ứng với nó. Mác chỉ rõ, thông thường trong mỗi một giai
đoạn nhất định của nền sản xuất xã hội đều có những kiểu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Những kiểu quan hệ sản xuất ấy phản
ánh trực tiếp những hình thức sản xuất, tư liệu sản xuất khác nhau được thể hiện cụ thể
trong từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy những quan hệ sản xuất của xã hội đã hợp thành
cơ cấu kinh tế của xã hội ở trong từng giai đoạn lịch sử cụ thế. Các quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội chính là cơ sở hạ tầng của xã hội trên cơ sở của cơ sở
hạ tầng xã hội cụ thể người ta sẽ xây dựng những kiểu kiến trúc thượng tầng phù hợp
với nó.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội là toàn bộ những thiết chế của xã hội, những
thiết chế tương ứng và mối quan hệ nội tại phù hợp với kiến trúc thượng tầng được xây
dựng trên cơ sở của những quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng xã hội nhất định.
23
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện
chứng được biểu hiện căn bản như sau:
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng phụ thuộc
vào kiến trúc thượng tầng bởi vì:
+ Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng, vì vậy cơ sở hạ
tầng như thế nào thì sẽ sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng. Khi cơ sở hạ tầng mất
đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo. Những biến đổi căn bản trong
cơ sở hạ tầng sớm muộn cũng sẽ dẫn đến biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. Tính
đối kháng trong kiến trúc thượng tầng là biểu hiện sâu xa của sự xung đột giữa các
kiểu quan hệ sản xuất đối lập nhau ở trong cơ sở hạ tầng.
+ Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng sự phụ
thuộc của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là sự phụ thuộc có tính chất
tương đối so với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối, chức

năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là duy trì và bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó
đồng thời đấu tranh để xóa bỏ những cơ sở hạ tầng đã lỗi thời và lạc hậu.
Bộ phận mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng là nhà nước. Nhà nước tác động
trực tiếp đến cơ sở hạ tầng không chỉ dựa trên hệ tư tưởng mà nó còn dựa vào những
thiết chế vật chất hùng mạnh như quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại tập trung, hệ thống
luật pháp về mặt tư pháp và hành pháp.
Lênin định nghĩa: “Nhà nước là sản phẩm của những mâu thuẩn giai cấp không
thể điều hòa ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào. Những mâu thuẩn xét về mặt khách quan
những mâu thuẩn giai cấp không thể điều hòa được thì xuất hiện nhà nước và sự tồn
tại nhà nước chứng tỏ những mâu thuẩn đó không thể điều hòa được”.
Angghen: “Nhà nước xét về mặt bản chất là bộ máy thống trị của giai cấp bốc lột
đối lập với toàn xã hội.Và vì vậy, không có nhà nước ngoài xã hội. Chừng nào còn nhà
nước thì không còn công bằng tuyệt đối, dân chủ tuyệt đối”.
Như vậy cấu trúc của hình thái kinh tế- xã hội được biểu hiện dưới dạng một hệ
thống trong đó các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế- xã hội không ngừng tác động
qua lại, quy định và ràng buộc lẫn nhau, chúng chịu sự chi phối của những mối quan
hệ cơ bản như: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng của xã hội quyết
định kiến trúc thượng tầng của xã hội. Những quan hệ duy vật nói trên được Mác
nghiên cứu và xem xét trên cơ sở của sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép
biện chứng. Từ đó Mác đã vạch ra những quy luật nội tại thúc đẩy sự phát triển của xã
hội loài người từ thấp lên cao thông qua sự vận động, phát triển và thay thế lẫn nhau từ
thấp lên cao của các hình thái kinh tế- xã hội.
Biểu hiện tập trung của tư tưởng biện chứng về sự vận động và phát triển của xã
hội được Mác chứng minh trong tư tưởng của phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, 2 yếu tố hợp thành phương thức sản xuất. Nội dung của phép biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được Mác chứng minh như sau:
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời của một
24
TRIỂT HỌC- MR LÊ CÔNG LAI
quá trình sản xuất, chúng kết hợp với nhau tạo thành những phương thức sản xuất cụ

thể ở trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương
thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản xuất. Sự thống
nhất giữa chúng là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập nội dung – hình thức. Lực lượng
sản xuất là yếu tố thường xuyên vận động và biến đổi, quan hệ sản xuất lại là yếu tố có
xu hướng ổn định tương đối. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Nó trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất vận động phát triển đến một giai đoạn nào đó thì quan hệ
sản xuất không còn phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hai mặt nói trên
của phương thức sản xuất xung đột lẫn nhau, quan hệ sản xuất trở thành nhân tố lạc
hậu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẩn nói trên mang tính khách
quan đồng thời tạo ra nhu cầu khách quan của sự giải phóng lực lượng sản xuất. Bằng
cách xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh khi
quan hệ sản xuất cũ lỗi thời đã xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng
sản xuất đang phát triển được thiết lập, đồng thời phương thức sản xuất cũ bị xóa bỏ
và phương thức sản xuất mới ra đời. Cùng với quá trình nói trên là hình thái kinh tế-
xã hội cũ bị xóa bỏ và hình thái kinh tế- xã hội mới ra đời phát triển ở trình độ cao
hơn, mọi mặt của đời sống xã hội cũng được phát triển lên một trình độ cao hơn.
Lực lượng sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới trong phương thức sản xuất mới
lại tiếp tục tác động biện chứng lẫn nhau. Đến một giai đoạn nào đó lại dẫn đến sự
xung đột nội dung, mâu thuẩn tiếp tục được giải quyết, phương thức sản xuất cũ lại bị
xóa bỏ và phương thức sản xuất mới ra đời làm cho các hình thái kinh tế- xã hội không
ngừng thay thế lẫn nhau. Mác chỉ rõ: “Tôi coi sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” (trích tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
-1848). Với sự chứng minh nói trên Mác đưa ra niềm tin về sự ra đời của phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa mà hình thái cao nhất của nó là phương thức sản xuất của
chế độ cộng sản văn minh.
Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu hình thái kinh tế- xã hội đối với
việc vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế- xã hội nước ta qua các giai đoạn.
 Chuyên đề 4: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận:

 Phạm trù thực tiễn
Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước Mác hoặc không nghiên cứu phạm
trù thực tiễn (triết học duy tâm) hoặc nghiên cứu phạm trù thực tiễn dưới góc độ của
phương pháp siêu hình (các nhà triết học duy vật trước Mác). Vì vậy trước khi có sự
xuất hiện của chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm về thực tiễn mang tính chất
phiến diện chưa thấy được bản chất của các mối quan hệ vốn có của hoạt động thực
tiễn đồng thời nội dung của lý luận về thực tiễn trong triết học trước Mác còn hết sức
nghèo nàn và sơ xài. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa lại cơ sở khoa học
để Mác xây dựng phạm trù thực tiễn với tư cách là một phạm trù triết học.
25

×