Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đề tài quan hệ giữa hiện tượng bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.44 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4
6. Thời gian và địa bàn nghiên cứu 4
7. Phương pháp nghiên cứu 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
1.2.2. Nhận thức bản thân 25
1.2.3. Mối liên quan giữa bị bắt nạt và nhận thức bản thân [12, tr 14-
15] 29
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BẮT NẠT 35
VÀ NHẬN THỨC BẢN THÂN Ở HỌC SINH 35
2.1. Một số đặc điểm về khách thể và địa bàn nghiên cứu 35
2.2. Quy trình thu thập dữ liệu 38
2.3. Những thống kê sơ bộ 38
2.4. Phân tích kết quả nghiên cứu 41
2.4.1. Hiện tượng bị bắt nạt qua thang đo bắt nạt 41
2.4.2. Nhận thức bản thân qua thang đo CATS 57
Biểu đồ 2.15. Điểm trung bình thang đo bắt nạt tổng và nhận thức
tổng 66
2.4.3. Mối quan hệ giữa bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79
Thang đo bắt nạt 87
Thang đo nhận thức bản thân 87
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BẮT NẠT 35
VÀ NHẬN THỨC BẢN THÂN Ở HỌC SINH 35
Biểu đồ 2.15. Điểm trung bình thang đo bắt nạt tổng và nhận thức
tổng 66


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79
DANH SÁCH BẢNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BẮT NẠT 35
VÀ NHẬN THỨC BẢN THÂN Ở HỌC SINH 35
Biểu đồ 2.15. Điểm trung bình thang đo bắt nạt tổng và nhận thức
tổng 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bắt nạt là hành vi cố ý gây tổn thương về mặt tinh thần hay thể xác diễn ra
trong một mối quan hệ. Bắt nạt được xem là vấn đề nghiêm trọng về mặt cá
nhân, xã hội và học đường, ảnh hưởng tới số lượng không nhỏ học sinh. Hiện
tượng bắt nạt có thể khiến môi trường học đường kém thân thiện, thậm chí kém
an toàn cho học sinh. Bắt nạt cũng có thể có những hậu quả lâu dài, cho cả nạn
nhân (học sinh bị bắt nạt) và thủ phạm (học sinh đi bắt nạt). Ở độ tuổi từ 9 đến
dậy thì, nhận thức phát triển mạnh mẽ và phân thành hai loại chính là nhận thức
tích cực và nhận thức tiêu cực ngày càng rõ rệt (Harter, 1990). Các nghiên cứu
trước đây đã cho thấy mối liên hệ rõ rệt giữa việc bị bắt nạt và sự phát triển của
các mẫu nhận thức tiêu cực về bản thân ở độ tuổi 9 đến dậy thì (ví dụ như nghiên
cứu của Cole, Maxwell, Dukewich, & Yosick, 2010 trên trẻ em Mỹ; nghiên cứu
của Phạm Thị Ánh & Nguyên Thị Si, 2011 trên trẻ em Việt Nam). Tuy vậy chưa
có nghiên cứu về mối liên hệ này ở vị thành niên và thanh niên, đặc biệt là lứa
tuổi sau dậy thì (khoảng 15 đến 18 tuổi).
Nhận thức bản thân có thể được định nghĩa là một hệ thống phức tạp, năng
động, có tính tổ chức về những niềm tin, thái độ và quan niệm học được. Ví dụ
một đứa trẻ tin mình là vô dụng, đứa trẻ đó sẽ nghĩ rằng mình không thể tự làm
được gì, và chỉ tập trung vào những điểm yếu và thất bại của mình, và phủ nhận
những gì mình làm được. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc bị bắt nạt có mối
quan hệ chặt chẽ tới nhiều loại hình nhận thức khác nhau. Cụ thể là, bắt nạt có

liên hệ với những sự gán ghép tiêu cực đối với nạn nhân của nó. Khi một đứa trẻ
bị trêu chọc, và thủ phạm liên tục dùng những lời lẽ hoặc ám chỉ nạn nhân như là
một kẻ xấu xa, yếu, điên, hâm, đần độn, ngu dốt, ngớ ngẩn v.v, từ đó sẽ ảnh
hưởng tới cách nạn nhân nhìn nhận về chính bản thân mình. Trong trường hợp
1
này, nhận thức tiêu cực sẽ tăng lên và nhận thức tích cực giảm xuống. Các kết
quả nghiên cứu cắt dọc hoặc cắt ngang (dài hạn) đều chứng minh mối liên hệ
trên là đúng (Callaghan and Joseph, 1995; Neary & Joseph, 1994; Graham and
Juvonen, 1998) [12, tr. 5].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh thực trạng trẻ bị bắt nạt
cũng như những hậu quả tiêu cực của nó. Còn ở Việt Nam, gần đây, các phương
tiện thông tin đại chúng liên tục đưa tin về rất nhiều trường hợp những học sinh
bị bạn bè cùng trang lứa đánh đập hành hung như báo Dân trí (dantri.com.vn)
ngày 01/04/2009 có bài viết “Bị đánh tập thể, một nữ sinh ngất xỉu”. Không chỉ
đơn thuần bắt nạt, đánh đập, hành hung bạn mà những kẻ bắt nạt còn quay lại
những hình ảnh bắt nạt để tung lên mạng, ngày 12/03/2010 có bài viết: “Thêm
một clip học sinh bị bạn hành hung dã man”, “Sốc với clip nữ sinh đánh đập xé
áo bạn trên phố”. Học sinh bị bắt nạt có thể hình thành ý định trả thù, và khi trả
thù thì rất khốc liệt, đã để lại những hậu quả đáng tiếc như trên trang Pháp luật
của báo Tiền phong (tienphong.vn) ngày 23/02/2008 có đưa vụ án “Học sinh lớp
12 nhờ côn đồ đâm chết bạn học”; trên báo điện tử VnExpress - tin nhanh Việt
Nam (vnexpress.net) ngày 30/09/2009 có bài viết “Học sinh đâm chết bạn vì bị
bắt nạt”; trên báo vtc (vtc.vn) ngày 02/09/2010 cũng có bài viết tương tự “Bị bắt
nạt, nữ sinh lớp 10 rút dao đâm chết bạn”. Hình thức bắt nạt rất đa dạng, ngoài
những hành vi đánh đập, hành hung mà còn có rất nhiều hình thức bắt nạt khác
như tẩy chay, cô lập, nói xấu sau lưng, lấy trộm đồ hay bóc lột tiền bạc và tài sản
của người bị bắt nạt. Trên báo Dân trí (dantri.com.vn) ngày 03/05/2011 có bài
viết về việc con bị trấn lột cả năm mà bố mẹ không biết.
Còn rất nhiều thông tin khác từ nhiều nguồn khác nhau, đều cho thấy một
thực tế là học sinh bị bắt nạt và sự nhận thức về việc đó chưa tốt nên đã gây ra

những hậu quả nghiêm trọng. Trước thực tế đó, Bộ giáo dục đã yêu cầu các Sở
2
báo cáo về bạo lực học đường. Trên báo Dân trí thứ trưởng Bộ giáo dục đào tạo
Nguyễn Thị Nghĩa phát biểu rằng: “Khi xem clip nữ học sinh đánh nhau trên
báo Dân trí tôi thực sự rất choáng và thấy quá ghê sợ với hình ảnh phản giáo
dục này… Tôi rất sốt ruột và đã yêu cầu Vụ Công tác Học sinh - Sinh viên chỉ
đạo Sở GD-ĐT Hà Nội cần điều tra ngay xem ở trường nào và nhờ công an vào
cuộc” [12, tr.5].
Thông qua một vài dẫn chứng được nêu ở trên, có thể nói, bắt nạt đã và
đang là vấn đề nóng hổi, thu hút được sự quan tâm của cả cộng đồng và xã hội.
Với những lí do trên, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Quan hệ giữa hiện
tượng bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Tìm hiểu hiện trạng học sinh bị bắt nạt bởi bạn cùng lứa.
2.2. Tìm hiểu cách học sinh nhìn nhận về bản thân mình thông qua thang đo
nhận thức.
2.3. Tìm hiểu mối quan hệ giữa việc bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh
trung học phổ thông.
2.4. Đưa ra một số khuyến nghị cho công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần - tâm
lý trẻ em trong trường học.
3. Giả thuyết nghiên cứu
3.1. Hiện tượng học sinh bị bắt nạt có tồn tại ở học sinh trung học phổ thông và
dưới các hình thức khác nhau.
3.2. Việc bị bắt nạt có liên quan một cách có ý nghĩa với nhận thức tiêu cực về
bản thân.
3.3. Có sự khác nhau về hiện tượng bắt nạt và nhận thức bản thân giữa nam và
nữ, giữa các cấp học, các lớp học, các trường học, vùng miền khác nhau
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về nhận thức và bắt nạt ở

học sinh, bao gồm các khái niệm bắt nạt, khái niệm nhận thức; thực trạng bắt nạt
và nhận thức về bản thân ở học sinh; mối liên hệ giữa bắt nạt và nhận thức.
4.2. Dùng Thang đo bắt nạt của các tác giả Mynard và Joseph và thang đo nhận
thức bản thân ở trẻ em (CATS) để điều tra trên 393 học sinh trung học phổ
thông.
4.3. Tập hợp và xử lý số liệu dùng phần mềm SPSS, từ đó phân tích kết quả
nghiên cứu.
4.4. Đưa ra những khuyến nghị cho công tác chăm sóc sức khỏe tâm lý học
đường.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa hiện tượng bắt nạt và nhận thức
bản thân ở học sinh trung học phổ thông.
5.2. Khách thể nghiên cứu: 393 học sinh từ 3 trường trung học phổ thông.
- Trường trung học phổ thông Tây Hồ - Hà Nội
-Trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội
-Trường trung học phổ thông Thuận Thành số I – Huyện Thuận Thành – Tỉnh
Bắc Ninh.
6. Thời gian và địa bàn nghiên cứu
6.1. Thời gian: Từ tháng 02 đến tháng 05 năm 2011.
6.2. Địa điểm: Trường trung học phổ thông Tây Hồ - Hà Nội; Trường trung học
phổ thông Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội; Trường trung học phổ thông Thuận
Thành số I – Huyện Thuận Thành – Tỉnh Bắc Ninh.
4
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu những nghiên cứu và số liệu
sẵn có từ các giáo trình, sách tham khảo, các bài báo khoa học, các luận văn,
luận án, các trang web của các tổ chức y tế, các viện nghiên cứu và các trường
đại học.
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thang đo bắt nạt của Mynard và
Joseph (2000), thang đo nhận thức CATS (Children’s Automatic Thoughts

Scale) của Schniering và Rapee (2002).
7.2.1. Để đo mức độ bị bắt nạt ở học sinh, tác giả dùng thang đo của Mynard
và Joseph (2000). Thang đo này được dịch ra tiếng Việt bởi một người Việt giỏi
tiếng Anh và được xem và chỉnh sửa cho lại bởi một người Mỹ giỏi tiếng Việt.
Một số câu trong bảng hỏi như “Bảo bạn khác không chơi với tôi nữa”, hay “Nói
xấu tôi với người khác”, hay “Đấm tôi” (xem phụ lục) mô tả những hành vi bắt
nạt. Phương án trả lời bao gồm 4 mức độ, tương ứng với điểm đánh giá thang 4
là: 0 = "Không bao giờ", 1= "Đôi khi", 2 = "Thường xuyên", 3 = "Luôn luôn".
Phiên bản mà tác giả sử dụng để phân tích bao gồm 20 câu, bao trùm 4 lĩnh vực :
(1) Bắt nạt về các mối quan hệ; (2) Bắt nạt về thể chất/cơ thể; (3) Bắt nạt về sở
hữu; (4) Bắt nạt về giá trị, hay hạ thấp giá trị nạn nhân. Trong nghiên cứu này,
hệ số alpha Cronbach cho toàn bộ thang đo 20 câu là 0.825, ở mức rất phù hợp,
cho thấy thang đo này có đủ độ tin cậy để đo hiện tượng trẻ bị bắt nạt.
7.2.2. Thang đo suy nghĩ tự động ở trẻ em (The Children's Automatic
Thoughts Scales - CATS) của các tác giả Shniering và Rapee (2002) là một
bảng hỏi tự thuật được thiết kế nhằm mục đích đánh giá nhận thức tiêu cực về
bản thân ở trẻ em và thanh thiếu niên. Thang đo này cũng được dịch ra tiếng
Việt bởi một người Việt giỏi tiếng Anh và được xem và chỉnh sửa cho lại bởi
một người Mỹ giỏi tiếng Việt. Thang đo yêu cầu trẻ đánh giá mức độ thường
5
xuyên (tần suất) những suy nghĩ trong tuần qua. Phiên bản mà tác giả sử dụng
cho nghiên cứu này bao gồm 40 câu. Phương án trả lời cho mỗi câu bao gồm:
0=Hoàn toàn không, 1=Thỉnh thoảng, 2=Khá thường xuyên, 3=Thường xuyên,
4=Luôn luôn). Thang đo CATS tính điểm toàn bộ thang đo cũng như từng lĩnh
vực nhận thức. Có 4 tiểu thang đo là: (1) Những đe dọa cá nhân; (2) Những đe
dọa từ xã hội hoặc từ môi trường bên ngoài; (3) Những thất bại của bản thân và
(4) Những ý định thù địch. Trong nghiên cứu này, hệ số alpha Cronbach của
toàn bộ bảng hỏi 40 câu là 0.942, cho thấy độ tin cậy phù hợp của bảng hỏi.
7.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu bằng xác suất thống kê: Sử dụng
phần mềm Excel để nhập dữ liệu và phần mềm SPSS để phân tích. Ngoài các

phân tích thống kê thông dụng như phần trăm, tỉ lệ, tính tổng, điểm trung bình
còn dùng ANOVA để phân tích và so sánh các nhóm. Đồng thời sử dụng tương
quan (correlations) để tìm hiểu mối quan hệ giữa các thang đo và tiểu thang đo,
và một số mối quan hệ khác.
8. Dự kiến kết quả nghiên cứu
- Nêu được mối quan hệ giữa thang đo bắt nạt, các tiểu thang đo bắt nạt với
thang đo nhận thức tiêu cực ở bản thân và các tiểu thang đo nhận thức.
- Nêu được sự khác biệt về bắt nạt và nhận thức bản thân giữa nam và nữ, giữa
các cấp học, các lớp học, các vùng miền, các trường học khác nhau.
- Đưa ra được tỉ lệ học sinh bị bắt nạt ở từng hình thức, ở từng mức độ và tỉ lệ
học sinh có nhận thức tiêu cực ở từng lĩnh vực.
- Cuối cùng, đưa ra được những khuyến nghị trong công tác chăm sóc sức khỏe
tâm lý học đường.
9. Kế hoạch nghiên cứu
Dự kiến đề tài được thực hiện trong vòng 9 tháng kể từ tháng 9 năm 2010
đến tháng 5 năm 2011.
6
Nội dung công việc Thời gian dự kiến
Nghiên cứu lý luận:
- Thu thập các bài báo, các công trình
nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án
có liên quan đến hiện tượng bắt nạt ở học
sinh.
- Nghiên cứu các tư liệu sách giáo trình,
sách tham khảo và tư liệu điện tử về cơ sở
lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Từ 05/ 09/ 2010 đến 30/ 12/ 2010.
Xây dựng đề cương khóa luận và viết
chương cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
Từ 05/ 01/ 2011 đến 15/ 02/ 2011.

Phát phiếu điều tra (bảng hỏi về bắt nạt và
nhận thức bản thân)
Từ 16/ 02/ 2011 đến 28/ 02/ 2011.
Nhập số liệu và xử lý số liệu Từ 01/ 03/ 2011 đến 10/ 03/ 2011.
Phân tích số liệu, tìm hiểu thực trạng,
nguyên nhân và đưa ra những giải pháp
hợp lý.
Từ 11/ 03/ 2011 đến 25/ 03 / 2011
Hoàn thiện đề tài và viết khóa luận Từ 26/ 03/ 2011 đến 10/ 05/ 2011.
Chuẩn bị báo cáo và trả lời phản biện 11/ 05/ 2011 đến 30/ 05/ 2011
10. Cấu trúc của khóa luận
1. Mở đầu
2. Chương 1: Cơ sở lý luận
7
3. Chương 2: Nghiên cứu thực trạng bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh
4. Chương 3: Một số biện pháp giáo dục cải thiện tình trạng bắt nạt và giúp nâng
cao nhận thức bản thân ở học sinh
5. Kết luận và khuyến nghị
6. Tài liệu tham khảo
7. Phụ lục
8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu về hiện tượng bắt nạt
Các nhà khoa học trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu đến hiện tượng bắt
nạt từ thập niên 70, với nghiên cứu đầu tiên của Tiến sĩ Dan Olweus, một nhà
khoa học Na Uy, được xem như người mở đường và là “cha đẻ” của các nghiên
cứu về vấn đề bắt nạt và ngược đãi. Olweus định nghĩa theo một cách chung
nhất, bắt nạt trong trường học như một “hành vi tiêu cực được lặp đi lặp lại, có ý
định xấu của một hoặc nhiều học sinh nhằm trực tiếp chống lại một học sinh,

người có khó khăn trong việc tự bảo vệ bản thân”. Đa số bắt nạt xảy ra ở những
học sinh có vẻ ngoài không hề bộc lộ một sự khiêu khích hay xúi giục [2]. Trong
cuốn sách “Bắt nạt ở trường học, chúng ta biết gì và chúng ta có thể làm gì”
(1993), tiến sĩ Olweus đã chỉ ra đặc điểm của phần lớn những học sinh có thể là
người đi bắt nạt và đặc điểm của những học sinh có nguy cơ là nạn nhân của bị
bắt nạt.
Năm 2001 một nghiên cứu được thực hiện bởi Tiến sĩ tâm lý Tonja Nansel
và đồng nghiệp chỉ ra rằng trong số hơn 15000 học sinh Mỹ từ lớp 6 đến lớp 10
có khoảng 17% học sinh cho biết các em thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bị bắt
nạt trong cả năm học. Gần 19% cho rằng các em thỉnh thoảng hoặc thường
xuyên bắt nạt các bạn khác và 6% nói rằng họ vừa đi bắt nạt người khác vừa là
nạn nhân của bắt nạt. Rõ ràng là trẻ trai bắt nạt người khác nhiều hơn trẻ gái, và
một tỉ lệ lớn các bé gái – khoảng 50% - nói rằng chúng thường bị bắt nạt bởi các
bạn trai. Mặc dù bắt nạt là một vấn đề lớn giữa những cậu con trai, nhưng nó
cũng xảy ra tương đối nhiều giữa các cô gái. Bắt nạt về mặt thể chất ít phổ biến
giữa các cô gái hơn, họ thường dùng những cách quấy rầy xảo quyệt và gián tiếp
9
như: cô lập một người trong nhóm, loan tin đồn trong một thời gian dài, lôi kéo
các bạn bè khác đứng về phía họ…Một vài hình thức bắt nạt khác đôi khi cũng
gây tai hại và sầu não như các hình thức công kích trực tiếp và công khai.
Những nghiên cứu gần đây càng cho thấy sự phức tạp và mối nguy hại của
những hành vi bắt nạt ở tuổi học trò. Khoảng 22,6% trẻ mẫu giáo bị bắt nạt từ
mức độ trung bình đến nặng, khoảng 10% trẻ từ 8 đến 12 được bạn cùng lớp
xem là “nạn nhân thường xuyên” của bắt nạt (Brock, 2005). Bắt nạt không chỉ
gây hậu quả xấu cho nạn nhân trong thời điểm bị bắt nạt (Claghan & Joseph,
1995); Olweus, 1993, 1997; Rigby, 1998; Slee, 1996), mà còn gây hậu quả về
mặt phát triển cảm xúc sau này của trẻ (Kochenderfer & Ladd, 1996; Olweus,
2001). Bắt nạt đã làm cho môi trường học tập trở nên không an toàn. Nhiều em
cảm thấy sợ hãi khi đi đến trường và ở trường tới mức các em nghỉ học ít nhất
một lần trong tháng. 56% nam và 33% nữ cho biết là các em sợ hãi khi trở thành

nạn nhân của bạo lực học đường. 16% nữ và 21% nam đem vũ khi đi để phòng
vệ. Chính những nỗi sợ hãi về bạo lực học đường đã thúc đẩy các em làm như
vậy (Noaks & Noaks 2000).
Nạn nhân của bắt nạt và bạo lực học đường bị ảnh hưởng cả về mặt học tập
lẫn xã hội. Nạn nhân thường có điểm tự đánh giá bản thân thấp hơn và mức độ lo
âu và trầm cảm cao hơn so với nhóm không phải là nạn nhân (Gilmartin). Nạn
nhân không chỉ bị tấn công mà cách em cũng bị cô lập với các bạn (Bulack,
Fulbright and Williams 2003). Là nạn nhân bạo hành cũng có nhiều khả năng sẽ
trở thành người bạo hành trong tương lai (Osofsky 2001).
Brockenbrough (2002) nghiên cứu về nạn nhân bị bạo hành, nghiên cứu cho
thấy những sinh viên vừa bị bạo hành vừa có thái độ hung dữ (hung tính) có
nhiều hành vi có nguy cơ cao nhất so với bạn cùng lứa. Hành vi có nguy cơ như:
10
sở hữu vũ khí, sử dụng rượu và thuốc phiện, tham gia vào băng nhóm và đánh
nhau ở trường.
Bắt nạt học đường cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế. Phí
này bao gồm: chăm chữa về tinh thần và thể chất, phí công an, tài sản bị hư hại,
phí bắt giữ, phí cai nghiện, phí do bỏ học và lớn lên không có việc… (Bagley &
Pritchard, 1998).
Bắt nạt có ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần: Trong các mẫu chọn học sinh
trung đã kiểm tra tại Istabul, Thổ Nhĩ Kỳ, tỷ lệ bị bắt nạt cao và liên quan đến
biểu hiện của trầm cảm. Sự tiếp tục trải nghiệm bạo lực và căng thẳng trong các
mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến các biểu hiện tâm thần. (Sabuncuoğlu, O;
Ekinci, Ö; Bahadir, T; Akyuva, Y; Altinöz, E; Berkem, M, 2006). Thanh
thiếu niên nam là nạn nhân của bắt nạn cùng lứa trải nghiệm mức độ stress và lo
lắng cao. Các em cho rằng môi trường trường học của các em không an toàn và
sợ có bạo lực học đường. (Reuter-Rice, Karin Eve
,
2006)
Ngoài những hậu quả về mặt xã hội như bị cô lập, bị loại khỏi nhóm bạn,

và hậu quả học tập như học giảm sút, ít tham gia hoạt động trường lớp (Ross,
2006). Bắt nạt có thể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt cảm xúc và nhận
thức ở nạn nhân, như cô đơn, lo âu, trầm cảm, thu mình, kém tự tin.
Tình trạng bắt nạt giữa học sinh với học sinh ngày càng là vấn đề bức xúc
của xã hội, nên được nhiều nhà tâm lý học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu.
Từ việc phát hiện ra những hậu quả nghiêm trọng của bắt nạt đã khiến cho các
nhà tâm lý học và giáo dục học nhận thấy cần tìm ra những nguyên nhân gây ra
hiện tượng bắt nạt, từ đó sẽ đề xuất những giải pháp giảm thiểu hiện tượng bắt
nạt. Çetinkaya và cộng sự (2009) cho rằng: điều kiện kinh tế gia đình có liên
quan đến hành vi bạo lực học đường giữa học sinh với học sinh. Trong số trẻ em
bị bắt nạt, tỷ lệ trẻ có điều kiện kinh tế khó khăn cao hơn trẻ em có điều kiện
11
kinh tế khá. Bắt nạt cũng có mối liên hệ có ý nghĩa với mức sống, tuổi, nghề
nghiệp của cha, số anh chị em trong gia đình.
Những nét đặc biệt ở hình dáng của một số học sinh cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự bắt nạt. Robinson, Sabrina cho rằng: thừa cân và
béo phì là nạn nhân của bắt nạt hay trêu ghẹo. Thanh thiếu niên béo phì có nguy
cơ là nạn nhân của bắt nạt cao bởi vì những bạn cùng lứa nhìn nhận họ như một
sự khác biệt và người không ai ưa.
Hiện nay, bạo lực học đường nói chung và tình trạng bắt nạt giữa học sinh
với học sinh nói riêng đang trở thành vấn đề trăn trở của các nhà quản lý giáo
dục cũng như các nhà tâm lý học Việt Nam. Tình trạng đó được các phương tiện
thông tin đại chúng phản ánh rất nhiều. Trong khi đó, những nghiên cứu có tính
chất hệ thống, bằng các phương pháp khoa học về vấn đề này còn quá hạn chế.
Một cuộc khảo sát do khoa Xã hội học, trường ĐHKH XH&NV, ĐHQG
HN thực hiện vào năm 2008 tại 2 trường THPT thuộc quận Đống Đa (Hà Nội)
về tình trạng bạo lực nữ sinh đã cho thấy nhiều kết quả đáng lo ngại. Cụ thể, có
đến 96,7% số học sinh trong mẫu được hỏi cho rằng, ở trường các em có xảy ra
hiện tượng nữ sinh đánh nhau. Mức độ bạo lực trong nữ sinh là 44,7% rất
thường xuyên; 38% thường xuyên; và 17,3% không thường xuyên [9, tr. 4].

Kết quả khảo sát khác của Nguyễn Văn Tường (2010) - Trung tâm Nghiên
cứu tâm lý trẻ em (Trung tâm N-T Nguyễn Khắc Viện), nghiên cứu về bạo lực
học đường cũng cho con số đáng lo khi có tới 64% các em nữ được hỏi thừa
nhận là đã từng có hành vi đánh nhau với các bạn khác. Đáng chú ý, hầu hết
những chuyện đánh nhau lần đầu tiên đều diễn ra trong khuôn viên trường học,
và những lần đánh nhau tiếp theo thì đa số lại diễn ra ngoài trường học.Việc nữ
sinh đánh nhau có lẽ đã trở nên quen thuộc với nhiều học sinh. Chính vì vậy, khi
được hỏi “quan niệm về hiện tượng đánh nhau giữa các học sinh nữ” thì có đến
12
45,3% cho rằng, điều đó là “bình thường”; 30,7% trả lời có thể chấp nhận được;
và chỉ có 24% học sinh “không chấp nhận” hành vi bạo lực trong nữ sinh. Trong
số các nữ sinh đã từng có hành vi hành hung người khác, hầu hết đều biết bạo
lực gây nên tổn thương về tinh thần và thể xác, làm mất đi thiện cảm của
mọi người đối với con gái. Nhưng vẫn còn gần 1/4 cho rằng, hành vi bạo lực
không gây ra hậu quả gì [9, tr. 5].
Ông Phùng Khắc Bình - Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên (Bộ
GD-ĐT) cho biết: Thống kê từ 38 Sở GD-ĐT gửi về Bộ từ năm 2003 đến năm
2010 có tới hơn 8.000 vụ học sinh tham gia bắt nạt, đánh nhau và bị xử lý kỷ
luật.
Về vấn đề can thiệp bắt nạt học đường, nghiên cứu của tiến sĩ Olweus là
cơ sở để triển khai chương trình phòng chống bắt nạt một cách toàn diện trong
các trường học nhằm làm giảm thiểu và ngăn chặn bắt nạt trong học sinh tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Là một phần trong sáng kiến của
chính phủ, chương trình này sẽ được phổ biến cho tất cả các trường công lập ở
Na Uy. Hiện tại một số lượng lớn các trường học ở Mỹ đang sử dụng chương
trình này. Qua hơn 20 năm thực hiện chương trình này đã đem lại kết quả tích
cực như số lượng học sinh bắt nạt và bị bắt nạt giảm rõ rệt (30-50%), tương tự
như kết quả thu được từ các nghiên cứu khác; tỉ lệ học sinh có hành vi chống đối
xã hội như ăn cắp vặt, phá hoại, say rượu/nghiện rượu và trốn học giảm đáng kể;
sự cải thiện đáng kể trong “môi trường xã hội” lớp học, như phản ánh của học

sinh về sự tiến bộ trong việc giữ trật tự và kỷ luật, tích cực hơn trong các mối
quan hệ bạn bè, và có thái độ tốt đối với các hoạt động của trường; và những cải
thiện trong sự hài lòng của học sinh với cuộc sống học đường.
Những nỗ lực khác nhằm phòng ngừa bắt nạt được miêu tả trong cuốn
sách do ba người có đóng góp lớn trong lĩnh vực này làm chủ bút là tiến sĩ Peter
13
Smith, Mỹ, tiến sĩ Debra Pepler, Canada, và tiến sĩ Kenneth Rigby (2004),
Australia: “Bắt nạt học đường: Làm thế nào để có thể can thiệp thành công?”.
1.1.2. Nghiên cứu về nhận thức bản thân
Khả năng nhận thức của con người không giống nhau ở mọi độ tuổi. Nói
khác đi, khả năng nhận thức của con người không được hoàn thiện trong ngày
một ngày hai nhưng nó diễn ra theo một tiến trình phát triển nào đó. Đại diện
tiêu biểu của Tâm lý học nhận thức là Jean Piaget (1896 - 1980), nhà khoa học vĩ
đại người Thuỵ Sỹ. Ông là một nhà tâm lý học tiêu biểu nhất của mọi thời đại,
ông đã đi từ nghiên cứu Sinh vật học qua tâm lý học rồi đến tâm lý học nhận
thức. Theo Piaget, khả năng nhận thức của con người phát triển ngang qua các
độ tuổi. Tùy vào mỗi một chặng phát triển mà con người đạt đến những hình thái
tư duy và nhận thức khác nhau và ông gọi đây là lý thuyết về sự phát triển nhận
thức. Cụ thể, ông chia tiến trình phát triển khả năng nhận thức này thành bốn
giai đoạn chính là giai đoạn giác động (sensorimotor stage) từ 0 – 2 tuổi; giai
đoạn tiền tư duy (preoperational thought stage) từ 2 – 7 tuổi; giai đoạn tư duy cụ
thể (concrete-operational thought stage), 7 – 12 tuổi; giai đoạn tư duy trừu tượng
(formal-operational thought stage) từ 12 tuổi trở lên. Nhận thức của các em ngày
một hoàn thiện hơn, ở mức độ cao hơn.
Tiếp sau Piaget cũng có một số nhà tâm lý học khác nghiên cứu về nhận
thức. Ở độ tuổi từ 9 đến dậy thì, nhận thức phát triển mạnh mẽ và phân thành hai
loại chính là nhận thức tích cực và nhận thức tiêu cực ngày càng rõ rệt (Harter,
1990). Nhận thức tiêu cực đặc biệt được quan tâm bởi các nhà nghiên cứu bởi nó
có liên quan mật thiết tới sự phát triển của các rối loạn về khí sắc, đặc biệt là
trầm cảm. Một trong những cơ chế dẫn tới trầm cảm là do người bệnh có nhận

thức tiêu cực về bản thân mình, cho rằng mình là người vô dụng, là người xấu
xa, kém cỏi, hoặc là kẻ thua cuộc. Đánh giá và nhận xét tiêu cực từ người khác
14
có thể dẫn tới nhận thức tiêu cực ở bản thân, trong đó việc bị bạn khác thường
xuyên trêu chọc, bắt nạt có thể dẫn tới nhận thức tiêu cực về bản thân ở học sinh
[19].
1.2. Bắt nạt và nhận thức bản thân
1.2.1. Bắt nạt và bị bắt nạt
Bị người khác bắt nạt xảy ra với tất cả mọi người ít nhất là một lần trong
cuộc đời. Và việc bắt nạt ở tuổi học trò là chuyện xảy ra thường xuyên. Hiện
tượng bắt nạt và bị bắt nạt đang được quan tâm nhiều hơn bởi trẻ em ngày càng
được gia đình và xã hội quan tâm chăm sóc, hơn nữa những vụ việc liên quan
đến bạo lực và gây hấn trong học đường gần đây có xu hướng càng nghiêm
trọng. Nhiều trường hợp được báo chí phản ánh gần đây đã nói lên điều đó, như
em Q.V. nhỏ bé nên thường bị bạn trong lớp xô đẩy, đánh. Nếu mách cô thì các
bạn nói là đùa. Q.V. mách bố mẹ, khi gia đình làm việc với nhà trường, các em
phải làm bản tường trình. Nhưng một thời gian sau ban giám hiệu mời phụ
huynh vào trường vì Q.V. đánh bạn. Lúc ấy gia đình mới biết sau khi làm tường
trình, các bạn lại càng xô đẩy Q.V. nhiều hơn. Cho đến lúc em quyết định đánh
lại bạn vì không chịu đựng nổi. Một ví dụ khác là em Đ. ở trường THPT N.T.N.
(Q.9 TP HCM). Trong một lần đá bóng, Đ xảy ra mâu thuẫn với P, "đại ca" của
trường nội trú. Từ đó, cậu học sinh này thường xuyên phải hứng chịu những trận
đòn và hăm dọa của "đàn anh". Tức giận vì nhiều lần bị P đánh chửi, Đ giấu một
con dao trong người định bụng sẽ đâm lại người này nếu tiếp tục bị đánh. Một
lần bị P đánh, tức giận, Đ rút dao đâm hai nhát vào hông P khiến P chết ngay sau
đó. Hay trường hợp của em V. V.P. 15 tuổi ở Nghệ An chỉ là trêu đùa mà đã vô
tình bóp cổ dẫn đến hại chết bạn. Ngoài những trường hợp bị bắt nạt về thân thể
thì những trường hợp bị bắt nạt về sở hữu cũng được báo chí đưa lên và hậu quả
của nó không kém phần nghiêm trọng như trường hợp của H - học sinh lớp 8,
15

một hôm mẹ H cần tiền nên lấy con heo tiết kiệm cả năm ra thì thật bất ngờ: heo
trống trơn. Mẹ H tra hỏi mãi, cuối cùng H thú nhận là đã lấy tiền để cống nạp
cho một bạn gái trong lớp. Tìm hiểu, mẹ H mới biết con gái mình đã bị trấn lột
hơn… một năm nay. Thậm chí H đã lấy cắp cả nhẫn cưới của mẹ để bán lấy tiền
cống nạp. Người bạn trong lớp là một bạn gái nhỏ bé, nhưng đã nói với H rằng
có anh trai đi tù, mẹ bán ma tuý, có người thân là băng xã hội đen. Thế nên H rất
sợ, phải đáp ứng yêu cầu.
Bắt nạt có thể bao gồm ít nhất ba đặc điểm: (1) Cố ý gây hại cho người bị
bắt nạt; (2) Hành vi được lặp đi lặp lại, vì thế nên thường làm cho nạn nhân sợ
sệt và lo lắng thường xuyên; (3) Và luôn có sự chênh lệch về quyền lực. Kẻ bắt
nạt thường to lớn hơn, đông hơn về số lượng, khéo léo nhanh nhẹn hơn, học giỏi
hơn, đến từ gia đình giàu có thế lực hơn.
Có nhiều hình thức bắt nạt như đánh đập hành hung; lấy cắp hoặc hủy
hoại tài sản; mắng chửi, sỉ nhục, đe dọa, tống tiền, vu oan; tẩy chay, cô lập; và
gần đây nhất là bắt nạt qua điện thoại, tin nhắn, email, hay bôi nhọ danh dự trên
mạng [12, tr. 9].
1.2.1.1. Đặc điểm của bắt nạt
Một số nhà nghiên cứu chia bắt nạt ra làm hai hình thức: trực tiếp và gián
tiếp, hay bắt nạt thân thể và bắt nạt về quan hệ [19]. Một hay một nhóm học sinh
có hành vi bắt nạt một hay một nhóm học sinh khác một cách trực tiếp thí dụ
như trêu chọc, mắng nhiếc, đe dọa, đánh đập, và lấy cắp đồ dùng cá nhân; hoặc
gián tiếp bằng cách tung tin đồn để nói xấu, tẩy chay hoặc cô lập em này.
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy bất cứ trẻ nào cũng có thể bị lôi kéo vào
những vụ bắt nạt, bất kể là là nam hay nữ, học giỏi hay kém. Các nghiên cứu cho
thấy, những đối tượng “lạc lõng” trong tập thể lớp thường là đối tượng của bắt
16
nạt, ví dụ là một trong vài nam trong lớp toàn nữ, là con nhà giàu trong lớp toàn
gia đình có kinh tế trung bình, xinh và luôn ăn mặc diện, nổi trội trong lớp, hay
học rất giỏi trong khi các bạn khác học bình thường [12, tr. 11].
Thường thì những em bị bắt nạt là những em yếu đuối về thể chất, rụt rè

nhút nhát, không có kỹ năng kết bạn nên ít bạn bè, thường tách biệt, luôn cảm
thấy thiếu sự hỗ trợ xung quanh nên dễ sợ hãi, và thiếu tự tin vào khả năng và
sức mạnh của chính mình. Những em này cũng thường được cha mẹ bảo vệ thái
quá nên thiếu độc lập.
Một số em do thiếu kỹ năng giao tiếp hoặc tính khí thất thường nên “dễ
làm người khác bực mình” và cũng có thể trở thành nạn nhân của những hành vi
bắt nạt.
Với những tính cách điển hình như thế, đôi khi còn do sự chênh lệch
quyền lực giữa kẻ bắt nạt và người bị bắt nạt làm cho trẻ bị bắt nạt không dám
chống cự, hầu hết các em bị bắt nạt thường hoặc là cam chịu và giữ kín chuyện
bị bắt nạt hoặc là rất lâu sau đó mới kể cho người lớn nghe việc các em bị bắt
nạt. Thường là do các em cảm thấy xấu hổ về sự yếu kém của mình nên sợ bị
chê cười, lo sợ bị trả thù tệ hại hơn nếu báo cáo lại vì không tin rằng người lớn
có thể bảo vệ được mình tại những nơi thường diễn ra việc bắt nạt (nhà vệ sinh,
sân trường, trên đường đi …). Các bậc cha mẹ và thầy cô thường không hay biết
gì về tình trạng bắt nạt đang diễn ra nên ít khi trao đổi với các em vấn đề này, có
khi xem đó như là một phần tự nhiên của tuổi mới lớn nên để các em tự giải
quyết (trừ khi những hành vi này đi đến thái quá) mà không biết rằng những
hành vi bắt nạt được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ gây ra những tổn thương thể chất
hoặc tâm lý cho nạn nhân, và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường học tập chung
vì các em học sinh không cảm nhận được sự an toàn ngay trong chính ngôi
trường của mình.
17
Nếu hiện tượng này diễn ra lâu, trẻ bị bắt nạt sẽ có xu hướng phát triển
những ý nghĩa tiêu cực về bản thân, nhìn nhận mình như là người yếu đuối, là kẻ
thua cuộc, làm giảm lòng tự tin.
Đôi khi nạn nhân sẽ trở thành kẻ đi bắt nạt. Những trẻ này chiếm khoảng
5% - 6% những trẻ bị bắt nạt (Tonja Nansel). Chúng có những đặc điểm giống
như đại đa số những trẻ bị bắt nạt khác như yếu đuối về thể chất, rụt rè nhút
nhát, không có kỹ năng kết bạn nên ít bạn bè, thường tách biệt, luôn cảm thấy

thiếu sự hỗ trợ xung quanh nên dễ sợ hãi, và thiếu tự tin vào khả năng và sức
mạnh của chính mình. Những em này cũng thường là trẻ khuyết tật hoặc được
cha mẹ bảo vệ thái quá nên thiếu độc lập. Tuy nhiên, những trẻ này thường cộc
tính, lầm lì, cau có, và khi bị bắt nạt hay tìm cách đánh trả. Những trẻ này dễ làm
cho bạn bè hoặc thầy cô xa lánh, vì vậy chúng thường bị bắt nạt bởi cả lớp hay
cả một nhóm khá đông. Đây là trường hợp cần sự chú ý và giám sát cẩn thận, vì
những em này thường có những cơn bùng nổ cảm xúc, chúng lại có khuynh
hướng che dấu và đè nén nổi đau khổ bị bắt nạt của mình, và vì thế mà nguy
hiểm vì sẽ dẫn đến những cơn bùng phát dữ dội hơn.
Chúng ta thường cho rằng chỉ những học sinh yếu đuối, rụt rè mới dễ bị
bắt nạt, nhưng thực tế cho thấy cả những học sinh thông minh, năng động khi lạc
lõng trong một môi trường mới (như học sinh vừa chuyển cấp, chuyển từ nông
thôn lên thành phố, chuyển từ trường công sang trường quốc tế, v.v.) vẫn có thể
trở thành mục tiêu của những vụ bắt nạt. Nói chung là bắt nạt có ảnh hưởng
nghiêm trọng cả về thể xác lẫn tinh thần của nạn nhân.
1.2.1.2. Nguyên nhân của bắt nạt [12, tr. 10; 9, tr. 12-24]
a. Nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
Những em đi bắt nạt thường có tính khí lì lượm hoặc thể chất khỏe mạnh,
cảm thấy thích thú với “vị trí xã hội” (được nể sợ) của mình trong khi những em
18
bị nắt nạt thì lại cảm thấy cô độc và thấp kém. Nếu chúng ta hỏi những em đi bắt
nạt, hoặc một số em chứng kiến sự bắt nạt thì các em cho rằng nạn nhân “rất
đáng ghét” nên phải “dạy cho nó biết cư xử hơn”. Cái điều “thấy ghét” đó có
nhiều nguyên nhân: các em thấy so với nạn nhân mình nghèo hơn; thiệt thòi hơn;
học kém hơn; bạn tài năng hơn và rất nhiều so sánh khác dựa trên suy nghĩ sai
lầm của các em về giá trị sống [12, tr. 10].
Bắt nạt còn có thể được giải thích bằng tình trạng dư thừa sức lực của các
em ở độ tuổi “bẻ gẫy sừng trâu”. Tuổi dậy thì khiến các em phát triển mạnh về
thể chất, hưng phấn cao, kiếm chế kém, lại không có việc gì để làm, nên “ngứa
chân ngứa tay”. Thứ hai, các em đang muốn chứng tỏ bản thân, nhưng lại không

biết thể hiện bằng cách nào, do đó muốn dung vũ lực như một cách thể hiện sự
vượt trội của mình so với bạn bè. Những học sinh học giỏi, hoặc chứng tỏ bản
thân bởi những thế mạnh khác ít khi phải dùng đến nắm đấm để ra oai. Ngoài ra,
chưa kể những em có vấn đề về tâm thần, hành vi, cảm xúc không kiểm soát
được lời nói và hành vi của mình, cũng gây lên những mâu thuẫn, ẩu đả trong
lớp học.
TS. Huỳnh Văn Sơn giải thích rằng, một phần nguyên nhân của bắt nạt là
do các em đánh nhau để giải tỏa tâm lý, đánh nhau vì những mâu thuẫn
không được giải quyết, đánh nhau để dằn mặt đối tượng, đánh nhau để gây
scandal… Không ít trẻ em thực sự chẳng hiểu thế nào là việc giải quyết
xung đột, theo hành vi bản năng, theo thói quen và theo những phản xạ tích lũy
được bằng con đường “di truyền xã hội”, bạo lực như một biện pháp hay cách
thức giải quyết vấn đề là thế [9, tr.12].
b. Nguyên nhân từ gia đình
" Gia đình chính là nơi hình thành nhân cách sống và cách ứng xử
trong xã hội văn minh, nơi giáo dục cho các em những cảm nhận đầu tiên về
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên và giữa
19
mỗi người với chính bản thân mình "[9, tr. 13]. Lối giáo dục của gia đình và
cách cư xử của các thành viên trong gia đình với nhau cũng góp phần tạo nên
những đứa trẻ có tính khí hung hăng và hay bắt nạt người khác. Gia đình mà cha
mẹ hay chửi mắng, đánh đập con, và thường xuyên gây gổ đánh nhau hoặc gia
đình có anh chị em hay bắt nạt nhau cũng là môi trường thuận lợi cho những
hành vi hung hăng hay bắt nạt phát triển. Các em lớn lên trong những gia đình
này xem bắt nạt như một việc bình thường, và muốn tồn tại thì mình cũng phải
biết cách phản kháng hay bắt nạt lại người khác. Những bức bối đè nén từ gia
đình thường được các em mang “đổ” vào bạn học yếu thế của mình[12, tr. 10].
Hiện nay, có nhiều bậc cha mẹ học sinh có quan niệm giáo dục, quản lý
học sinh rất sai lầm. Họ chăm chút con chủ yếu về vật chất. Con cái đang tuổi
học trò mà đã được trang bị nhẫn vàng, điện thoại di động đắt tiền, xe máy đời

mới phân khối lớn… mà chưa quan tâm tới giáo dục đạo đức, hành vi cho con
mình, để con mình phát triển tự do theo hướng tiêu cực, không biết cách ứng xử
phù hợp với bạn bè và những người xung quanh [9, tr.14]. Sự nuông chiều thái
quá, không phải làm việc giúp bố mẹ, coi nhẹ hoặc bỏ qua lỗi lầm, nghĩa vụ của
con cái, từ đó tạo ra thói quen, tâm lý đòi hỏi, hưởng thụ sống ích kỷ, ỷ lại.
Ngược lại, có gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết nên khi thấy con có lỗi đã không
tìm cách khuyên răn mà lại dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bắt nạt xảy ra.
Khi nghiên cứu các bạo lực học đường, đa số các em có vấn đề
về gia đình. Nhiều em sống trong gia đình thường xuyên có bạo lực, bố mẹ
suốt ngày mắng chửi, đánh nhau, bố hoặc mẹ nghiện ngập nên ngay từ nhỏ đã
tiêm nhiễm vào đời sống tinh thần các em tính bạo lực, sẵn sàng chống đối.
Nhiều em có gia đình ly tán, gia đình thiếu trách nhiệm, không quan tâm trong
việc quản lý và giáo dục con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội hoặc thiếu hụt
sự chăm sóc của cha mẹ cũng là nguyên nhân tạo cho các em sự hụt hẫng,
20
khó khăn trong việc định hướng nhân cách và thường có xu hướng bất cần,
muốn khẳng định, chỉ cần có cơ hội xấu là bộc phát và có hành vi hung tính,
đánh nhau[8].
Ảnh hưởng của gia đình với sự phát triển nhân cách và nhận thức của các
em rất lớn. Ở lứa tuổi này, các biểu hiện rối loạn nhân cách tăng lên rõ rệt và
trong phần lớn các trường hợp, chúng có nguồn gốc sâu xa trong các quan hệ cha
mẹ - con cái không thuận lợi [4, tr.214]. Chính vì vậy gia đình có vai trò vô cùng
quan trọng trong giáo dục đạo đức, nhân cách cho các em. Chỉ có khi được giáo
dục đến nơi đến chốn thì các em mới có những hành vi đúng chuẩn mực.
c. Nguyên nhân từ môi trường học đường
Môi trường học tập, mối quan hệ trong nhà trường và sự giám sát của nhà
trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện phát triển hay giảm
bớt sự thường xuyên và mức độ trầm trọng của nạn học sinh bắt nạt nhau. Đôi
khi thầy cô cũng “góp phần” vào việc bắt nạt do phân biệt đối xử mà không hề

hay biết, bởi vì rất khó nhận thấy sự phân biệt đối xử tiềm ẩn như đôi khi thầy cô
chỉ trích hoặc chế nhạo, mắng nhiếc những em hoc sinh học yếu hoặc chậm chạp
trong lớp. Thực ra những em này có thể thuộc nhóm gặp khó khăn về học tập –
nghĩa là vẫn học tốt ở những lớp chính qui nhưng cần một số hỗ trợ cần thiết.
Thầy cô thiếu quan tâm đầy đủ cũng có thể bực mình và chỉ trích những em đang
có những hành vi bất thường mà không biết rằng các em đang có vấn đề về tâm
lý do rắc rối cá nhân hoặc rắc rối gia đình. Sự quan tâm và ưu đãi không đúng
cách đối với các em khuyết tật (cho ngồi riêng, không bắt làm bài tập, miễn thi,
…) cũng tạo nên sự khác biệt và bất bình đẳng trong đối xử. Tất cả những điều
này đã vô tình tách biệt các em và biến các em thành đối tượng của sự chế diễu
hay ganh tỵ.
Cách hiểu rất phiến diện và cứng ngắc của chúng ta về thành tích cũng
góp phần tạo nên vấn đề. Thành tích của lớp, của trường cũng vô tình đặt các em
21
khuyết tật (kể cả khuyết tật học tập) hay có vấn đề tâm sinh lý thành đối tượng
của sự bắt nạt (kẻ đi bắt nạt hoặc bị bắt nạt) vì trong mắt của các em học sinh
khác, của cả thầy cô, quản lý nhà trường và phụ huynh, các em là những “của
nợ” lấy mất thời gian và làm giảm thành tích của tập thể. Những em học sinh cá
biệt đó không cảm thấy mình được mong đợi vì các em luôn bị chỉ trích, bị đổ
thừa là tác nhân làm giảm thành tích của lớp, của trường. Chính vì vậy, những
em học sinh này sẽ có xu hướng trở nên ngang bướng, khó bảo, thích làm trái ý
người khác, không nghe lời thầy cô và dần dần sẽ trở thành kẻ đi bắt nạt những
người khác hoặc bị cô lập, tự ti, cảm thấy mình là người vô dụng và trở thành
kẻ bị bắt nạt. Vì vậy, thầy cô và bạn bè trong lớp càng thân thiện, càng hòa đồng
bao nhiêu sẽ góp phần giảm thiểu hiện tượng bắt nạt bấy nhiêu.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường hiện nay còn mang nặng hình thức,
chưa đi vào bản chất của việc hình thành nhân cách cho các em. Thậm chí nhiều
nhà trường còn chưa giáo dục phòng chống bạo lực học đường cho học sinh. [9,
tr. 18].
Một thực tế là việc lồng ghép dạy kỹ năng sống cho các em học sinh

thông qua các môn học trên lớp có phần chưa đem lại hiệu quả. Mức độ hiểu của
học sinh về kĩ năng sống ở mức bình thường chiếm tỉ lệ rất lớn. Rất nhiều học
sinh tự đánh giá về kĩ năng sống của mình hiện tại là ở mức bình thường, chứng
minh rằng học sinh đang thiếu kĩ năng sống trầm trọng[11, tr.74]. Mỗi môn học
đã mang trong mình một khối lượng kiến thức không nhỏ, mỗi giáo viên bộ môn
thường xuyên phải gồng mình lên để theo kịp chương trình. Những môn như
Giáo dục công dân hay Kể chuyện,…thường được các thầy cô dạy bù vào tiết
sinh hoạt lớp. Như vậy, việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học
không có khả thi. Cùng với đó thì bản thân mỗi thầy cô cũng còn gặp nhiều lúng
túng khi truyền tải tới các em các kỹ năng sống thiết yếu, nguyên nhân rất đơn
giản là các thầy cô được đào tạo chuẩn về chuyên môn còn việc giáo dục kỹ
22

×