Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tài liệu Đề tài " Quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt Nam - Thái Lan trong giai đoạn hiện nay " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.69 KB, 70 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI “ Quan Hệ Kinh Tế-Thương
Mại Việt Nam-Thái Lan trong giai
đoạn hiện nay”

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC THÁI LAN
I. Điều kiện tự nhiên và con người Thái Lan
1. Vị trí địa lý
2. Dân số, văn hố và xã hội
3. Thể chế chính trị của Thái Lan
II. Tình hình phát triển kinh tế của Th Lan
1. Q trình phát triển kinh tế
2. Vài nét về chính sách kinh tế và hoạt động kinh tế đối
ngoại của Thái Lan những năm gần đây
3. Kinh nghiệm phát triển đất nước của Thái Lan
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH QUAN HỆ KINH TẾ-THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM - THÁI LAN
I. Quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt nam - Thái lan trước
năm 1990
II. Quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt nam - Thái lan từ năm
1990 đến nay
1. Quan hệ mậu dịch song phương giữa Việt nam - Thái
Lan từ năm 1990 đến nay
2. Đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam từ năm 1990 đến nay
3. Một số lĩnh vực khác


CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - THÁI
LAN TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Chính sách kinh tế đối ngoại của Thái Lan và Việt Nam hiện
nay
1. Chính sách đối ngoại của Thái lan
2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam
II. Triển vọng quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt Nam - Thái
Lan trong những năm tới
1. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại song phương
2. Triển vọng đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam
3. Triển vọng hợp tác du lịch, dịch vụ và các lĩnh vực khác
III. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ Kinh tế
-Thương mại Việt Nam - Thái Lan trong những năm tới
2


1. Các giải pháp từ phía nhà nước
1.1

Đổi mới chính sách thương mại

1.2

Các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp từ Thái Lan

2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT
KẾT LUẬN


LỜI MỞ ĐẦU
Đông Nam Á là một khu vực có lịch sử phát triển lâu dài và trong q
trình phát triển của mình đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền văn
minh nhân loại. Các quốc gia trong khu vực là những đất nước có sự tương
đồng cao trên nhiều lĩnh vực văn hố - xã hội cũng như trình độ phát triển
kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu hợp tác, liên kết các quốc gia trong khu vực
luôn được đặt ra ở các thời điểm lịch sử. đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, thế
giới đang có nhiều biến đổi, xu thế tồn cầu hố và đa cực hố thế giới đang
diễn ra nhanh chóng, nhu cầu về sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực
Đơng Nam á, nói chung. Trong xu thế vận động của thế giới, hiệp hội các
3


nước Đơng Nam á (ASEAN) được hình thành, phát triển và chắc chắn sẽ phát
triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai đặc biệt về lĩnh vực kinh tế. Quan hệ
bn bán với ASEAN có ý nghĩa chiến lược đối với mọi quốc gia, nhất là các
nước trong khu vực. Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước nhận thấy lợi ích to lớn trong quan hệ buôn bán với các nước
trong khu vực, đặc biệt là với Thái Lan.
Thời gian qua, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Thái Lan
không ngừng được củng cố và phát triển, kể cả trong thời gian Thái
Lan phải chịu tác hại nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, Thái Lan luôn là một
trong 10 nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, với khoảng 112 dự án còn hiệu lực có tổng vốn đầu tư
đăng ký khoảng 1.168 triệu USD.Thái Lan là nước ASEAN lớn thứ 2
đầu tư tại Việt Nam , chỉ sau Singapore.
Xuất phát từ thực tế trong quan hệ kimh tế thương mại giữa
hai nước có thể thấy được rất nhiều cơ sở lạc quan để có thể đặt hy
vọng vào một mối quan hệ tốt đẹp hơn trong tương lai. Với những lý

do nêu trên tác giả chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài " Quan
hệ Kinh tế - Thương mại Việt Nam - Thái Lan trong giai đoạn hiện
nay ". Gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về đất nước Thái Lan.
Chương II: Thực trạng quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt
Nam - Thái Lan những năm gần đây.
Chương III: Triển vọng và giải pháp phát triển mối quan
hệ Kinh tế - Thương mại Việt Nam - Thái Lan trong thời gian
tới.
Thực hiện nội dung trên tác giả đã sử dụng các phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp

4


thống kê, so sánh các số liệu, tài liệu để giải quyết các yêu cầu đề
tài đặt ra.
Trong quá trình hồn thành khố luận tốt nghiệp này, tác giả xin chân
thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kinh tế trường Đại học nghoại thương đã
trang bị cho em những kiến thức về kinh tế, các cô chú công tác tại vụ Châu á
Thái bình dương - Bộ thương mại đã cung cấp tài liệu, thông tin cập nhật liên
quan đến đề tài, đặc biệt thầy Tô Trọng Nghiệp đã tận tình hướng dẫn em
thực hiện hồn thành chun đề này.

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC THÁI LAN
I.Điều kiện tự nhiên và con người Thái Lan
1. Vị trí địa lý
Thái Lan là một trong những nước lớn của khu vực Đơng Nam
á. Phía bắc và đơng bắc Thái Lan có biên giới giáp với CHDCND

Lào, phía tây bắc giáp với CH Myanma, phía tây với biển Andaman,
phía đơng với Campuchia và Vịnh Thái Lan, và phía nam với

5


Malayxia. Thiên nhiên đã phú cho mảnh đất màu mỡ này với diện
tích đất đai là 513.115 km2, kéo dài trên 1.800 km từ Bắc sang Nam.
Thái Lan nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
lúc nóng nhất là 33 0 C và lúc lạnh nhất là 10 0 C, lượng mưa trung
bình trong năm là 1.600 m. Lãnh thổ Thái Lan được chia thành 4
vùng khác nhau về điều kiện địa lý tự nhiên.
Vùng Bắc có nhiều núi cao, vùng

Trung là châu thổ Chao-

phra-gia, vựa lúa của Thái Lan, vùng Đông Bắc chủ yếu là cao
nguyên, Vùng Nam giáp Malaysia. Bờ biển Thái Lan dài khoảng
2.500 km, Băng Cốc là hải cảng lớn của vùng Đông Nam á. Vịnh
Thái Lan là nguồn hải sản, khí và dầu quan trọng nhất của Thái Lan.
Nguồn tài nguyên truyền thống quan trọng nhất của Thái Lan
là lúa gạo.Cao su là nơng sản quan trọng thứ hai. Ngồi ra Thái Lan
còn chú trọng đến việc trồng rau quả và hoa xuất khẩu.
2. Dân số, văn hoá và xã hội
Dân số: Thái lan là một nước đông dân ở Đông Nam Á với khoảng
61.2 triệu người, dân tộc Thái chiếm khoảng 3/4 dân số trong đó
hơn 7 triệu người sống ở thủ đơ Băngkok. Mật độ dân số trung bình
của Thái Lan khoảng 120 người/km 2 , phần lớn dân cư Thái Lan vẫn
là nông dân hiện nay. Về chất lượng nguồn lực con người Thái
Lan, sau kế hoạch 5 năm lần thứ bảy (1993-1996) nhìn chung đã

được nâng cao đáng kể, khoảng 86% dân cư Thái Lan biết chữ. Với
nền giáo dục cơ sở tốt, sức lao động Thái Lan có năng lực kỷ luật
tốt và sẵn sàng làm các nghề công nghiệp nặng.
Phật giáo tiểu thừa là tôn giáo được chính thức cơng nhận ở
Thái Lan với hơn 90% dân số theo đạo phật, tạo nên những ảnh
hưởng lớn trong đời sống hằng ngày của người dân.
Văn hóa - Xã hội:
6


- Không phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi Thái lan là “Đất
nước của những vị sư áo vàng”. Điều này đã phản ánh vai trò mang
nhiều ý nghĩa của tơn giáo trong đời sống văn hóa xã hội của người
dân Thái lan.
Khoảng 95% dân Thái lan theo Đạo Phật, chủ yếu là theo
trường phái Hindu. Đạo Phật và những nghi lễ của Đạo Phật đã đóng
một vai trị quan trọng trong xã hội Thái hơn 700 năm qua.
Từ xa xưa các vị sư đã có những đóng góp quan trọng trong
lĩnh vực giáo dục. Các trường học đầu tiên ở Thái lan đều được xây
dựng trên mảnh đất của nhà chùa và các vị sư ngoài bổn phận của
người tu hành, họ còn dậy dỗ trẻ em địa phương học đọc, học viết và
đạo làm người.
Đạo Phật là một phần không thể tách rời cuộc sống của người
dân Thái lan bởi vì chính Đạo Phật đã đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng trong các giai đoạn của đời người như ra đời, cưới xin,
ma chay.... Điều đặc biệt là Đạo Phật dạy những người theo Đạo
phải tu nhân tích đức, ln sẵn sàng giúp đỡ người khác và hạn chế
bớt những đục vọng của con người.
- Sự bùng nổ công nghiệp Thái lan ngày nay diễn ra với cường
độ quá lớn, tốc độ quá nhanh, Chính phủ lại can thiệp q ít nên

khơng thể khơng xuất hiện những cơn sốt làm rung chuyền tận gốc
rễ văn hóa xã xã hội. Môi trường bị hủy hoại, sự phân hóa giữa giàu
và nghèo, giữa thành thị và nơng thơn gia tăng, sự phân tầng xã hội
sâu sắc, nạn mại dâm lan rộng, giới quân sự bị tước bỏ độc quyền
chính trị, và bùng nổ kinh doanh đã làm giới doanh nghiệp trở thành
lực lượng chính của sự vận động xã hội.
Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra trong xã hội Thái là làm thế
nào để nâng cao “chất lượng cuộc sống” Thái lan đã và đang tích
7


cực theo đuổi mục tiêu này, một phần thông qua nguồn tài ngun
có giới hạn của mình, mặt khác hợp tác cùng các tổ chức quốc tế.
3. Thể chế chính trị của Thái Lan
Nền chính trị Thái lan đã có một bước ngoặt hết sức có ý
nghĩa vào ngày 24 tháng 6 năm 1932 khi một nhóm trí thức trẻ tuổi
đi du học từ nước ngoài trở về mang theo tư tưởng dân chủ phương
Tây, đã dấy động lên phong trào đòi thay đổi chế độ quân chủ độc
quyền sang quân chủ lập hiến. Để tránh gây ra đổ máu,Vua
Prajadhipok (Rama VII ) đã chấp nhận xóa bỏ chế độ quân chủ độc
quyền và chuyển giao quyền lực cho chính phủ mới dựa trên thể chế
hiến pháp. Đến tháng 10 năm 1932, ông đã ký Bản Hiến pháp đầu
tiên của Thái lan và kết thúc 800 năm tồn tại của chế quân chủ độc
quyền ở đất nước này.
Mặc dù hàng loạt các văn bản hiến pháp ra đời song sau hơn
nửa thế kỷ tồn tại, những quan điểm chính trị về một thể chế chính
phủ vẫn khơng thay đổi như nhà Vua là người đứng đầu lực lượng
quân sự và bề trên trong tôn giáo. Nhà Vua thực hiện quyền lập pháp
thông qua quốc hội, thực hiện quyền hành pháp thông qua nội các
đứng đầu là Thủ tướng, và quyền xét xử thơng qua tịa án.

Trong suối 6 thập kỷ qua, nền quân chủ lập hiến ở Thái lan đã
tạo nên một quốc gia hiện đại và thịnh vượng ở Đông Nam Á. Thái
Lan đã và đang tiếp nhận những tư tưởng dân chủ của phương Tây
trước đòi hỏi của dân tộc song vẫn giữ được bản sắc dân tộc và nến
văn hóa đáng trân trọng. Gần đây, vào tháng 6 năm 1992, Hiến pháp
đã được sửa đổi có điều luật bắt buộc là Thủ tướng phải là thành
viên quốc hội được bầu chọn.
II. Tình hình phát triển kinh tế của thái lan
8


1. Quá trình phát triển kinh tế
Cho đến năm 1996, nền kinh tế Thái Lan đã phát triển qua 7 kỳ
kế hoạch 5 năm. Với 7 kỳ kế hoạch 5 năm này đã đưa lại kết quả là
trình độ phát triển kinh tế của Thái Lan tương đối cao so với một số
nước ASEAN- 10. Khu vực tư nhân tương đối phát triển. Các chính
sách kinh tế vĩ mơ và cơng nghệ hố của đất nước đang chuyển dần
từ thay thế nhập khẩu sang khuyến khích xuất khẩu. Các quyết định
kinh tế được đưa ra theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường chứ
không phải theo hướng can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.
Trong 30 năm qua kể từ khi thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế cho đến nay đã chứng kiến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
mạnh mẽ ở Thái lan. Từ một đất nước chủ yếu là sản xuất và xuất
khẩu những mặt hàng sơ chế, Thái lan đã phát triển lên thành một
quốc gia công nghiệp lớn trong khu vực. Hiện nay nông nghiệp chỉ
chiếm 11,5% hoạt động kinh tế trong khi sản xuất cơng nghiệp đóng
góp khoảng 31,4%. Chiến lược cơ cấu tăng tỷ trọng các nghành công
nghiệp dùng nghiều lao động và tài nguyên là hợp lý đối với một
nước nông nghiệp như Thái Lan. Mặt khác nhờ phát triển nhanh các
nghành công nghiệp nhẹ dựa chủ yếu vào công nghệ nhập khẩu và sử

dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ.
Chuyển đổi cơ cấu thấy rõ nhất là trong mặt trận xuất khẩu.
Các mặt hàng công nghiệp sản xuất để xuất khẩu tăng gần gấp đôi
khoảng 38% trong tồng số các mặt hàng xuất khẩu trong năm 1982
tăng lên 72% trong năm 1993. Các mặt hàng dệt cùng lúa gạo đã trở
thành những mặt hàng xuất khẩu chính của Thái lan và Thái lan
cũng là quốc gia xuất khẩu lớn các sản phẩm tinh xảo như ổ đĩa
cứng máy tính, micro chuẩn xác và các phụ kiện, vi mạch...
Qua đây có thể nhận xét rằng quy mô của nền kinh tế Thái
Lan tương đối lớn. Về GDP, Thái Lan xếp hàng thứ hai trong
9


ASEAN, sau Indonesia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan
luôn đạt mức cao so với các nước trong khu vực. Ngành công nghiệp
tương đối hiện đại và đang vượt khu vực cả về tỷ trọng GDP lẫn
xuất khẩu, khu vực dịch vụ phát triển khá hiện đại và chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP.
2. Vài nét về chính sách kinh tế và hoạt động kinh tế đối
ngoại của Thái Lan những năm gần đây

2.1. Chính sách tài chính
Chính phủ đã áp dụng chính sách khuyến khích tài chính từ năm 1999
và nó đã trở thành một cơng cụ chính để phát triển kinh tế đất nước. Năm
2001, chính sách tài chính này đã đạt được nhiều hiệu quả, tập trung vào
những dự án chính sau:
1. Dự án tăng thu nhập của nền kinh tế
2. Tăng chi ngân sách để phát triển nền kinh tế
3. Duy trì VAT ở mức 7% đến tháng 9/2003 nhằm duy trì sức mua của
nhân dân.

4. Xây dựng quỹ phát triển nông thôn nhằm khuyến khích nhân dân vay
vốn đầu tư.
5. Thành lập quỹ vay 3 năm cho nông dân
6. Thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc mở rộng thị trường và việc tạo
thuận lợi trong đàm phán thương mại bằng cách bổ nhiệm đại diện thương
mại ở nước ngoài.
7. Xây dựng nhiều biện pháp thúc đẩy du lịch
8.Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng xa xỉ như rượu, bia và thuốc
lá.

2.2. Chính sách tiền tệ:

10


Chính phủ Thái Lan đã thành cơng trong việc làm giảm tỷ lệ lạm phát
và đã duy trì tỷ giá hối đối theo hướng phát triển các dự án có trọng điểm.
Chính phủ cũng giúp cho các ngân hàng thương mại giảm chi phí hoạt động
để giúp các ngân hàng giảm lãi suất. Lạm phát thấp đi cho phép ngân hàng ở
Thái Lan sử dụng chính sách tiền tệ điều tiết để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Để
giảm việc vượt quá tài sản cầm cố trong hệ thống ngân hàng, chính phủ đã áp
dụng biện pháp nhằm thúc đẩy việc vay ngân hàng, như:
Thành lập ngân hàng nhân dân nhằm giúp người nghèo.
Thành lập ngân hàng cho các xí nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo thuận lợi trong
hệ thống ngân hàng cho các xí nghiệp này.
Mở rộng các tổ chức tài chính cơng cộng để mở rộng tín dụng cho các xí
nghiệp vừa và nhỏ.
Tăng các hoạt động của cơng ty bảo hiểm tài chính cho các xí nghiệp vừa và
nhỏ để tạo việc cho vay của ngân hàng.


Bảng I.1: Một số số liệu kinh tế Thái Lan.
1995 1996 1997 1998
GDP và các thành phần chính(% thay đổi qua các năm)
GDP DANH NGHĨA (TỶ USD)

GDP THỰC TẾ

Đầu tư tư nhân
Đầu tư chính phủ

1999

2000

164,8

183,26 150,23 112,22 121,92 124,44

8,6

5,9

10,3
19,18

3,4
28,93
11

-1,4


-10,8

4,2

4,4

-31,7 -52,4 -6,5
14,2
16,12 26,52 -16,37 -7


Xuất khẩu(Tỷ USD)
Nhập khẩu(Tỷ USD)

23,6
30,5

-0,2
2,3

29,8
4,3

21,9
-10,5

-1,4
7,3


27,1
39,6

Các cán cân tài chính và đối ngoại (% thay đổi qua các năm )
Cán cân ngân sách
Cán cân mậu dịch

2,7
-4,9

2,3
-9,1

-0,7
-1,8

-2,5
10,9

-2,9
7,6

-2,4
4,4

Cán cân tài khoản vãng lai

-8,1

-14,4


-3,1

14,3

12,5

7,5

-4,3

-9,8

-7,9

-9,5

102,4

90

93,5

86,9

1,2

4,4

4,2


3,6

Cán cân vốn
12,97 19,5
Các chỉ số kinh tế (% thay đổi qua các năm)
Tỷ giá hối đoái hiệu quả thực
109,2
tế (lấy gốc năm 1997 = 100)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1,7
1,5

Nguồn: Tài liệu cơ bản của Vương quốc Thái Lan
Toàn bộ nền kinh tế được cấu thành bởi 3 khu vực:
• Nơng nghiệp gồm: chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp và thuỷ hải sản.
• Thái Lan là một nước có tiềm năng nơng nghiệp tương đối lớn. Mặc dù diện tích
canh tác khơng nhiều, trình độ thâm canh tăng năng suất chưa cao nhưng Thái Lan lại
đạt được thành công lớn trong cơ cấu lại sản xuất theo hướng đa dạng hoá sản phẩm
xuất khẩu. Một số loại cây trồng chủ yếu: lúa, ngơ, sắn, mía...ngồi ra cịn mở rộng
một số loại cây trồng lấy sản phẩm xuất khẩu như: dứa, thuốc lá, đậu tương...
Diện tích rừng chiếm khoảng 26,6% diện tích lãnh thổ. Chính phủ cấm hồn tồn việc
xuất khẩu gỗ và đưa ra chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc.
Thái Lan có diện tích ngư trường lớn thứ 3 trong khu vực Châu á, sau Nhật Bản, Trung
Quốc. Sản lượng đánh bắt cá hàng năm đạt xấp xỉ 3 triệu tấn/năm.
• Cơng nghiệp gồm 4 ngành: cơng nghiệp chế biến lâm hải sản, công nghiệp dệt,
công nghiệp điện tử và điện dân dụng, công nghiệp sản xuất xi măng, trong đó
ngành cơng nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất.
• Dịch vụ gồm: ngân hàng, du lịch, khách sạn... Trong đó, ngành du lịch chiếm tỷ
trọng cao nhất.

12


Cùng với cơng nghiệp hố, cơ cấu các ngành trong GDP đã thay đổi căn bản.
Bảng I.2: Tỷ lệ các ngành trong nền kinh tế Thái Lan (%).

Năm

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

1970

30,2

30,7

44,1

1980
1990
1994

32,2
12,7
10,0


28,7
37,1
39,2

48,1
50,2
50,8

Nguồn: Tư liệu kinh tế nước thành viên ASEAN, NXB Thống Kê, 1996

2.3. Chính sách đầu tư
Chính phủ Thái từ lâu đã thấy được vai trò chủ chốt của đầu
tư nước ngồi trong việc đổi mới cơng nghệ và quản lý, tiếp cận thị
trường. Vào những năm 90, chính sách tự do hóa mơi trường kinh tế
sẽ đảm bảo nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục và tạo ra
những bước đột phá trong cơng nghệ.
Thái Lan khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) nhưng khơng có
quy định phân biệt đối xử giữa công ty địa phương và cơng ty nước ngồi.
Ngay từ năm 1962 chính phủ thơng qua luật khuyến khích đầu tư, ( năm 1997
có sửa đổi lại theo hướng đẩy mạnh thu hút FDI ) nó cịn q mới mẻ đối với
các nước khác trong khu vực nhưng đến cuối thập kỷ 80 sang thập kỷ 90, vai
trò quan trọng của FDI và Thái Lan không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho công
nghiệp hố mà cịn mang theo cả kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh doanh sản
xuất và tạo ra nhiều thay đổi kinh tế - xã hội.
Vụ đầu tư (BOT) thường dành ưu tiên 100% vốn sở hữu cho nước ngoài
vào các dự án lớn nhằm tạo ra nhiều việc làm, chuyển giao công nghệ tiên
tiến, tạo ra nhiều đầu vào hoặc đầu ra, tiết kiệm năng lượng hoặc những dự án
chế tạo sản phẩm xuất khẩu. Trong khi đó, đa số sở hữu của tư bản địa

13



phương được khuyến khích trong các ngành cơng nghiệp chế tạo phục vụ thị
trường nội địa (có thể chiếm tới 51%) hoặc các ngành nông nghiệp, chăn nuôi
gia súc, đánh cá, khai thác và dịch vụ (có thể chiếm tới 60%).Chính phủ đã
dành nhiều khuyến khích đầu tư thơng qua miễn giảm thuế thu nhập công ty,
thuế nhập khẩu, thuế kinh doanh. Đạo luật khuyến khích xuất khẩu năm 1972
cho phép miễm giảm thuế hoàn toàn đối với đầu vào nhập khẩu và hoàn trả lại
tất cả các loại thuế đã nộp trong q trình sản xuất xuất khẩu. Ngồi ra các
cơng ty cịn nhận được những khuyến khích phụ thêm nữa nếu công ty thiết
lập cơ sở sản xuất ở ngồi khu vực trung tâm Bangkok. Chính phủ coi phi tập
trung hoá là một trong những mục tiêu then chốt trong chính sách đầu tư. Một
danh sách các khu vực khuyến khích đầu tư được chính phủ thơng qua nhằm
thúc đẩy tăng trưởng đồng đều hơn nữa giữa các vùng và giải toả tình trạng
quá tải ở Bangkok và vùng phụ cận.

2.4. Hội nhập kinh tế khu vực
Thái Lan được đánh giá là quốc gia thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế thành công. Thể hiện rõ nét ở mức sống dân cư tăng lên rõ
rệt. Những năm 50 của thế kỷ XX, thu nhập quốc dân bình quân theo
đầu người ở mức dưới 100USD một năm, vào năm 1997 thu nhập
quốc dân bình quân theo đầu người đã đạt mức 2.463.3USD.Q
trình hội nhập kinh tế thế giới nói chung và hội nhập kinh tế khu
vực ASEAN nói riêng của Thái Lan có sự gắn bó mật thiết với cảc
trung tâm kinh tế thế giới ( Mỹ, Nhật, EU ). Điều đó thể hiện ở tỷ
trọng cao về xuất nhập khẩu hàng hoá, về vốn đầu tư trực tiếp của
các trung tâm đó với Thái Lan trong suốt ba thập kỷ qua.
Về hoạt động điều tiết của chính phủ trong q trình hội
nhập, Chính phủ Thái Lan đã có những chính sách ngoại giao khơn
khéo. Điều đó có tác dụng giữ độc lập dân tộc trong hàng thế kỷ, tạo

mơi trường chính trị tốt cho sự phát triển kinh tế bên trong, đồng
14


thời khai thác được những cơ hội cũng như khai thác các khoản viện
trợ từ các chính phủ và các tổ chức quốc tế cho phát triển kinh tế
quốc gia. Hội nhập kinh tế khu vực của Thái Lan chủ yếu thực hiện
bằng các quan hệ kinh tế song phương. Trong các nước ASEAN5,
Thái Lan là một quốc gia quy định một danh mục hàng hoá loại trừ
trong thoả thuận thương mại ưu đãi PTA với số lượng lớn.
Thái lan được liệt kê vào danh sách các nước công nghiệp hóa mới.
Cơng cuộc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Thái lan vừa có cả những thuận lợi
và thách thức địi hỏi phải đầu tư thích hợp đáp ứng được nhu cầu phát triển
của đất nước.
3. Kinh nghiệm phát triển đất nước của Thái Lan
Thái Lan là một trong số ít nước bị thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng
hoảng kinh tế và tài chính năm 1997. Từ năm 1999 Thái Lan ra khỏi cuộc
khủng hoảng, kinh tế dần dần được phục hồi. Nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc
nhiều vào việc xuất khẩu. Hai thị trường lớn nhất của Thái Lan là Mỹ và Nhật
Bản, tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ là 20% và sang Nhật là 15% buôn bán của
Thái Lan đối với thế giới. Nhưng do tác động mạnh mẽ của sự suy giảm nền
kinh tế thế giới đặc biệt là ở hai nền kinh tế Mỹ và Nhật Bản cùng với sự
giảm giá mạnh của nhiều mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế, nhất là
giá gạo đã làm cho xuất khẩu của Thái Lan suy yếu. Sau sự kiện 11/9, sự phục
hồi kinh tế Mỹ càng chậm, dự kiến năm 2001 kinh tế Mỹ chỉ đạt mức tăng
trưởng dưới 1,5 % và kinh tế thế giới cũng chỉ đạt 2,7%. Năm 2001 kinh tế
Thái Lan cũng chỉ tăng từ 1,3 – 1,8%.
Do tác động của kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, chính phủ đã điều
chỉnh kinh tế hướng vào nội lực, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của
dân. Chính phủ đã đề ra hàng loạt chính sách, biên pháp như: tăng tiêu dùng

chính phủ, duy trì thuế giá trị gia tăng là 7% đến tháng 12-2003 để đảm bảo
sức mua của người dân, hỗn nợ cho nơng dân, gây quỹ làng bản bằng cách
15


cho vay mỗi làng bản 1 Triệu Baht, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu – mỗi
làng một sản phẩm, đẩy mạnh du lịch và đánh thuế cao đối với một số mặt
hàng xa xỉ như rượu bia, thuốc lá v.v...
Kết quả là từ đầu năm 2002 kinh tế Thái Lan đã có dấu hiệu phục hồi.
Bảng I. 5: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm trở lại đây (1997 – 2002)
Năm
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tốc độ tăng trưởng kinh tế(%) -1,7
-10,8 4,2
4,3
1,7
3,0
Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường Thái Lan năm 2001của Thương vụ
Việt Nam.
Tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả các chính sách quan trọng do chính phủ
đề ra vừa qua nội các Thái Lan đã xem xét lại kế hoach tổng thể 5 năm 2001 –
2006 và điều chỉnh tốc độ phát triển kinh tế hằng năm như sau:
Bảng I.6: Tốc độ phát triển kinh tế từ năm 2001-2006(%)
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
1,3 – 2 %
3%
4%
5%
5%
5,5 %

Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường Thái Lan 6 tháng đầu năm 2002
của Thương vụ Việt Nam.

Về công nghiệp:
Sau 5 năm từ kể cuộc khủng hoảng 1997, công nghiệp Thái Lan có dấu
hiệu phục hồi. Quý 1 – 2002 chỉ số công nghiệp tăng lên 117,9 (thời điểm
thấp nhất quý 3 –1998 là 95,8) tổng công suất năm 2001 là 53,3 % do sức
mua giảm và xuất khẩu khó khăn.Tổng sản lượng công nghiệp năm 2001 xấp
xỉ mức năm khủng hoảng 1,97. Hàng công nghiệp xuất khẩu giảm 7%, chỉ đạt
40,3 tỷ USD. Dầu khí giảm 11,5 % đạt 1,7 tỷUSD. Đồ điện và điện tử chiếm
20 % trị giá xuất khẩu. Sang năm 2002 tình hình xuất khẩu sáng sủa hơn, 5
ngành công nghiệp chiếm 1/3 tổng trị giá xuất khẩu tăng năm 2002 là: công
nghiệp ôtô, chế biến thực phẩm, điện tử, cao su và sản phẩm cao su, hàng dệt
may.
16


Về nông nghiệp:
Lĩnh vực nông nghiệp được coi là cột sống của nền kinh tế Thái Lan, thu
hút hơn một nửa dân số và chiếm 42 % lực lượng lao động xã hội. Chính sách
nơng nghiệp được chính phủ đặc biệt quan tâm. Từ khi thủ tướng Thaksin lên
cầm quyền, Chính phủ đã can thiệp giá thu mua thóc nhằm nâng giá gạo xuất
khẩu bên cạnh việc hợp tác với các nước xuất khẩu gạo như Việt Nam, Ấn
Độ, Pakistan và Miến Điện v.v...Xuất khẩu gạo năm 2001 đạt 7,52 triệu tấn
trị giá 1,538 tỷ USD tăng 13,9 % so với mức 6,6 triệu tấn năm 2000. Năm
2002 Thái Lan dự kiến lượng gạo xuất khẩu là 7 triệu tấn.Tuy nhiên theo
đánh giá của FAO,Thái Lan có thể xuất khẩu tăng so với năm 2001 gần 100
nghìn tấn

Chính phủ đề ra nhiều chương trình đầy


tham vọng nhằm rút ngắn mức chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, nâng
đỡ nông dân như chính sách: “ Mỗi làng 1 sản phẩm”, “Quỹ làng 1 triệu
Bath”, “Ngân hàng nhân dân”, và hàng loạt các biện pháp khác như trợ giá,
mua tạm trữ nơng sản, hỗn nợ cho nơng dân.Tuy nhiên những khó khăn do
sự khủng hoảng kinh tế đã hạn chế đa dạng hố sản phẩm nơng nghiệp ,nhất
là việc thiếu vốn để mở rộng sản xuất. Do vậy Thái Lan vẫn dừng lại ở xuất
khẩu nơng sản thơ là chính như gạo, cao su, sắn lát, tôm đông lạnh và gà đông
lạnh.
Về thương mại:
Thái Lan luôn coi xuất khẩu là trọng tâm của hoạt động kinh tế đối ngoại
Bảng I.7: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan 3 năm gần đây
Năm
Gạo
Cao su
Hải sản
hộp
Tôm

1999
2000
2001
Triệu tấn Tr. USD Triệu tấn Tr. USD Triệu tấn Tr. USD
6,84
1949
6,12
1641
7,52
1583
2,03

1159
2,54
1525
2,55
1326
0,55

2010

0,53

2067

0,57

2015

0,14

1283

0,14

1510

1,15

1244

17



Sắn

Đường

5,31
0,26

609
560
560

4,62
0,31
4,09

513
615
658

5,97
0,4
3,24

577
800
692

Nguồn: Bộ Thương mại

Bảng I.8 : Kim ngạch buôn bán của Thái Lan : (Tỷ USD)
Năm
1999
2000
2001
5 tháng đầu năm 2002

Xuất khẩu
68,24
69,87
63,203
22,55

Nhập khẩu
65,79
67,86
61,081
24,6

Nguồn : Vụ Ngoại thương Bộ Thương mại – Thái Lan
Trong đó:
• Thái Lan xuất khẩu sang Mỹ là 12,2 tỷ USD. Năm 2001, giảm 11%
so với năm 2000. Dự kiến năm 2002 xuất khẩu sang Mỹ đạt 14 tỷ
USD tăng 5,8 %.
• Xuất khẩu của Thái Lan sang EU năm 2001 là 10,5tỷ USD giảm 4,1
% so với năm 2000. Dự kiến năm 2002 xuất khẩu sang EU tăng 6,9
%.
• Xuất sang Nhật năm 2001 là 10 tỷ USD giảm 2,5 % so với năm
2000. Dự kiến xuất khẩu sang Nhật năm 2002 tăng trở lại 2,5%.
• Xuất khẩu sang ASEAN năm 2001 là 10,5 tỷ USD giảm 7,5 %. Năm

2002 dự kiến 11,1 tỷ USD tăng 5,3 %.
• Xuất khẩu sang Trung Đơng năm 2001 đạt gần 2 tỷ USD .
Về đầu tư:
Năm 2001 có khoảng 842 dự án đầu tư trị giá 4,21 tỷ USD, giảm so
với 1142 dự án trị giá 10,59 tỷ USD năm 2000. Nửa đầu năm 2001 Thái Lan
cấp giấy phép cho 295 dư án đầu tư trị giá gần 2 tỷ USD. Cục quản lý đầu tư
18


BOI đã từ chối không cấp giấy phép cho 4 dự án sản xuất xe máy của Trung
Quốc nhằm bảo hộ sản xuất trong nước đối vơí 7 nhà máy của Thái Lan. Cục
quản lý đầu tư đã quyết định miễn thuế nhập khẩu máy móc cho dự án sản
xuất ôtô để khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan cịn khuyến khích
đầu tư nước ngồi thơng qua việc cho nứơc ngồi mua đất 99 năm và người
nước ngịai góp cổ phần 49 % thay cho tối đa 25 % quy định trước đây trong
kinh doanh viễn thơng. Chính phủ sẽ cho thành lập 1 Uỷ ban quản lý mới
nhằm thu hút đầu tư trong thị trường Chứng khoán (SET) Thái Lan sẽ áp
dụng việc miễn giảm thuế đối với cơng ty nước ngồi nhằm biến Thái Lan
thành trung tâm thương mại ở Đông Nam á thay thế Singapore. Trước đây
Thái Lan đánh thuế cao nhất vùng 30% nay giảm xuống còn 10%.
Về du lịch:
Thái Lan là một “điểm đến” hết sức hấp dẫn với du khách thế giới.
Sự kiện 11/9 làm cho ngành hàng không và du lịch nhiều nước bị tổn hại
nặng. Riêng Thái Lan số du khách dự kiến năm 2001 là tăng 8,4% so với 10,3
triệu du khách năm 2000, nhưng Cục du lịch Thái Lan đã phải điều chỉnh con
số này xuống còn 2 % .Trong 5 tháng đầu năm 2002 số du khách đến Thái
Lan đạt 4,6 triệu người. Dự kiến số du khách đến Thái Lan đạt 10,86 triệu
người .
Theo dự báo của Tổng cục du lịch Thái Lan năm 2003 số lượng du khách
đến Thái Lan sẽ đạt 11,13 triệu người, doanh thu đạt 8,4 tỷ USD. Năm 2003

phấn đấu trở thành “ thủ đô du lịch của Châu Á” nhằm thu hút số lượng lớn
du khách từ Trung Quốc, Nhật Bản và Trung Đông.
Các lĩnh vực khác như Ngân hàng Tài chính tương đối ổn định, các
khoản vay khống giảm lãi suất tăng và tỷ giá đồng Baht so với ĐôLa Mỹ cũng
tăng lên chút ít. Dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 6/2002 là 36,3 tỷ USD. Nợ

19


nước ngoài 64,4 tỷ USD, tỷ lệ lạm phát là 1,5 %, thất nghiệp chỉ khoảng 2,9
%.

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - THÁI LAN

I.Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan
Việt Nam và Thái Lan đã có mối quan hệ từ lâu. Trong lịch sử hiện đại,
mối quan hệ đó ngày càng phát triển mạnh mẽ và đạt tới những tầm cao mới.
Sự phù hợp về lợi ích của hai nước trên nhiều mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng... là cơ sở vững chắc cho sự phát triển quan hệ kinh tế giữa
hai nước.
Tính đến nay Việt Nam và Thái Lan đã ký 8 hiệp định đặt nền móng
pháp lý cho sự hợp tác cùng có lợi. Có những hiệp định đã được ký rất sớm,
ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, đó là Hiệp định thương
mại, hợp tác kinh tế và kỹ thuật, Hiệp định vận chuyển hàng không (1-1978).
Mặc dù thời kỳ đó quan hệ bn bán chưa nhiều, song từ khi đường hàng
20


không hai nước được mở, việc giao lưu giữa hai nước cũng như giữa Việt

Nam và thế giới tăng nhanh.
Bước vào những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, hai nước lần lượt
ký hoặc sửa đổi bổ sung nhiều hiệp định quan trọng khác như Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư (10-1989), Hiệp định tránh thuế hai lần và
Hiệp định tín dụng (12-1992) Hiệp định hợp tác du lịch (3-1994) và Nghị
định thư sửa đổi hiệp định thương mại, hợp tác kinh tế kỹ thuật ký trước đây
(1- 1992).
Bên cạnh đó cơ chế hợp tác và phối hợp cũng từng bước được hình
thành: Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế kỹ thuật ( theo hiệp định cùng tên
ký 9- 1991; Uỷ ban về nghề cá và trật tự trên biển (12 -194). Bên dưới uỷ ban
hỗn hợp về hợp tác kinh tế kỹ thuật cịn có các tiểu ban chun ngành đi sâu
từng lĩnh vực hợp tác như kỹ thuật dầu khí (JTC), khoa học kỹ thuật (1993),
thương mại tài chính (1995), giao thơng vận tải (1996).

I. Quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt nam - Thái lan trước
năm 1990
Kể từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào năm
1976 mối quan hệ thương mạt giữa hai nước đã có những bước phát
triển nhất định. Sự ra đời của Hiệp định Thương mại, Hợp tác kinh
tế

và kỹ thuật vào tháng 1 năm 1978 là cơ sở cho mối quan hệ

thương mại giữa hai nước.
Tuy nhiên, trong giai đọan này, những nhân tố chính trị là
những lý dị chính giải thích cho sự phát triển chậm của quan hệ
thương mại giữa hai nước Thái lan và Việt nam. Thái lan đã áp dụng
một chính sách cơ lập Việt nam để giữ mối quan hệ hợp tác với các
nước phương Tây và các nước ASEAN. Dẫu vậy, trong thời kỳ này
quan hệ thương m0ại giữa hai nước không bị gián đoạn.

21


Ngoại thương của Việt nam đối với Thái lan
Đơn vị : Triệu USD
...
Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu

1981
0,78
0,34
0,44

1982
1,34
0,76
0,55

1983
1,35
0,36
0,99

1984
1,05
0,60
0,45


1985
0,89
0,55
0,34

Nguồn : “Direction of Trade, IMF” (phương hướng thương
mại tổ chúc tiền tệ Thế giới)
Năm 1981, Chính phủ Thái lan đã đưa ra một danh mục hơn
200 loại hàng hóa bị cấm bn bán với các nước cộng sản, bao gồm
cả Vệt nam, trong đó có cả các sản phẩm tiêu dùng thơng thường
như gạo, bột ngọt.... Có thể thấy được tổng giá trị buôn bán giữa hai
nước trong giai đoạn này thấp, tốc độ tăng chậm thậm chí có xu
hướng giảm xuống. Nếu như năm 1981, tổng kim ngạch buôn bán
giữa hai nước đạt 0,78 triệu USD, trong đó xuất khẩu từ Việt nam
sang Thái lan là 0,34 triệu USD và xuất khẩu của Thái lan sang Việt
nam là 0,44 triệu USD. Năm 1982 được ghi nhận là năm tổng kim
ngạch buôn bán giữa hai nước vượt qua con số 1 triệu USD. Rõ ràng
con số này có khả quan hơn song mới chỉ dừng lại ở 134 triệu USD.
Sang năm 1983, tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước gần như
chững lại với 1,35 triệu USD, nhích 0,01 triệu USD so với năm
1982. Hai năm 1984 và 1985 tốc độ xuất khẩu của Việt nam sang
Thái lan có tăng chậm từ 0,36 triệu USD năm 1983 lên 0,60 triệu
USD trong năm 1 984 và 0,55 triệu USD trong năm 1 985,song nhập
khẩu từ Thái lan về Việt nam lại giảm đi. Trên thực tế, tổng giá trị
hàng hố bn bán giữa hai nước trong hai năm này thấp hơn so với
hai năm trước đó. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước
cũng hết sức nghèo nàn, hạn chế một phần do phải chịu những áp

22



lực mạnh về chính trị, mặt khác phải kể đến khả năng sản xuất cũng
như chính sách kinh tế cịn nhiều hạn chế của mỗi nước.
Do ảnh hưởng của chính sách cô lập Việt nam về thương mại
nên khả năng bn bán giữa hai nước bị kìm chế, tốc độ bn bán có
xu hướng giảm. Tuy nhiên, trên thực tế các loại hăng hóa tiêu dùng
vẫn từ Thái lan vào Việt nam thông qua các nước thứ ba như
Xingapore, Nhật. Vì vậy, khơng chỉ các cố gắng của Thái lan nhằm
cô lập Vệt nam bị giảm đi, mà một phần lợi nhuận thu được từ xuất
khẩu của Thái lan cũng bị rơi vào tay các nhà xuất khẩu của các
nước thứ ba. Đây là điều bất lợi

cho Thái lan trong hoạt động

thương mại với Việt nam
Phải đến giữa thập kỷ 80, chinh sách " mở cửa " của Việt nam
để thúc đầy phát triển kinh tế trong nước cùng với quan điểm " biến
chiến trường thành thị trường " của Thủ tướng Thái lan,
Chatichoohavan vào năm 1988 nhằm giải quyết những khó khăn về
quan hệ kinh tế trong khu vực đã làm cho khối lượng buôn bán giữa
hai nước ngày càng lăng lên. Danh mục hăng hóa bị cấm dần dần
giảm xuống trước khi bị xóa bỏ hồn tồn vào năm 1989. Ban
Thương mại Thái lan đã có rất nhiều nỗ lực để giải quyết những khó
khăn trong khu vực tư nhân nhằm tăng cơ hội và khuyến khích trao
đồi bn bán giữa hai nước
Sự tăng lên nhanh chóng trong quan hệ thương mại giữa hai
nước sau năm 1986 đã phản ánh việc bất đầu trở lại mối quan hệ
kinh tế song phương giữa Thái lan và Việt nam. Có thể thấy ràng, từ
năm 1987, Việt nam thực sự bước vào một giai đoạn mới với công
cuộc đổi mới chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện

chính sách mở cửa. Đây cũng là bước ngoặt lớn trong quan hệ kinh
tế kể cả đối nội cũng như đối ngoại.

23


Khối lượng trao đổi hàng hoá giữa hai nước tăng theo nhịp độ chuyển
sang nền kinh tế thị trường và mức độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam. Bắt
đầu từ năm 1989, khi nền kinh tế Việt Nam thực sự chuyển mạnh sang cơ chế
thị trường, quan hệ bn bán giữa hai nước có bước nhảy vọt, mức tăng
trưởng mậu dịch năm 1989 tăng 389,2% so với năm 1988.
Bảng II - 12: Kim ngạch XNK Việt Nam- Thái Lan (1986-1989).
(Đơn vị: triệu USD).
Tổng kim ngạch
Mức tăng trưởng (%)

1986
4,7
-

1987
7,5
59,6

1988
13,0
73,3

1989
63,3

389,2

Nguồn: Bộ Thương mại
II. Quan hệ Kinh tế - Thương mại Việt nam - Thái lan từ
năm 1990 đến nay
Đến những năm đầu thập kỷ 90, mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Thái
Lan đã thực sự phát triển mạnh mẽ trên nhiều mặt trong đó lĩnh vực kinh tế
thương mại phát triển một cách rõ rệt nhất.
Bước vào thập kỷ 90, xu hướng tồn cầu hố và khu vực hoá đã trở
thành xu thế chủ đạo trên phạm vi tồn thế giới. Trong khu vực Đơng Nam Á,
xu hướng đối thoại đã từng bước thay thế cho đối đầu. Các nước ASEAN đã
từng bước khắc phục những khuyết tật của mình để đảm bảo tăng trưởng cao,
giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và cơng bằng xã
hội.
Chính trong bối cảnh thế giới và khu vực như vậy, Việt Nam đã tích
cực mở cửa nền kinh tế, cải cách chính sách và thể chế, từng bước tham gia
vào khu vực và giải quyết tốt các mối quan hệ với các nước trong khu vực
trong đó có Thái Lan. Tháng 7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính

24


thức của ASEAN. Nền kinh tế Việt nam tiếp tục hội nhập tích cực vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, điển hình là năm 1995, Việt Nam đã là quan sát
viên của tổ chức Thương mại Thế giới, gia nhập ASEM năm 1996 và APEC
năm 1998. Việt Nam cũng là thành viên của các Tổ chức tài chính tiền tệ khu
vực và thế giới như WB, IMF, ADB ... Đây chính là bối cảnh hết sức thuận
lợi cho quan hệ Việt Nam - Thái Lan phát triển lên một tầm cao mới. Đặc biệt
là tháng 2/1994 Mỹ tuyên bố bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam lại càng tạo
thuận lợi cho quan hệ Việt - Thái phát triển, đặc biệt trên hai lĩnh vực thương

mại và đầu tư.
1. Quan hệ mậu dịch song phương giữa Việt nam - Thái lan từ
năm 1990 đến nay
Kể từ năm 1992, sau chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Thái Lan,
cùng với những biến đổi trong chính sách ngoại thương của Việt Nam và sự
hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực đã tạo ra những chiều hướng
phát triển thuận lợi cho quan hệ buôn bán song phương Việt Nam - Thái Lan.
Kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã tăng lên nhanh chóng, cụ thể:
Bảng II-13: Kim ngạch XNK Việt Nam - Thái Lan (1990 - 2001)
(Đơn vị : Triệu USD).
Năm
1990
1995
1998
1999
2000
2001
5 th đầu năm 2002

Xuất khẩu
52,34
42,95
295,4
321,7
332,1
325,8
118,00

Nhập khẩu
17,08

465,92
673,5
556,26
812,94
801,30
406,00

Tổng kim ngạch
69,42
508,87
968,9
877,96
1.201,84
1.127,30
624,00

Cán cân
+35,26
-422,97
-378,1
-234,56
-480,84
-475,5
-288

Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt nam
Từ năm 1995 đến nay đánh dấu một bước chuyển mới trong quan hệ
của giới kinh doanh hai nước, ngoài những ngành nghề truyền thống, đã có
25



×