Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa ba người: cô gái, họa sĩ già và anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa - văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.63 KB, 3 trang )

Kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa ba người:
cô gái, họa sĩ già và anh thanh niên trong Lặng lẽ
Sa Pa

Đề bài: Em hãy đóng vai cô kĩ sư nông nghiệp trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
Long để kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa ba người: cô gái, họa sĩ già và anh thanh
niên trên trạm khí tượng Yên Sơn.

Chiếc xe khách đang chầm chậm lăn bánh trên con đường cheo leo uốn lượn quanh co. Bỗng người lái xe
quay sang hỏi ông họa sĩ ngồi bên cạnh tôi: “Chúng ta vừa qua Sa Pa đây, bác không nhận ra ư?”. Họa sĩ
già mỉm cười đáp: “Có. Tôi nhận ra Sa Pa bắt đầu với những rặng đào và những đàn bò lang cổ đeo
chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải không bác?”.

Người lái xe không hỏi gì nữa. Tôi và họa sĩ cũng im lặng vì khung cảnh trước mắt bỗng hiện ra với vẻ
đẹp kì lạ. Nắng bắt đầu lên tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng
những ngón tay bàng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa
cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương,
rơi xuống đường, luồn cả vào gầm xe. Giữa lúc đó, xe bỗng phanh kít lại. Khách trên xe xôn xao kêu lên:
“Cái gì thế ?”. Bác lái xe bảo là dừng lại một lúc để lấy nước và cho khách ăn lót dạ.

Trong lúc mọi người vui vẻ trò chuyện, bác lái xe quay sang nói nhỏ với họa sĩ: “Tôi sắp giới thiệu với
bác một người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn cho mà xem!”. Nói đến đây, tự nhiên
bác nhìn tôi, khiến tôi đỏ mặt. Rồi bác kể: “Một thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng địa
cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Cách đây bốn năm, có hôm xe tôi đi đến đây thì thấy
một khúc cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đến, cùng tôi và hành
khách lăn khúc cây sang ven đường. Tôi hỏi không biết ai mà lại đẩy cây ra giữa đường thế này thì anh ta
đỏ mặt. Thì ra vì mới lên đây nhận công tác, một mình sống trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây
mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá nên anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chứng tôi, được nhìn và
nói chuyện một lát. Kìa, anh ta kia!”.



Tôi trông theo hướng tay bác lái xe thì thấy một người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ từ sườn
núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ. Anh ta đưa cho bác lái xe một gói nhỏ. Bác lái xe hỏi là cái gì thì anh ta
bảo là gửi biếu vợ bác gói củ tam thất để ngâm rượu uống cho khỏe. Bác lái xe cũng rút từ túi xách ra một
gói giấy, tươi cười nói: “Đây là cuốn sách tôi mua hộ anh”. Người con trai nhìn khắp lượt hành khách, vẻ
hân hoan lộ rõ. Bác lái xe dắt anh đến trước mặt họa sĩ : “Tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão thành nhé.
Còn cô gái này là kĩ sư nông nghiệp. Anh đưa khách về nhà đi! Tuổi già cần nước chè. Ở Lào Cai đi sớm
quá không kịp uống. Anh hãy đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà
anh”.

Anh thanh niên đỏ mặt, luống cuống cười: “Vâng! Mời bác và cô lên chơi! Nhà cháu ở kia kìa ! Lên cái
bậc cấp kia là tới đấy. Nước sôi đà có sẵn, nhưng để cháu về trước một tí. Bác và cô lên ngay nhé!”. Nói
xong, anh ta chạy vụt đi, cũng tất tả vội vàng như lúc đến. Tôi thầm nghĩ chắc là anh ta về trước để kịp
thu dọn nhà cửa. Con trai độc thân thường hay thiếu ngăn nắp.

Nhưng khi đến nơi, tôi ngạc nhiên ồ lên một tiếng khi thấy anh ta đang hái hoa. Sau gần hai ngày ngồi ô
tô, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, giờ đây đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc
cầu vồng kia, tôi lại gặp hoa lay-ơn, hoa thược dược… vàng, đỏ, tím, hồng… rực rỡ. Quên cả e thẹn, tôi
chạy đến bên anh. Tự nhiên như đã quen nhau từ lâu, anh trao bó hoa cho tôi và nói: “Tôi cắt thêm mấy
cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào, cắt hết cũng được, nếu cô thích.
Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến
thăm nhà tôi từ Tết và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay”. Anh ta đã nói to
những điều lẽ ra người ta chỉ nghĩ, điều đó làm cho tôi và họa sĩ già cảm động thật sự. Tôi ôm bó hoa vào
lòng rồi nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng của anh. Anh quệt vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười và
hỏi nhỏ: “Cũng đoàn viên phỏng?”. Tôi vâng rất nhẹ và gật đầu.

Bất chợt, anh tuyên bố chấm dứt tiết mục cắt hoa. Anh kể cho chúng tôi nghe về công việc hằng ngày của
anh là quanh quẩn bên mấy chiếc máy đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất… để ghi
chép các thông tin, báo về trung tâm bằng máy bộ đàm. Trên cơ sở ấy, trung tâm sẽ dự báo thời tiết, phục
vụ cho sản xuất và chiến đấu. Anh còn bảo là ban đêm không cần nhìn máy, chỉ nhìn gió lay lá hay nhìn
trời là có thể đoán được mây, được gió. Đêm nào anh cũng phải ghi và báo về trung tâm lúc một giờ sáng.

Xách đèn ra vườn, gió và tuyết như chỉ chực đợi người là ào ào xô tới. Cái im lặng lúc đó thật dễ sợ, nó
như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung
tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ
lại được.

Anh thanh niên ngừng nói. Họa sĩ thoáng bối rối. Có lẽ ông đã bắt gặp một con người mà ông ao ước
được biết. Chỉ cần một nét hiện ra trên gương mặt người ấy là đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý
sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài của ông.

Họa sĩ háo hức giục anh thanh niên kể tiếp, nhưng anh cất giọng vui vẻ: "Báo cáo hết!”, rồi mời chúng tôi
vào nhà uống trà. Họa sĩ đảo mắt nhìn quanh căn nhà nhỏ và ngồi xuống ghế. Căn nhà ba gian sạch sẽ,
ngăn nắp. Một chiếc giường con, một bàn học, một giá sách. Tôi đến trước chiếc bàn học, lật xem bìa
cuốn sách anh đang đọc dở rồi để lại như cũ. Anh rót nước chè mời chúng tôi. Họa sĩ già nhấp chén trà
nóng tỏa hương thơm ngát, tỏ vẻ thích thú, rồi tự tay rót thêm chén nữa và nói: “Ta thỏa thuận thế này.
Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh nghe. Tôi sẽ trở lại, hứa danh dự đấy. Tôi
cũng muốn biết cái im lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây,
anh hãy kể chuyện anh đi. Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người
lắm?”.

Anh thanh niên bật cười khanh khách, bảo rằng đấy là những từ dùng của bác lái xe. Bác ấy nói thế chưa
đúng vì bạn anh ở trạm đặt trên đỉnh núi Phăng Xi Păng cao ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét mới
đúng là “một mình”. Mà làm khí tượng thì ở cao như thế mới là lí tưởng.

Rồi anh hạ giọng như tâm sự: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt nhìn kĩ mới thấy một ngôi
sao, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy
nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn
liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu
buồn đến chết mất. Còn "thèm” người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu?
Mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi về Lai Châu cứ đến đây dừng lại
một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu dần thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ

xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm
hằng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là
một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là gì?”

Anh quay sang nhìn tôi: “Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy
mà. Mỗi người viết một vẻ”. Rồi anh say sưa kể về những đồng nghiệp của mình đang âm thầm ngày đêm
cống hiến cho đất nước. Theo anh thì họ đáng quý biết bao!

Trong thời gian ngắn ngủi, họa sĩ đã nhanh tay phác họa chân dung anh thanh niên vào sổ tay. Còn tôi, tôi
cũng hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh, về thế giới riêng của những con
người mà anh vừa kể. Tôi muốn có một cái gì đó để tặng anh, nói như anh là để kỉ niệm cuộc gặp gỡ đặc
biệt này. Một cái cỏn con gì đó có thể biến thành một chút dịu dàng, một chút dũng cảm trong cuộc sống
của anh, ví dụ như cuốn sách hay món trang trí nhỏ chẳng hạn. Tiếc thay, trong túi xách của tôi giờ đây
chẳng có một vật gì như thế!

“Trời ơi! Chỉ còn năm phút!”. Anh thanh niên kêu lên tiếc rẻ. Anh chạy ra sau nhà rồi trở vào ngay, tay
cầm một cái làn. Họa sĩ già cũng tặc lưỡi, miễn cưỡng đứng dậy. Tôi đặt lại chiếc ghế, thong thả đến chỗ
ông. Anh thanh niên nhắc rằng tôi bỏ quên chiếc khăn mùi xoa và đưa cho tôi. Tôi nhận lấy chiếc khăn
rồi vội quay đi. Đến bậu cửa, ông họa sĩ chụp lấy tay anh lắc mạnh: “Tôi sẽ quay trở lại. Chắc chắn thế.
Tôi ở với anh ít hôm, được chứ?”. Đến lượt tôi. Tôi chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng như người
ta trao cho nhau một cái gì chứ không phải là cái bắt tay rồi nhìn thẳng vào mắt anh và nói lời từ biệt.
Anh ấn vào tay họa sĩ chiếc làn đựng trứng gà, bảo là dành cho chúng tôi và bác lái xe, xin lỗi không tiễn
được vì đã đến giờ làm việc. Anh mỉm cười chào và dặn họa sĩ nhớ quay trở lại.

Tôi và họa sĩ bước xuống đến mặt đường, nhìn lên thì không thấy bóng anh đâu nữa. Có lẽ anh đã vào
nhà hoặc ra vườn khí tượng. Họa sĩ xách làn trứng, còn tôi ôm bó hoa to. Lúc này, nắng đã mạ bạc cả con
đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Chúng tôi lững thững đi về phía chiếc xe.

Họa sĩ lẩm bẩm: “Thanh niên bây giờ lạ thật! Các anh chị cứ như là con bướm. Mà đã mười một giờ, đến
giờ “ốp” đâu? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ?”. Tôi liếc nhìn ông, tự dưng trong lòng hồi

hộp, nhưng vẫn im lặng. Có lẽ, không bao giờ tôi quên cuộc gặp gỡ bất ngờ và đặc biệt này.

Theo: Thái Bảo

×