Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Giải pháp nào để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.88 KB, 2 trang )

4/17/13
Giải pháp nào để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả
nif.mof.gov.vn/portal/pls/portal/SHARED_APP.UTILS.print_preview?p_page_url=http%3A%2F%2Fnif.mof.gov.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fnif%2FNew…
1/2
Giải pháp nào để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả
26/10/2012-08:16:00 AM

“Để có thể quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả, nhất thiết phải xây dựng một môi trường rủi ro
tín dụng phù hợp với quy trình cấp tín dụng lành mạnh; một hệ thống quản lý, đo lường và theo dõi tín
dụng phù hợp; và đặc biệt là phải kiểm soát được rủi ro tín dụng" - TS. Phạm Huy Hùng, Chủ tịch Hội
đồng quản trị - Vietinbank đã nhấn mạnh như vậy khi đề cập tới vấn đề xếp hạng tín dụng nội bộ tại
các ngân hàng thương mại (NHTM) hiện nay.
Thực trạng xếp hạng tín dụng
Theo đánh giá của ông Hùng, mặc dù xếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM đã đạt được một số kết quả, giúp các
ngân hàng có thể quản trị rủi ro tốt hơn, tránh và phát hiện sớm các khoản tín dụng xấu, các khoản tín dụng có vấn đề. Tuy
nhiên, để có thể kiểm soát rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả, hiện vẫn còn không ít những trở ngại. Trong đó, thách thức
lớn nhất đối với các NHTM hiện nay chính là việc thu thập và phân loại thông tin chính xác, chi tiết về người vay, về các đặc
điểm của các loại hình rủi ro (loại sản phẩm/ngành kinh tế/khu vực địa lý khác nhau…) và kết quả của đầu tư tín dụng vào các
loại hình rủi ro đó.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc xếp hạng tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đạt được kết quả như mong
muốn, cho dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc “phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng”. Căn nguyên là do hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam hiện đều được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, nghĩa là việc lựa chọn, quyết
định toàn bộ các yếu tố cơ bản của hệ thống xếp hạng hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của các chuyên gia,
thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ mang tính chủ
quan và chưa thực sự là căn cứ để làm cơ sở xây dựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ ngân hàng tính toán chuẩn xác
tổn thất dự tính và yêu cầu vốn tối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này dẫn đến hạn chế trong quản trị rủi ro danh mục, định giá tín
dụng, xác định khẩu vị rủi ro của ngân hàng.
Ở Việt Nam, có đến 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, những nhiều thông tin phản ánh trên các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp không chính xác, vì các mục đích che đậy thông tin, trốn thuế Vì thế, số liệu trên sổ sách kế toán không phản
ánh chính xác kết quả kinh doanh thực của những doanh nghiệp này. Qua tìm hiểu thực tiễn, không ít doanh nghiệp vừa và


nhỏ kinh doanh thực sự có hiệu quả, nhưng số liệu thể hiện vẫn lỗ. Biết rõ vấn đề này, nhưng không ít NHTM vẫn không dám
cho vay, bởi tiềm ẩn rủi ro do thông tin bất đối xứng xảy ra từ phía người vay rất lớn. Do đó, để đánh giá đúng thực chất hiệu
quả kinh doanh của những doanh nghiệp, để doanh nghiệp tiếp cận được vốn tín dụng của ngân hàng, đòi hỏi doanh nghiệp
được xếp hạng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định (về qui mô, về thông tin ) mà những yêu cầu này, vượt khả năng
của các NHTM.
Một trở ngại đáng kể nữa là, mặc dù NHNN có đưa ra yêu cầu đối với các NHTM về việc xây dựng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ, những lại chưa đưa ra được một hệ thống quy chuẩn cho việc xây dựng hệ thống tại các NHTM, dẫn
đến việc xây dựng hệ thống tại mỗi ngân hàng theo khẩu vị rủi ro của họ. Điều này đã dẫn đến những bất cập trong việc so
sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng, nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột khi thực hiện phân loại nợ
theo định tính (cùng 1 khách hàng, có NHTM phân loại vào nhóm nợ cao, có NHTM lại phân loại vào nhóm nợ thấp). Ngoài
ra, do đây là việc xếp hạng nội bộ, nên các ngân hàng thường tự xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ riêng, trong khi
thiếu một khung thống nhất, dẫn đến tốn kém nguồn lực và chi phí cho mỗi ngân hàng cũng như xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, theo ông Hùng là do chúng ta chưa có khung pháp lý quy định rõ ràng
về xếp hạng tín dụng nội bộ, ngay cả quyết định 493 của NHNN cũng chưa mang tính chất định hướng hoặc quy định khung
chuẩn để các NHTM thực hiện. Do đó, việc triển khai ở các NHTM hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức riêng và khẩu
vị rủi ro của từng ngân hàng; tiếp đến là, hạ tầng công nghệ thông tin không đồng đều, khó khăn này đã cản trở việc xây
dựng và ứng dụng các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn Basel 2, dựa trên phân tích các mô hình kinh tế lượng và
xác suất thống kê (theo kinh nghiệm của các NHTM nước ngoài đã triển khai Basel 2, riêng chi phí đầu tư cho hệ thống này đã
lên đến hàng chục triệu USD. Đây là rào cản lớn mà không phải NHTM nào ở Việt Nam cũng có thể vượt qua được; hơn nữa,
do nguồn nhân lực yếu và thiếu, các NHTM Việt Nam lại chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng, đáng tin cậy, và đầy đủ
phục vụ cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng, nên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng các mô hình kinh tế
4/17/13
Giải pháp nào để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả
nif.mof.gov.vn/portal/pls/portal/SHARED_APP.UTILS.print_preview?p_page_url=http%3A%2F%2Fnif.mof.gov.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fnif%2FNew…
2/2
lượng, phân tích thống kê ứng dụng trong xếp hạng tín dụng nội bộ.
Hơn nữa, mặc dù chất lượng thông tin đầu vào là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng
của xếp hạng tín dụng nội bộ, nhưng thực tế thông tin thiếu minh bạch, thiếu tin cậy diễn ra rất phổ biến ở mọi lĩnh vực. Phần
lớn các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được kiểm toán. Ngay cả đối với các doanh nghiệp lớn phải
kiểm toán, thì sự chậm trễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất lượng kiểm toán còn bất cập, có sự sai lệch giữa số liệu

kiểm toán với thực tế. Thực trạng này có một phần lỗi từ các NHTM trong việc cung cấp thông tin, nhưng phần lớn là do
NHNN chưa có chế tài chặt chẽ đối với việc cập nhật thông tin này.
Mai Huyền (Xem đầy đủ tại TTTC số 20/2012)
In Trang | Đóng cửa sổ

×