Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

chi đầu tư tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.77 KB, 35 trang )

DANH SÁCH NHÓM:
1.VÕ CÔNG DANH
2. HOÀNG XUÂN DÀNG
3.HỒ ĐẮC LỢI
4.NGÔ MỸ LỆ PHƯƠNG
5.NGUYẾN THỊ NGỌC NGUYỆT
6. NGUYỄN THỊ THÚY NGA
7.ĐINH THỊ MỸ LINH
8.HOÀNG MINH TUẤN
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI ĐẦU TƯ
1.1.MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm về đầu tư
1.1.2. Phân loại đầu tư
1.1.3. Chi tiêu đầu tư
1.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI ĐẦU TƯ
1.2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
1.2.2. Lãi suất
1.2.3. Sản lượng quốc gia
1.2.4. Tổng đầu tư xã hội
1.2.5. Môi trường đầu tư
1.2.6. Các nhân tố vĩ mô khác
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHI ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
2.1. ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC
2.2. ĐẦU TƯ DÂN DOANH TRONG NƯỚC
2.3. ĐÀU TƯ NƯỚC NGOÀI
2.3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
2.3.2. Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI


ĐẦU TƯ
2
3.1. NHÓM GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN
3.1.1. Huy động và sử dụng nguồn vốn nhà nước
3.1.2. Huy động và sư dụng nguồn vốn FDI
3.1.3. Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
3.2.1. Giải pháp về luật pháp, chính sách
3.2.2. Giải pháp về quy hoạch
3.2.3. Giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
3.2.4. Giải pháp về nguồn nhân lực
3.2.5. Giải pháp về khoa học công nghệ
3.2.6. Giải pháp về giải phóng mặt bằng
3.2.7. Giải pháp về phân cấp, cải cách hành chính
3.2.8. Giải pháp về xúc tiến đầu tư
3.2.9. Giải pháp ổn định hóa môi trường vĩ mô
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
3
Đầu tư là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế của các quốc
gia, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Đầu tư góp phần tạo
nên tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Có thể nói đầu tư đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước nói chung và của chính phủ Việt
Nam nói riêng.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở thời
gian thực hiện đầu tư, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi số vốn đã bỏ ra
đối với các cở sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh. Do đó không
tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định
về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực

hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và
điều kiện địa lý của không gian. Bởi vậy, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư
được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh
tế - xã hội cao thì phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư, nghiên
cứu các tác động của chúng, từ đó đưa ra được các giải pháp hạn chế tác động
tiêu cực và gia tăng tác động tích cực. Đây là vấn đề cần phải được quan tâm
đúng mức.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI ĐẦU TƯ
4
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm kỳ
vọng thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trong đó, các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động, trí tuệ…. Những kết quả đạt được đó có thể là sự gia tăng về tài sản vật chất, tài
sản tài chính, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, hoặc một sự thõa mãn về giá trị tinh
thần.
1.1.2. Phân loại đầu tư
Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư, đầu tư được chia thành 2 loại là:
- Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản
lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp bao
gồm đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư phát triển.
- Đầu tư gián tiếp là là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham
gia quản lí, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư chẳng hạn như
các nhà đầu tư tham gia mua bán cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường chứng khoán
thứ cấp.
Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia, chúng ta có thể phân loại:
- Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước:các hoạt động đẩu tư được tài trợ từ nguồn
vôn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp và tiền tiết kiệm.
- Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài:hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các

nguồn vốn đâu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài
Cách phân loại này có tác dụng chỉ ra vai trò từng nguồn vốn trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội đất nước, trong đó, phải thống nhất quan điểm: vốn trong nước là
quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
1.1.3. Chi tiêu đầu tư.
Xét ở tầm vĩ mô,chi tiêu đầu tư là sự dịch chuyển vốn từ các khoản tiết kiệm của
hộ gia đình và chính phủ sang khu vực kinh doanh nhằm làm tăng lượng sản phẩm đầu
5
ra và góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Chi tiêu đầu tư bao gồm quyết định trì hoãn
tiêu dùng, tìm kiếm và tích lũy vốn để tăng tiềm năng sản xuất cho nền kinh tế.
Trên góc độ vi mô, chi tiêu đầu tư là quá trình nhà đầu tư quyết định thời điểm
thực hiện đầu tư và kết hợp các nguồn lực với tỷ lệ như thế nào để quá trình thực hiện
đầu tư đạt được kết quả cao nhất.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
1.2.1. Lợi nhuận kỳ vọng.
Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư mong muốn nhận, hy vọng
nhận được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư.
Nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn tiền lãi vay thì nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để
kinh doanh. Nếu lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn tiền lãi thu được thì nhà đầu tư sẽ không
bỏ vốn sản xuất kinh doanh mà thay vào đó là gửi tiền vào ngân hàng.
Thông thường có hai chỉ tiêu định lượng để xác định lợi nhuận của một dự án đó
là tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và hệ số hoàn vốn nội bộ của dự án. Tỷ suất lợi nhuận
phản ánh mức lợi nhuận thu được tính trên một đơn vị đầu tư. Hệ số hoàn vốn nội bộ
là lãi suất dự án có thể đạt được để đảm bảo cho tổng các khoản thu của dự án cân
bằng với các khoản chi ở thời gian mặt bằng hiện tại.
Các nhà đầu tư không căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thông thường mà căn cứ vào
tỷ suất lợi nhuận biên để quyết định đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận biên thường giảm dần.
Tỷ suất lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ thuận một chiều với đầu tư. Một ngành có tỷ
suất lợi nhuận cao thì người ta sẽ đầu tư vào nhiều. Vậy tỷ suất lợi nhuận giúp đưa ra
quyết định đầu tư vào đâu. Tuy nhiên nếu đầu tư nhiều thì hiệu quả sẽ giảm. Lúc này

ta xét đến tỷ suất lợi nhuận biên. Tỷ suất lợi nhuận biên cho biết nên đầu tư bao nhiêu,
lượng vốn như thế nào.
Tỷ suất lợi nhuận= lợi nhuận / vốn đầu tư(%)
Tỷ suất lợi nhuận biên=Δlợi nhuận/ Δvốn đầu tư.(%)
Tỷ suất lợi nhuận biên của dự án giảm do các nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất: khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư tăng lên. Nhu cầu vốn
tăng làm lãi suất cho vay tăng( tức là giá cả của đồng vốn tăng lên) làm cho chi phí sản
6
xuất kinh doanh tăng. Nếu các yếu tố khác ko đổi thì khi đó lợi nhuận giảm làm cho tỷ
suất lợi nhuận biên giảm.
- Thứ hai: xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia tăng
đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung
sản phẩm sẽ tăng nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung
tăng dẫn đến giá sản phẩm giảm. chi phí sản xuất coi như ổn định, tỷ suất lợi nhuận
vốn đầu tư giảm.
Khi quy mô vốn đầu tư tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các nhà đầu
tư chỉ tiếp tục đầu tư đến khi hiệu quả biên của vốn lớn hơn lãi suất của vốn vay trên
thị trường vốn. Khi nào hiệu quả biên của vốn thấp hơn mức lãi suất vốn vay tức là lợi
nhuận tăng thêm thấp hơn so với chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc
đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. điểm cân bằng đạt được khi hiệu quả biên của
vốn đầu tư bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng
Theo Keynes tỷ suất lợi nhuận là đại lượng khó xác định. Tuy nhiên chính điều
đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư. Lợi nhuận thu được có thể rất cao, có
thể thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng cao.
Bên cạnh đó họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính hai mặt
của đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng.
1.2.2. Lãi suất.
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của vốn, giá cả của quan hệ
vay mượn hoặc cho thuê hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc
dưới dạng thức các tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay trả cho người cho vay

một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi
trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Lãi suất là cơ sở để các cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết định kinh tế
của mình xem đầu tư vốn của mình vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư
khác.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trương hiện nay, chính sách lãi suất còn được sử
dụng như một công cụ góp phần điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua việc thay đổi mức
lãi suất và cơ cấu lãi suất trong từng thời kí nhất định, chính phủ có thể tác động đến
7
quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy tác động đến quá trình điều chỉnh cơ
cấu;tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình hình lạm phát của đất nước.
Mặt khác, lãi suất còn góp phần điều tiết các luồng vốn đi ra và đi vào của một nước.
Nếu mức lãi suất trong nước thấp hơn mức lãi suất trên thị trường vốn quốc tế trong
bối cảnh mở cửa thị trường vốn thì dòng vốn đầu tư sẽ chảy ra nước ngoài, đầu tư
trong nước giảm. Ngược lại nếu lãi suất trong nước cao hơn thì sẽ có dòng vốn từ
nước ngoài chảy vào làm tăng đầu tư trong nước.
1.2.3. Sản lượng quốc gia (GDP)
Sản lượng quốc gia hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị của tất cả hàng hóa
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trên lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
GDP được chia thành bốn thành tố bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ mua
hàng hóa dịch vụ và xuất khẩu ròng
GDP = C+I+G+NX
Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay sự thay đổi sản lượng là yếu tố tác động đến
việc tăng hay giảm quy mô đầu tư. Khi GDP tăng nhanh làm thu nhập của người dân
tăng kích thích tiêu dùng đồng thời làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu
tăng, tiết kiệm tăng thì cung về vốn vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư.
Hơn nữa khi GDP tăng sẽ tạo tâm lý lạc quan trong dân chúng. Người dân lạc
quan vào thu nhập trong tương lai nên tiếp tục tăng chi tiêu, các doanh nghiệp tin
tưởng vào triển vọng của nền kinh tế nên sẽ gia tăng đầu tư, mở rộng sản xuất. Quá
trình này sẽ tạo ra hiệu ứng số nhân tức là từ một sư gia tăng của sản lượng sẽ dẫn đến

sự tăng lên nhiều lần của đầu tư và sản lượng.
1.2.4. Tổng đầu tư xã hội
Trong đầu tư xã hội có đầu tư nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp hay nói cách
khác, đầu tư nhà nước là một bộ phân của đầu tư xã hội. Nó bao gồm đầu tư từ ngân
sách nhà nước (NSNN), đầu tư từ nguồn vốn tín dụng phát triển của nhà nước và đầu
tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Đầu tư nhà nước là một hoạt động cơ bản trong chi đầu tư, nguồn vốn từ hoạt
động này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với đầu tư phát triển. Các dự án đầu tư từ
nguồn vốn của nhà nước thường không nhằm mục đích thu lợi mà có tác dụng trợ
8
giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội. Cụ thể đó là cải thiện cơ sở hạ
tầng cho đất nước, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát
triển các vùng nguyên liêu để tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Đầu tư từ NSNN là nguồn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội của quốc gia. Nguồn lực này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ
tầng kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư
vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị
và nông thôn. Nguồn chi này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chi đầu
tư khác vì nó giúp cải thiện môi trường đầu tư và đồng thời là nguồn chi không thể
thiếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nếu hoạt động chi NSNN không hợp lý, sai mục
đích, thất thoát sẽ gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong
việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Bên cạnh đó, nguồn vốn này
còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Việc phân bổ và sử dụng vốn
tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn
đầu tư của toàn xã hôi. Đầu tư từ các doanh nghiệp này góp phần rất lớn cho sự phát

triển kinh tế từ việc kết hợp với các doanh nghiệp tư nhân thực hiện các hoạt động đầu
tư. Tuy nhiên trong một số trường hợp đầu tư nhà nước lấn át đầu tư tư nhân như cạnh
tranh không công bằng, hạn chế sự phát triển của một số doanh nghiệp tư nhân. Nhìn
chung, nếu đầu tư nhà nước được thực hiện một cách hợp lý, đúng hướng có thể góp
phần làm tăng hiệu quả chi đầu tư, phát triển kinh tê – xã hội.
1.2.5. Môi trường đầu tư

Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của xã hội:
9
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính xúc tác cho hoạt động đầu tư, tạo điều kiện cho
kinh tế xã hội phát triển. Những quốc gia có cơ sở hạ tầng phát triển sẽ thúc đẩy các
nhà đầu tư tích cực đầu tư sản xuất, làm tăng chi cho đầu tư.

Môi trường chính trị:
Là nhân tố vô cùng quan trọng của môi trường đầu tư. Ổn định chính trị sẽ tạo ra
sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi ro cho nhà đầu tư. Từ đó khuyến khích
các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện hoạt động của mình, đặc biệt đối với nhà đầu tư nước
ngoài, ổn định chính trị là một yếu tố hàng đầu trong việc ra quyết định đầu tư vào một
quốc gia khác.

Môi trường luật pháp:
Quá trình đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài,
nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý
và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách,
quy định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn,chồng chéo nhau và
có hiệu lực cao.
1.2.6. Các nhân tố vĩ mô khác.
Chính sách tài khoá: là chính sách của chính phủ nhằm tác động tới tổng cầu và
sản lượng của nền kinh tế, thông qua hai công cụ là thuế và chi tiêu của chính phủ.
Chính sách thuế có tác động rất lớn đến chi đầu tư. Đối với những lĩnh vực cần

khuyến khích đầu tư, nhà nước có thể giảm mức thuế đầu tư để thu hút các nhà đầu tư.
Mặt khác đối với những lĩnh vực cần hạn chế, nhà nước sẽ đưa ra chính sách thuế khắt
khe hơn. Thuế cũng là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là nguồn vốn đầu
tư nhà nước vô cung quan trọng. Tùy thuộc điều kiện cụ thể mà nhà nước sẽ đưa ra
chính sách tài khóa thắt chặt hoặc mở rộng. Chính sách tài khóa mở rộng là chính sách
tài khóa nhằm kích thích tổng cầu và tăng sản lượng cân bằng thông qua việc tăng chi
tiêu chính phủ hoặc giảm thuế. Mặt khác việc tăng thuế hoặc giảm chi tiêu chính phủ
để cắt giảm tổng cầu được gọi là chính sách tài khóa thắt chặt. Chính sách thuế thay
đổi cũng tác động đến lợi nhuận kì vọng, từ đó ảnh hưởng đến chi đầu tư.
Chính sách tiền tệ: Nhằm điều tiết cung tiền tệ thông qua các chính sách như:
chính sách lãi suất, chính sách tỉ giá, nghiệp vụ thị trường mở Cũng như chính sách
10
tài khóa, chính sách tiền tệ có chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt
chặt. Khi cần giảm lượng tiền cung ứng, ngân hàng trung ương thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt, ngược lại, khi cần tăng lượng tiền cung ứng, ngân hàng nhà nước thực
hiện các chính sách tiền tệ mở rộng. Keynes lập luận rằng khi nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng, chính sách tiền tệ tương đối ít hiệu quả hơn. Hơn nữa khi kinh tế khủng
hoảng hay các nhà đầu tư bi quan về triển vọng kinh tế trong tương lai, lãi suất cần
giảm để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn.
Mặt khác, khi chính phủ thay đổi tỉ giá cũng làm ảnh hưởng đến nhiều hoạt động
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Trước khi đầu tư vào một nước, các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ xem xét tỉ giá, giá trị đồng tiền của quốc gia đó, kết hợp với
nhiều yếu tố khác nữa rồi mới đưa ra quyết định đầu tư.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHI ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
2.1. Đầu tư nhà nước.
Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010, vốn khu vực Nhà
nước là 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1% tổng vốn và tăng 10% so với năm 2009;
khu vực ngoài Nhà nước 299,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,1% và tăng 24,7%; khu vực
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8% và tăng 18,4%.

Nghìn tỷ
đồng
Cơ cấu
(%)
So với năm
2009 (%)
TỔNG SỐ 830,3 100,0 117,1
11
Khu vực Nhà nước 316,3 38,1 110,0
Khu vực ngoài Nhà nước 299,5 36,1 124,7
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 214,5 25,8 118,4
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010
Bên cạnh đó, nguồn vốn này cũng tăng trưởng liên tục qua các năm, từ 89.417 tỷ
đồng năm 2000, sau 10 năm, vốn đầu tư khu vực nhà nước đã tăng hơn 3,5 lần, đạt
316.300 tỷ đồng trong năm 2010.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm : nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn
tín dụng đi vay đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của
12
doanh nghiệp nhà nước. Xét về cơ cấu, vốn ngân sách chiếm khoảng 50% tổng vốn
đầu tư từ khu vực nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp
Nhà nước
Thời gian qua, vốn đầu tư của Nhà nước đã tập trung cho đầu tư phát triển các hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đã ở mức
cao trong GDP, khoảng hơn 10%. Trong đó, đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước
chiếm ¾ tổng đầu tư cơ sở hạ tầng. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra
sự tăng trưởng cao và ổn định về kinh tế trong nhiều năm qua; tạo ra những yếu tố và
năng lực sản xuất, dịch vụ to lớn của một số ngành quan trọng (hệ thống giao thông
đường bộ quốc gia; hệ thống cảng biển, cảng hàng không quốc gia; hệ thống giao
thông và viễn thông nông thôn; một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và công

nghệ quan trọng của quốc gia); duy trì và phát triển hệ thống các cơ sở khám chữa
bệnh từ Trung ương đến địa phương, bước đầu đáp ứng được một phần nhu cầu cơ bản
của xã hội; tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh chóng từ 15,5% năm 2006 xuống chỉ còn
9,45% năm 2010.
Tuy nhiên, hệ số ICOR (hệ số hiệu quả đầu tư theo hiệu suất vốn – sản lượng)
tính theo tích lũy tài sản gộp của Việt Nam đã tăng gấp đôi (từ mức 2,73 trong các
năm 1990-1995 lên đến 5,4 trong các năm 2006-2010). Điều này cho thấy hiệu suất
đầu tư chưa cao, còn thất thoát, lãng phí, không tạo ra năng lực sản xuất. Mức chi ngân
sách nhà nước ở Việt Nam trong những năm gần đây lên mức khá cao, trên 30% giai
đoạn 2005-2010, trong khi các nước ở cùng mức độ phát triển trong khu vực
(Indonesia, Philippin, Thái Lan), chỉ có ở mức trên dưới 20% GDP. Tình trạng các dự
án đầu tư chậm tiến độ vẫn còn phổ biến. Còn không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp
hoặc không có hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, cá
biệt có những dự án, nội dung đầu tư trùng lắp, chồng chéo, gây cản trở hoặc làm mất
hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước đó.
Một số Bộ, ngành, địa phương trong một số dự án cụ thể đã không chấp hành
nghiêm các quy định về quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước, dẫn đến tình trạng phân
bổ vốn đầu tư dàn trải, nợ đọng, kéo dài tiến độ thực hiện, gây lãng phí, thất thoát
trong đầu tư. Một số các dự án đầu tư vi phạm quy định pháp luật về đầu tư. Kết quả
13
thanh tra, kiểm tra cho thấy các công trình, dự án đều có sai phạm trong khâu lập thủ
tục đầu tư, thiết kế, đấu thầu, sử dụng vốn có đầu tư sai mục đích, nghiệm thu, thanh
toán khống, quyết toán sai so với khối lượng thực tế đã thi công, đơn giá, định mức…
gây thất thoát, lãng phí.
Việc xử lý các sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng chưa kịp thời, nghiêm
minh. Việc quy trách nhiệm cho các đối tượng có liên quan trong quá trình đầu tư dự
án không rõ ràng, cụ thể, không đủ sức răn đe nên chưa có tác động tích cực trong việc
hạn chế, đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham ô, thất thoát trong đầu tư, xây dựng. Vì vậy,
đã làm xói mòn lòng tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh
vực quản lý đầu tư công.

Mặc dù đã phân cấp triệt để về quản lý đầu tư công cho các Bộ, ngành và cấp
tỉnh, song nguồn nhân lực ở các địa phương chưa được đào tạo, chuẩn bị cho việc
phân cấp đầu tư; năng lực của các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, Tư vấn lập dự án,
Tư vấn giám sát thi công chất lượng công trình… không đáp ứng các điều kiện quy
định của pháp luật hiện hành. Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân; trong
đó có các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất, do đầu tư phân tán, vốn ưu tiên được phân bổ vào quá nhiều dự án;
các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa
công trình vào sử dụng; đầu tư phân tán, dàn trải dẫn đến dư thừa công suất, tỷ suất sử
dụng công trình không đạt như dự kiến, chi phí vận hành không giảm; đầu tư thiếu
đồng bộ, thiếu quy hoạch, thiếu kế hoạch chi tiết, đầu tư các dự án không cần thiết dẫn
tới công trình cụ thể hoàn thành mà không đưa vào sử dụng được hoặc công trình dở
dang, không hoàn thành được, lãng phí vốn đầu tư.
- Thứ hai, quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư và
chưa đảm bảo chất lượng và hiệu quả công trình như dự kiến; phân cấp quyết định và
sử dụng vốn đầu tư chưa kèm với giám sát, kiểm soát chất lượng và hiệu quả đầu tư.
- Thứ ba, cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư và quản lý đầu tư chưa hợp lý, còn
dàn trải, chưa có mục tiêu và điều kiện ràng buộc rõ ràng, cụ thể; chưa hướng được
đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh, có tác động và đóng
góp lớn cho tăng trưởng kinh tế.
14
- Thứ tư, do doanh nghiệp nhà nước còn được bao cấp về một số nhân tố sản
xuất, nhất là đất đai, tín dụng; giá đất và tài sản cố định trong nhiều trường hợp chưa
tính đúng và tính đủ nên chưa tính đúng, tính đủ chi phí kinh doanh. Một số doanh
nghiệp nhà nước vẫn là một công ty đóng, chưa thể chủ động huy động vốn chủ sở
hữu từ các nhà đầu tư bên ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn dựa nhiều
vào vốn tín dụng và tài nguyên thiên nhiên để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh. Hệ
quả là đòn bẩy tài chính luôn cao và có thể còn gia tăng; không thể chủ động trong đầu
tư phát triển; rủi ro và nguy cơ bất ổn kinh doanh là rất lớn. Quản trị ở các công ty sở
hữu nhà nước còn yếu kém; quyền chủ sở hữu nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ,

kém hiệu lực, ít hiệu quả; cơ chế "hành chính chủ quản" phân tán, thiếu minh bạch,
thiếu trách nhiệm giải trình.
- Thứ năm, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, chỉ quan tâm đến
lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, bệnh thành tích theo nhiệm kỳ, thiếu tuân thủ các quy
định về chuẩn bị đầu tư, thẩm quyền quyết định đầu tư, vi phạm quy hoạch đã được
phê duyệt… là những nguyên nhân dẫn đến những quyết định đầu tư chưa đúng. Tăng
GDP chạy theo số lượng, tìm mọi cách tăng lượng vốn đầu tư, trước hết là đầu tư công
diễn ra phổ biến trong tổ chức thực hiện đầu tư. Bố trí đầu tư vượt quá khả năng cho
phép, phân bổ đầu tư cho cả những dự án chưa đủ thủ tục, những dự án chưa cần thiết,
bất chấp hiệu quả làm phát sinh đầu tư dàn trải, nợ đọng lớn. Trong nhiều dự án, chủ
đầu tư quản lý đầu tư xây dựng tách rời người vận hành công trình sau khi công trình
được đưa vào sử dụng nên chủ đầu tư thường buông lỏng trách nhiệm kiểm soát nhà
thầu; có trường hợp chủ đầu tư, nhà thầu câu kết với nhau để thực hiện các hành vi sai
trái.
- Thứ sáu, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức chưa ngang tầm,
yếu kém trong công tác chỉ đạo, điều hành gây thất thoát, lãng phí trong quá trình triển
khai thực hiện đầu tư. Ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, phẩm chất, trình độ cán
bộ, công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý dự án đầu tư xây dựng còn kém. Lãnh đạo
không ít bộ, ngành, địa phương chưa ý thức đầy đủ về những hạn chế, yếu kém của
mình trong công tác đầu tư xây dựng. Báo cáo của các bộ, địa phương về đầu tư vẫn
nặng về thành tích, chưa thẳng thắn nhìn nhận hết mức độ nghiêm trọng về các sai
15
phạm, thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cũng như chưa làm rõ trách nhiệm
của các tổ chức, cá nhân.
- Thứ bảy, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thường xuyên, liên tục,
công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa được coi trọng. Công tác giám sát nội bộ hiệu
quả thấp. Hầu như rất ít vụ tham nhũng gây thất thoát, lãng phí được phát hiện thông
qua giám sát nội bộ hoặc giám sát của đại diện chủ sở hữu hoặc giám sát của cơ quan
quản lý nhà nước.
- Thứ tám, tư duy ỷ lại vào đầu tư của ngân sách nhà nước còn nặng nề. Các bộ,

địa phương ít chủ động, sáng tạo trong việc huy động các nguồn vốn khác như đầu tư
nước ngoài, đầu tư tư nhân để tham gia đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ
tầng. Khi vốn ngân sách không đáp ứng được tiến độ thi công, nhất là trong điều kiện
giá xây dựng đang tăng cao như hiện nay, thì việc huy động dự án vào sản xuất, kinh
doanh bị chậm, không phát huy được hết công suất.
- Thứ chín, việc hoạch định chính sách và ban hành các văn bản pháp luật chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, việc
lấy ý kiến của các đối tượng thuộc sự điều chỉnh của chính sách, pháp luật còn bị
động. Hệ thống các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư (đất đai, xây
dựng, thuế…) đã gây trở ngại cho việc thực hiện đầu tư theo hướng đơn giản hóa.
Hiện tượng phân tán, chồng chéo, trùng lắp về thủ tục hành chính giữa các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư vẫn chưa được giải quyết kịp
thời, gây trở ngại, đẩy chi phí đầu tư lên cao, làm môi trường đầu tư kinh doanh của
Việt Nam kém tính hấp dẫn, cạnh tranh.
2.2. Đầu tư dân doanh trong nước.
Đầu tư dân doanh trong nước bao gồm phần tích luỹ của dân cư và của các doanh
nghiệp dân doanh (công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, hợp tác xã…).Một phần khác trong nguồn vốn dân doanh trong nước đó là
nguồn vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại của các doanh nghiệp dân doanh.
Nguồn vốn này được sử dụng chủ yếu để mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công
nghệ… Hiện nay các doanh nghiệp đều rất chú trọng đến việc sử dụng nguồn vốn này
cho việc phát triển doanh nghiệp, nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn.Có thể thấy rằng
16
tỷ lệ vốn đầu tư dân doanh trong nước trong tổng đầu tư xã hội ngày càng gia tăng,
chứng tỏ tầm quan trọng của khu vực này trong hoạt động đầu tư phát triển. Bên cạnh
đó, trong những năm qua khu vực đầu tư tư nhân là một điểm nhấn đáng lưu ý trong
bức tranh chung của nền khinh tế Việt Nam khi mà đóng góp vào ngân sách Nhà nước
cảu khu vực này luôn ở mức cao, dù tỷ trong vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội không
cao bằng vốn nhà nước, điều đó cho thấy sự hiệu quả và năng dộng cảu khu vực này.
Vài năm trở lại đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, các yếu tố kinh tế vĩ

mô biến động phức tạp, khó lường đã khiến cách doanh nghiệp khó khăn trong việc
đầu tư. Việc điều hành nền kinh tế vĩ mô liên quan đến các thị trường tiền tệ, chứng
khoán, bất động sản, thị trường vàng hiện không có điều tiết thống nhất dẫn đến mỗi
biến động của thị trường thế giới đều tác động đến hành vi đầu cơ, do vậy đầu vào của
doanh nghiệp sản xuất không thể kiểm soát và hiệu quả sản xuất kinh doanh có thể
bằng 0 thậm chí là âm. Khiến trong những năm 2009, 2010 có rất nhiều doanh nghiệp
tư nhân tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, với sự năng động của khu vực tư nhân và tình
hình kinh tế vĩ mô đang dần đi vào ổn định, sự vực dậy mạnh mẽ trở lại của đầu tư tư
nhân là điều có thể sự dự đoán được.
2.3. Đầu tư nước ngoài.
17
2.3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh
tế thế giới và càng cần thiết hơn khi chúng ta đang cần một lượng vốn lớn và công
nghệ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới để phục vụ cho quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, vươn lên cùng các nước trong khu vực cũng như thế
giới.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2001-2010, Việt Nam thu hút 12.213 dự
án ĐTNN, với tổng vốn đăng ký khoảng 192 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 63 tỷ
USD. Sự xuất hiện của những dự án ĐTNN ở nhiều địa phương đã tạo cú hích thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 5 năm 2001 – 2005 khu vực đầu tư nước ngoài đóng
góp khoảng 15,5% GDP. Giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể
dầu thô) cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm trong năm 2001 – 2005 đạt trên 34 tỷ
USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ
lệ này là 56%. Riêng năm 2006, xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD tăng 30,1% so với năm
trước.
FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm. Hiện
nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà
nhiệt độ, thiết bị văn phòng, … . FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi

măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế. FDI cũng đã giúp Việt Nam có
một bước tiến lớn hơn vào các thị trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của
Việt nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt
18
Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử,
máy tính và các linh kiện.
Nhìn vào cơ cấu vốn đăng ký, một điều dễ nhận thấy là vốn đăng ký giảm mạnh
chủ yếu do vốn đăng ký mới sụt giảm. Với 839 dự án đã được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư trong năm 2009, số dự án mới chỉ bằng 53,9% so với 2008 và vốn đăng ký mới
ước đạt 16,34 tỉ USD, chỉ bằng 24,6% so với năm 2008. Điều này là hệ quả của suy
thoái kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư trở nên dè dặt hơn trong các quyết định đầu tư
mở rộng hoạt động ra nước ngoài.
Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức kỷ lục 71,7 tỉ USD, số dự án có
quy mô vốn đăng ký trên 1 tỉ USD là 11 dự án, mức vốn đăng ký bình quân một dự án
khoảng 65 triệu USD thì năm 2009, số lượng dự án quy mô trên 1 tỉ USD đã giảm
50%, chỉ còn 5 dự án, quy mô bình quân 1 dự án cũng chỉ bằng 1/3 của năm 2008,
khoảng 25 triệu USD/dự án. Điều này dường như phản ánh sự thận trọng hơn của các
nhà đầu tư khi quyết định đăng ký đầu tư. Tuy nhiên, lĩnh vực thu hút đầu tư lại có sự
dịch chuyển mạnh mẽ. Trong khi năm 2008 các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tập
trung chủ yếu vào ngành công nghiệp (912 dự án cấp mới với tổng mức đầu tư 35,6 tỷ
USD, chiếm 58,6% số dự án và 53,4% tổng số vốn cấp mới), thì trong năm qua dòng
vốn tập trung vào các ngành dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh BĐS và lĩnh vực dịch vụ
lưu trú và ăn uống. Số dự án cấp mới ngành dịch vụ năm 2009 là 498 dự án với 13,2 tỷ
USD (59,3% số dự án và 81,2% tổng FDI cấp mới), các dự án công nghiệp giảm mạnh
chỉ đạt 325 dự án với 3 tỷ USD.
Không thể phủ nhận những đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam như tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập, du nhập công nghệ và phương thức quản lý… Tuy nhiên, đã đến
lúc cần phải đánh giá thực sự đúng mức về những mặt trái của FDI tại Việt Nam cũng
như giá trị thực mà dòng vốn này mang lại. Trong 10 năm (1999- 2009), hệ số sử dụng

vốn (ICOR) của khu vực nhà nước, tư nhân và FDI lần lượt là 7,76; 3,54 và 7,91. Hệ
số TFP (chuyển giao công nghệ) của các khu vực này trong thời gian đó tương ứng là
8,6; 3,1 và – 17,6. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của khu vực FDI là rất thấp, còn
chuyển giao công nghệ hầu như là không có. Việt Nam cần một chiến lược mới nếu
19
muốn thu hút FDI chất lượng cao, tạo nhiều giá trị hơn là chỉ tạo việc làm với mức
lương tối thiểu.
Bên cạnh đó, do sự phân cấp đầu tư chưa hợp lý khiến cho các tỉnh tìm mọi cách
thu hút FDI nhằm phát triển cho địa phương mình, thậm chí có những ưu đãi rất lớn.
Việc thu hút FDI tràn lan này khiến cho quy hoạch tổng thể trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước có nguy cơ bị phá vỡ, kéo theo rất nhiều hệ lụy xã hội
khác.
2.3.2. Viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện
trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như
các tổ chức phi chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc xoá
đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông tin liên
lạc. Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là
quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại
thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu đến năm 2008, hiện
có trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng
cộng trên 42 tỷ USD.
20
Vốn ODA được phân bố theo ưu tiên mà Chính Phủ đề ra cho các ngành kinh tế,
trong đó chủ yếu cho lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông ,năng lượng và
công nghiệp với đối tượng là dự án cơ sở hạ tầng chiếm tỷ lệ lớn nhất với 35,15%.
Tiếp đến là lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, môi trường và công nghệ là25,9%, nông
nghiệp, phát triển nông thôn chiếm15,9%
Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực

hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và
chưa đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở lại
đây. Tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ
không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn
đầu tư quốc tế khác.
21
Quá trình tổ chức thực hiện dự án ODA gặp nhiều ách tắc, kéo dài thời gian dẫn
đến tốc độ giải ngân vốn ODA chậm. Những ách tắc chủ yếu diễn ra trong các
khâu sau:
- Giải phóng mặt bằng:
- Công tác đấu thầu:
Giải ngân chậm dẫn tới các hậu quả:
- Giải ngân vốn ODA bị kéo dài dẫn tới làm giảm hiểu quả của dự án, hạn chế
khả năng trả nợ, là nguy cơ làm tăng nợ quá hạn cho Chính phủ, làm ùn đọng vốn
ODA cam kết và ký kết.
- Chậm đưa công trình vào sử dụng gây lãng phí, thất thoát nguồn lực, công
trình kém hiệu quả.
- Làm giảm tính ưu đãi của vốn vay (rút ngắn thời gian ân hạn, kéo dài thời
gian trả phí cam kết).
- Làm giảm uy tín của ta đối với các nhà tài trợ về năng lực tiếp nhận và sử
dụng ODA, ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận động nguồn vốn này.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI ĐẦU TƯ
3.1. Nhóm giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
22
3.1.1. Huy động và sử dụng nguồn vốn nhà nước
 Hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư:c cần đổi mới
nội dung và phương pháp lập quy hoạch, tạo khuôn khổ pháp lý cho công tác quy
hoạch và quản lý quy hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, cần thực hiện rà soát, bổ sung, cập nhật và hiệu chỉnh
các quy hoạch đã được phê duyệt cho phù hợp với tình hình phát triển mới, đồng thời,

chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp.
 Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để
định kì bổ sung điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu
tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy
định mới của luật đầu tư trong công tác quy hoạch đảm bảoviệc xây dựng các lĩnh vực,
ngành, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
 Nâng cao chất lượng công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư
trên cơ sở đánh giá chính xác sự cần thiết, nhu cầu và khả năng sử dụng vốn của các
bộ ngành địa phương từ đó có cơ chế phân bổ hợp lý . Thường xuyên kiểm tra rà soát
các dự án đã được cấp vốn. Thực hiện nghiêm ngặt công tác thẩm định, phê duyệt dự
án đầu tư. Đưa các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn
ra khỏi danh mục tín dụng ưu đãi của nhà nước để tập trung nguồn vốn cho các công
trình phúc lợi xã hội và công trình hạ tầng kinh tế xã hội.
 Đánh giá hiệu quả đầu tư thực hiện các biện pháp điều chỉnh sắp xếp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Rà
soát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trên các mặt như các ngành lĩnh vực
đầu tư, tỷ lệ đầu tư vào các ngành lĩnh vực đầu tư chính phụ, các ngành lĩnh vực đầu tư
có phù hợp với chức năng nhiệm vụ của các doanh nghiệp hay không. Chấn chỉnh hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước để ngăn chặn tình trạng đầu tư tràn lan, sử dụng
sai mục đích của nguồn vốn nhà nước. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp có nhiệm vụ công
ích như công ty môi trường đô thị,… bằng vốn đầu tư hoặc ưu đãi tín dụng.
 Tiến hành giải thể hoặc bán, khoán, cho thuê đối với những doanh nghiệp làm
ăn không hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Tách hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh
của công ty nhằm tạo sự tự chủ, độc lập của doanh nghiệp trong sản xuất. Tăng cường
23
sự kiểm tra giám sát tài chính của doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm của đại diện
chủ sở hữu và cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Nâng cao quyền hạn chức năng
quản lý của các cơ quan kiểm toán nhà nước, kịp thời phát giác những hành vi gian lận
trốn thuế đầu tư sai mục đích nhằm kiếm lời bất chính trên nguồn vốn nhà nước. ngoài
ra cần kiểm soát tốt nguồn vay tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước và tiếp tục đẩy

mạnh cổ phần doanh nghiệp nhà nước.
 Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
đầu tư công. Công khai hóa các thông tin về hoạt động đầu tư công theo quy định của
nhà nước để người dân thực hiện giám sát. Tiếp thu những đóng góp và ý kiến của
nhân dân. Tạo điều kiện để người dân nói lên ý kiến, bức xúc, phát hiện và tố cáo
những hành vi sai trái trong hoạt động đầu tư công.
 Tăng cường công tác xã hội hóa đầu tư nhằm đa dạng hóa nguồn vốn, thu hút
và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia vào các dự án xây
dựng cơ bản, giảm tải đầu tư từ ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả đầu tư từ việc
sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng thành phần kinh tế nào làm tốt hơn,hiệu quả
hơn thì cấp vốn, tránh tình trạng bao cấp trong các dự án cơ sở hạ tầng thực hiện công
tác đấu thầu công khai.
 Đổi mới và hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng: đảm bảo tính công bằng
dân chủ trong công tác giải phóng mặt bằng. Thực hiện tốt công tác vận động, tuyên
truyền giải thích để người dân chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước. thực
hiện đồng bộ việc quy hoạch giải phóng mặt bằng với việc ổn đinh đời sống, tái định
cư, tái sản xuất cho nhân dân.
 Nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp lý trong công tác phân cấp , quản lý đầu tư:
đẩy mạnh việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương, tùy theo điều
kiện về nhân lực và những tiềm lực khác của từng địa phương, tạo ra sự chủ động cho
các địa phương tránh gây thất thoát lãng phí vốn.
 Cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, hạn chế những thủ
tục rườm rà đặc biệt phải giải quyết nạn tham nhũng, minh bạch hóa quy chế đầu tư,
có biện pháp ưu đãi đầu tư cho các vùng kinh tế: hiện nay một trong những điểm yếu
kém của đầu tư nhà nước là những thủ tục hành chính rườm rà. Và một vấn nạn chung
24
của toàn xã hội là nạn tham ô tham nhũng vì vậy việc cải cách các thủ tục hành chính
là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động
đầu tư và tránh hiện tượng tiêu cực trong khâu thủ tục hành chính.
3.1.2. Huy động và sử dụng nguồn vốn FDI.

 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư: xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm giới
thiệu quảng cáo cơ hội đầu tư của nước chủ nhà. Hoạt động xúc tiến đầu tư tại nước ta
vẫn chưa được chú trọng đúng mức. vì vậy cần tăng cường hoạt động này bằng nhiều
hình thức như tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, tham quan khảo sát…
và thông qua các phương tiện thông tin, xây dựng các văn phòng đại diện ở nước
ngoài.
 Cần ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc
cho công tác trả nợ. nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến choi các ưu đãi có tác
động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư.
 Phát triển công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ hậu cần cho FDI: việc thiếu
ngành công nghiệp phụ trợ vẫn là một điểm yếu của nước ta với các nước cạnh tranh
thu hút FDI trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc… do đó chi phí đầu tư tại Việt
Nam trở nên cao hơn làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy phát
triển công nghiệp phụ trợ là yêu cầu bắt buộc với Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI
dài hạn. Các ngành công nghiệp phụ trợ nên được đưa vào quy hoạch FDI theo vùng
ngành để tăng hiệu quả kinh tế.
 Khuyến khích đầu tư từ lực lượng Việt Kiều. Đây là lực lượng khá đông đảo
và có tiềm năng đáng kể về nguồn vốn và trình độ. Không những thế họ còn là cầu nối
giữa cộng đồng quốc tế và Việt Nam trong mọi lĩnh vực.
 Thu hút các công ty đa quốc gia có tiềm lực lớn về công nghệ, tận dụng tối đa
thế mạnh về nghiên cứu và phát triển của các công ty nước ngoài đang hoạt động tai
Việt Nam. Việt Nam cần cải cách lại các tổ chức R&D trong nước để tăng khả năng
tiếp thu những công nghệ của nước ngoài. Cần cập nhật và nghiên cứu về các công ty
lớn cũng như nghiên cứu chiến lược về chuyển giao công nghệ và phạm vi hoạt động
của các công ty này.
25

×