Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

đầu tư công tại việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.49 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. Bản chất của đầu tư công …3
1.Khái niệm và mục tiêu của đầu tư công 3
2.Nguyên tắc và nội dung của đầu tư công
3
3.Vai trò của đầu tư công trong nền kinh tế………………………………………….8
4.Nguồn vốn đầu tư………………………………………………………………… 8
II.Thực trạng của đầu tư công……………………………………………………… 11
1.Thực trạng của đầu tư công ở Việt Nam hiện nay…………………………………11
2.Đánh giá thực trạng đầu tư công ở Việt Nam hiện nay…………………………….17
a.Thành tựu……………………………………………………………………………17
b.Hạn chế và nguyên nhân……………………………………………………………17
III.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công………………………………….21
1.Định hướng đầu tư công……………………………………………………………21
2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công………………………………… 22
IV.Kết luận……………………………………………………………………………24
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, trong bất kỳ một đất nước và một xã hội thì đầu tư công luôn chiếm một số
vốn rất lớn đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Ở Việt Nam,
trong nhiều năm qua, đầu tư công được coi là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển
của nền kinh tế, là một thành phần quan trọng của tổng cầu xã hội, cũng như góp phần
gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế, nhất là trong việc hình thành và phát triển kết cấu
hạ tầng cơ sở. Đầu tư công hiện có vai trò hàng đầu trong việc phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội, tạo điều kiện để thúc đẩy sư phát triển đất nước. Phần
vốn này được Nhà nước giao cho các Bộ, Ngành và các địa phương, các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang, tổ chức chính trị, xã hội quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
Tuy vậy, bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển của
đất nước, đầu tư công vẫn còn những hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư.
2


I.Bản chất của đầu tư công
1.Khái niệm và mục tiêu của đầu tư công:
Khái niệm đầu tư công
Đầu tư công là việc sử dụng vốn nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách nhà nước, vốn tín
dụng của nhà nước cho đầu tư và vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước) để đầu tư vào
các chương trình, dự án không vì mục tiêu lợi nhuận và (hoặc) không có khả năng hoàn
vốn trực tiếp.
Mục tiêu của đầu tư công
Tạo mới, nâng cấp, củng cố năng lực hoạt động của nền kinh tế thông qua gia tăng giá trị
các tài sản công. Từ đó, năng lực phục vụ của hệ thống hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội
dưới hình thức sở hữu toàn dân đã được cải thiện và gia tăng.
Góp phần thực hiện một số mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia, của ngành, của vùng và các địa phương. Từ đó, nhiều vấn đề về xã hội, văn
hóa, môi trường được giải quyết. Mục tiêu phát triển, phát triển bền vững được đảm bảo.
Góp phần điều tiết nền kinh tế thông qua việc tác động trực tiếp đến tổng cầu của nền
kinh tế.
2.Nguyên tắc và nội dung của đầu tư công
• Nguyên tắc của đầu tư công
Thực hiện theo chương trình, dự án đầu tư công phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch
phát triển, phù hợp với kế hoạch đầu tư đã được duyệt.
Đầu tư công phải được đúng mục tiêu, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và có hiệu quả.
Hoạt động đầu tư công phải đảm bảo tính công khai, minh bạch.
Hoạt động đầu tư công phải thực hiện trên cơ sở thống nhất nhà nước với sự phân cấp
quản lí phù hợp.
Phân định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan đến các hoạt động đầu
tư công.
Đa dạng hóa các hình thức đầu tư công.
Nội dung của đầu tư công
Nội dung của đầu tư công được thực hiện theo các chương trình mục tiêu và các dự án
đầu tư công

• Đầu tư theo các chương trình mục tiêu:
-Khái niệm: chương trình mục tiêu là tập hợp các dự án đầu tư nhằm thực hiện một hoặc
một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của một đất nước hoặc của một vùng
lãnh thổ trong một thời gian nhất định.
3
- Phân loại: có thể phân theo nhiều cấp độ bao bồm
+ Chương trình mục tiêu quốc gia: do Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
+ Chương trình mục tiêu cấp tỉnh: do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương
đầu tư
-Căn cứ lập chương trình mục tiêu:
+ Đối với các chương trình mục tiêu quốc gia căn cứ lập chương trình mục tiêu bao gồm:
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước thời kì 10 năm đã được thông qua;
Tính cấp bách của mục tiêu của chương trình phải đạt để hoàn thành nhiệm vụ chiến
lược;
Khả năng đảm bảo nguồn vốn để thực hiện chương trình mục tiêu.
+ Đối với các chương trình mục tiêu cấp tỉnh căn cứ lập chương trình mục tiêu bao gồm:
Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh 5 năm đã được phê duyệt;
Tính cấp thiết của việc thực hiện mục tiêu trong thời kì kế hoạch;
Khả năng đảm bảo nguồn vốn để thực hiện chương trình mục tiêu;
-Yêu cầu đối với chương trình mục tiêu:
+ Đối với các chương trình mục tiêu cấp quốc gia, yêu cầu phải đảm bảo:
Chương trình phải nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần ưu tiên tập
trung thực hiện trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của cả nước;
Nội dung chương trình phải rõ ràng, cụ thể, không trùng lặp với các chương trình đầu tư
khác;
Việc xác định và phân bổ vốn đầu tư phải tuân theo danh mục dự án; định mức tiêu chuẩn
phân bổ vốn được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
Tiến độ triển khai thực hiện chương trình phải phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng
huy động các nguồn lực theo thứ tự ưu tiên hợp lý đảm bảo đầu tư tập trung, có hiệu quả;
Việc tổ chức thực hiện phải có sự phân công rõ ràng, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,

ngành và địa phương có liên quan; việc bố trí vốn đầu tư cho các dự án phải đảm bảo
đúng tiến độ thực hiện chương trình;
Quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu phải được theo dõi, kiểm tra, giám
sát thường xuyên và có đánh giá tổng kết theo định kỳ;
Các vấn đề xã hội mà Chính phủ Việt Nam cam kết với Quốc tế phải thực hiện theo
chương trình chung của quốc tế về các vấn đề liên quan.
+ Đối với các chương trình mục tiêu cấp quốc gia, yêu cầu phải đảm bảo:
Mục tiêu chương trình phải nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần ưu
tiên tập trung thực hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh;
Nội dung chương trình phải rõ ràng, cụ thể, có chú ý tới việc lồng ghép với các nội dung
của các chương trình đầu tư khác trên địa bàn
4
Các yêu cầu khác như quy định của chương trình mục tiêu quốc gia nhưng được xác định
phù hợp với chương trình mục tiêu cấp tỉnh.
• Nội dung chương trình mục tiêu:
Sự cần thiết phải đầu tư;
Đánh giá thực trạng của ngành, lĩnh vực thuộc mục tiêu và phạm vi của chương trình;
những vấn đề cấp bách cần được giải quyết trong chương trình;
Mục tiêu chung, phạm vi chương trình;
Mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu cơ bản phải đạt được trong từng khoảng thời gian của
chương trình;
Danh mục các dự án đầu tư cần thực hiện để đạt được mục tiêu chương trình, thứ tự ưu
tiên và thời gian thực hiện các dự án đó;
Ước tính tổng mức kinh phí để thực hiện chương trình và phân theo từng mục tiêu cụ thể,
từng dự án, từng năm thực hiện; nguồn và kế hoạch huy động các nguồn vốn;
Kế hoạch, tiến độ tổ chức thực hiện chương trình, dự án; cơ chế, chính sách áp dụng đối
với chương trình; khả năng lồng ghép, phối hợp với các chương trình khác;
Các vấn đề khoa học, công nghệ, môi trường cần xử lý(nếu có); nhu cầu đào tạo nguồn
nhân lực để thực hiện chương trình;
Yêu cầu hợp tác quốc tế(nếu có)

Đánh giá hiệu quả kinh tế- xã hội chung của từng chương trình và từng dự án.
a.Thẩm định, phê duyệt chương trình mục tiêu
Chủ chương trình mục tiêu lập hồ sơ trình người có thẩm quyền phê duyệt chương trình
mục tiêu. Chủ chương trình mục tiêu chịu trách nhiệm về pháp lý và nội dung của hồ sơ
trình duyệt.
Người có thẩm quyền quyết đinh phê duyệt chương trình mục tiêu sử dụng các cơ quan
trực thuộc tự tổ chức thẩm định hoặc thuê các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực để thẩm
định chương trình mục tiêu. Tổ chức, cá nhân tham gia thẩm định chương trình mục tiêu
chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định và những kiến nghị của mình. Việc thẩm định
chương trình mục tiêu theo quyết đinh của Chính phủ.
b. Đầu tư theo các dự án đầu tư công
- Khái niệm: Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
- Phân loại: bao gồm dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi
trường, quốc phòng, an ninh; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo,….; dự án phục vụ
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị- xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp; các dự án
5
đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị- xã hôi- nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề
nghiệp được hỗ trợ từ vốn của nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu đối với dự án đầu tư công:
Dự án đầu tư công phải phù hợp với kế hoạch đầu tư công và danh mục dự án chuẩn bị
đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
Dự án đầu tư công phải có các giải pháp kinh tế- kỹ thuật khả thi;
Dự án đầu tư công phải đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội, phát triển bền vững.
- Công tác lập dự án đầu tư công:
Dự án đầu tư công quan trọng quốc gia phải được lập qua 2 bước:
-Bước 1: Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để quyết định chủ trương đầu tư
- Bước 2: Lập báo cáo nghiên cứu khả thi để thẩm định, quyết định đầu tư.

• Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư công về cơ bản phải đảm bảo
những nội dung chung sau:
Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư, các điều kiện để thực hiện đầu tư, xem xét đánh
giá về sự phù hợp với quy hoạch, chủ trương đầu tư;
Dự báo nhu cầu, phạm vi phục vụ và dự kiến quy mô đầu tư, hình thức đầu tư;
Chọn khu vực địa điểm đầu tư, xây dựng hoặc vùng địa điểm, tuyến công trình và dự
kiến nhu cầu diện tích sử dụng đất và nhu cầu sử dụng các tài nguyên khác;
Phân tích, lưạ chọn sơ bộ về công nghệ, kỹ thuật và các điều kiện cung cấp vật tư thiết bị,
nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ, hạ tầng;
Phân tích, lựa chọn sơ bộ các phương án xây dựng bao gồm nội dung đầu tư và quy mô
các hạng mục;
Phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư( nếu có);
Phân tích, đánh giá sơ bộ những ảnh hưởng về môi trường, xã hội của dự án;
Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư; phương án huy động các nguồn vốn; khả năng thu hồi
vốn;
Tiến độ thực hiện dự án; phân chia giai đoạn đầu tư(nếu cần thiết)
Tính toán sơ bộ hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế- xã hội của dự án;
• Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư công có các nội dung chủ yếu sau:
Những căn cứ để xác định sự cần thiết và tính hợp lý phải đầu tư;
Đánh giá sự phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành, quy
hoạch lãnh thổ;
Phân tích, xác định nhu cầu, nhiệm vụ phải đáp ứng; phân tích, lựa chọn quy mô hợp lý;
xác định phân kỳ đầu tư; lựa chọn hình thức đầu tư;
Phân tích các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế- kĩ thuật lựa chọn phương án địa điểm
đầu tư cụ thể phù hợp với các quy hoạch liên quan;
6
Phân tích lựa chọn phương án công nghệ, kỹ thuật, thiết bị;
Phương án tổ chức quản lý khai thác, sử dụng dự án;
Phân tích lựa chọn các phương án kiến trúc, giải pháp kỹ thuật xây dựng của các phương
án đề nghị lựa chọn;

Đánh giá tác động môi trường và giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường;
Phương án giải phóng mặt bằng, kế hoạch tái định canh, định cư( nếu có)
Dự tính tiến độ thực hiện dự án; các mốc thời gian chính thực hiện đầu tư;
Xác định nhu cầu vốn đầu tư cho dự án với nhu cầu cụ thể về tiền tệ và tiến độ sử dụng
vốn theo thời gian;
Xác định nguồn vốn; phương án huy động các nguồn vốn(vốn chủ đầu tư và vốn huy
động từ các nguồn khác nhau);
Tổ chức quản lý dự án: xác định chủ đầu tư; phân tích lựa chọn hình thức tổ chức quản lý
thực hiện dự án; mối quan hệ và trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến quá trình thực
hiện dự án; tổ chức bộ máy quản lý khai thác dự án;
Phân tích hiệu quả đầu tư: hiệu quả và tác động kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng; khả
năng thu hồi vốn đầu tư.
 Trình tự thủ tục quyết đinh và thực hiện dự án đầu tư công:
+ Bước 1: Chủ đầu tư lập dự án đầu tư rồi trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
Đối với dự án đầu tư công đáp ứng tiêu chí dự án quan trọng Quốc gia theo quy định của
Quốc hội thì chủ đầu tư phải lâp báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Chính phủ để báo
cáo Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư. Chính phủ thành lập hội đồng thẩm
định nhà nước thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư công quan trọng
quốc gia báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.
+ Bước 2: Người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư công.
Hồ sơ thẩm định dự án đầu tư công gồm:
Tờ trình của chủ đầu tư;
Báo cáo nghiên cứu khả thi;
Các văn bản pháp lý liên quan đến dự án.
 Nội dung thẩm định dự án đầu tư công bao gồm:
+ Sự cần thiết phải đầu tư dự án;
+ Căn cứ pháp lý, cơ sở các thông tin, dữ liệu sử dụng để lập dự án;
+ Sự phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển ngành.
+Tính hợp lý về quy mô đầu tư, phương án công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng;
+ Phương án địa điểm, sử dụng đất đai, chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia;

+ Giải pháp bảo vệ môi trường, sinh thái, kế hoạch tái định cư; biện pháp giải quyết các
vấn đề xã hội của dự án;
+Căn cứ xác định và mức độ chuẩn xác về nhu cầu vốn đầu tư;
7
+ Phương án huy động vốn đầu tư;
+ Đánh giá khả năng thu hồi vốn; hiệu quả kinh tế- xã hội, tính bền vững của dự án;
+ Các nội dung khác theo quy định của pháp luật
3.Vai trò của đầu tư công đối với nền kinh tế - xã hội :
Như đã nói ở trên, đầu tư công có nghĩa là nhà nước sử dụng nguồn vốn thuộc sở hữu của
mình để tiến hành đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Vậy một câu hỏi được
đặt ra là tại sao nhà nước lại phải dùng đến nguồn vốn của mình mà không để cho khu
vực tư nhân thực hiện các chương trình, dự án đó, có khả năng sẽ đạt hiệu quả cao hơn
trong đầu tư. Bởi trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, có nhiều lĩnh vực, nhiều dự án
mà tư nhân không đủ khả năng hoặc đủ khả năng mà không muốn thực hiện. Ví dụ như
các dự án xây dựng công trình cầu, đường, các công trình công cộng; đầu tư phát triển
cho vùng miền núi, dân tộc thiểu số, Bởi đó đều là những dự án phải bỏ nhiều vốn đầu
tư ban đầu, thời gian thu hồi vốn lâu, hoặc khả năng thu hồi được vốn là không cao. Do
đó, việc đầu tư của nhà nước để đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của cộng đồng được đáp
ứng, giữ vững ổn định xã hội, tránh tình trạng bất công bằng, bất bình đẳng trong xã
hội. Vai trò của đầu tư công được thể hiện trên ba khía cạnh quan trọng sau:- Thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế dựa trên việc đầu tư cho các công trình hạ tầng, cơ sở vật chất – kĩ
thuật tối thiểu chung cho xã hội. Đây cũng đồng thời tạo những điều kiện thiết yếu cho
các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển. Ngoài ra, đầu tư công giúp
cho có cơ hội được tập trung nguồn lực cao, hoặc Trung ương có thể điều tiết được một
cách hợp lý các nguồn đầu tư, tránh tình trạng cục bộ, địa phương, nơi thừa nơi
thiếu Góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đằng, bất công trong
xã hội bằng các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa,
các dân tộc thiểu số (chương trình 134, 135 của Chính phủ, các chương trình xóa đói
giảm nghèo, ), nâng cao và ổn định đời sống người dân Đảm bảo ổn định và không
ngừng tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công trình, dự án về an ninh quốc phòng đều

không mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt nên khu vực tư nhân không thể và cũng không
muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng đó lại là cơ sở quan trọng của đất nước để bảo vệ
Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia
4.Nguồn vốn đầu tư :
 Nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước:
Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư phát triển, bên cạnh chính sách khuyến khích
mạnh mẽ đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn có sự ưu tiên hàng đầu nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào mục đích của các khoản chi thì nội dung chi đầu tư phát triển của NSNN bao
gồm chi đầu tư xây dựng cơ bản và các khoản chi không có tính chất đầu tư xây dựng cơ
8
bản. Trong chi đầu tư phát triển thì chi đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chiếm tỷ trọng lớn, có vai trò quan trọng và tác động trực tiếp mạnh
mẽ tới tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản là khoản chi lớn của NSNN, là yêu cầu tất yếu nhằm bảo
đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trước hết, chi đầu tư phát triển
từ NSNN nhằm để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất phục vụ và vật tư
hàng hoá dự trữ cần thiết của nền kinh tế. Đồng thời, chi đầu tư phát triển từ NSNN còn
có ý nghĩa là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước vào đầu tư
phát triển theo định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Quy mô và tỷ trọng chi
NSNN cho đầu tư phát triển trong từng thời kỳ phụ thuộc vào chủ trương, đường lối phát
triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và khả năng nguồn vốn NSNN. Nhìn chungcác quốc
gia luôn có sự ưu tiên NSNN cho chi đầu tư phát triển, nhất là các quốc gia đang phát
triển, cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Song cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN lại không
có tính ổn định giữa các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tự và tỷ trọng ưu tiên chi
đầu tư phát triển của NSNN từng lĩnh vực kinh tế - xã hội thường có sự thay đổi lớn giữa
các thời kỳ.
 Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ:
Trái phiếu Chính phủ (TPCP) được phát hành cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế - xã

hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước. Trong các giai đoạn 2003 - 2010 và 2011 - 2015 Quốc hội đã ban hành một số nghị
quyết về việc sử dụng nguồn vốn TPCP đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, di dân
tái định cư các dự án thủy điện lớn, y tế, giáo dục cấp bách. Đây là nguồn vốn bổ sung,
hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hàng năm của nhà nước bên cạnh các nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước, có tính chất tập trung cao nhằm hỗ trợ phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội theo mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn,
từng thời kỳ.
Việc phát hành trái phiếu luôn đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng.
Việc phát hành trái phiếu đã tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan, được quản lý,
sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và bố trí nguồn vốn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Toàn
bộ số tiền thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ đều được tập trung vào ngân sách
trung ương để sử dụng theo đúng mục đích phát hành theo quy định của pháp luật.
 Nguồn vốn tín dụng nhà nước:
Nguồn tín dụng ngân hàng là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư công. Nhưng
do đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cần một nguồn vốn lớn nhưng thu hồi vốn chậm
hoặc không có khả năng thu hồi vốn, nên rất ít các ngân hàng thương mại đầu tư vốn trực
tiếp để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, mà nguồn vốn này tập trung chủ yếu ở
9
Ngân hàng phát triển Việt Nam, tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% của Chính phủ và
hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
 Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội là nguồn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài gồm
các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu đãi, được phân bổ 3 theo công trình,
dự án. Chính phủ lên danh sách các lĩnh vực kêu gọi vốn viện trợ phát triển, hàng năm
chính phủ họp với nhà tài trợ để kêu gọi tài trợ, các nhà tài trợ sẽ xác định lĩnh vực cần
viện trợ, xây dựng dự án và tài trợ theo dự án.
Ở nước ta, ODA là một trong những nguồn vốn quan trọng của Nhà nước, sử dụng cho
những mục tiêu ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những trọng tâm sử
dụng vốn ODA là để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Căn cứ vào nhu

cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong
các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đưa ra định
hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời
kỳ. Năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA bao gồm: phát triển nông nghiệp và
nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm
nghèo); xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y
tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác); bảo vệ môi truờng
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên và; tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn
nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và từ khu vực tư nhân:.
Do nguồn vốn có hạn, nên ngân sách nhà nước chỉ có thể đầu tư cho các lĩnh vực, công
trình trọng điểm, các vùng nông thôn, miền núi, vùng khó khăn, còn lại Nhà nước khuyến
khích mạnh mẽ xã hội hóa, thông qua các cơ chế, chính sách động viên các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư xây dựng, quy hoạch, phát triển
kết cấu hạ tầng là mục tiêu hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền
vững.
Nguồn vốn FDI và các nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chủ yếu dưới các hình thức đầu tư sử dụng các nguồn vốn tư nhân,
nguồn vốn hỗn hợp nhà nước - tư nhân cho các công trình, dự án BOT, BT, BTO,…
nhằm mở rộng huy động đầu tư toàn xã hội để phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân
được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình
thức hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân vì tận ;;;dụng được nguồn
lực tài chính và quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn đảm bảo các lợi ích cho người dân.
Năm 2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình
thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển
10
giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao. Tiếp đó, năm 2010 Thủ tướng
Chính phủ lại có Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg quy định 9 lĩnh vực áp dụng quy chế
thí điểm hợp tác công - tư. Nhà đầu tư thực hiện các dự án BOT, BTO được Nhà nước

dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu
hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. Đối với dự án BT, Nhà nước tạo điều kiện cho nhà đầu tư
thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo
thỏa thuận trong Hợp đồng BT. Những cơ sở pháp lý như vậy tạo tiền đề cơ bản cho việc
thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng kỹ thuật kinh tế, xã hội của đất nước.
II.Thực trạng của đầu tư công:
 Thực trạng của đầu tư công ở Việt Nam hiện nay:
Có thể khẳng định, trong giai đoạn 2007- 2011 vấn đề đầu tư công luôn phải đối mặt với
không ít khó khăn. Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội đã giảm từ trên 46% GDP năm 2007
xuống còn 41,5% GDP năm 2008, 34,6% GDP năm 2011 và còn 33,5% GDP vào năm
2012. Trong đó, tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư nhà nước đã giảm mạnh từ năm 2007 đến
nay (trừ năm 2009 - năm Nhà nước chủ trương hỗ trợ nền kinh tế nhằm đối phó với các
tác động sâu rộng của khủng hoảng tài chính toàn cầu). Tính bình quân 5 năm 2007-
2011, vốn đầu tư khu vực nhà nước chỉ tăng 3,96% so với mức tăng chung của tổng đầu
tư xã hội là 8,92%, đầu tư kh,u vực ngoài nhà nước tăng 12,2% và khu vực FDI tăng 22%
(ngay cả khi FDI đã liên tục giảm trong 3 năm trở lại đây).
Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư nhà nước theo các ngành nghề kinh tế năm 2011 so với năm
2005 khá ổn định; đầu tư khai khoáng (giảm từ 8,4% xuống 6,% trong cùng kỳ). Đầu tư
nhà nước vào ngành vận tải kho bãi chiếm tỷ trọng cao nhất, là 21% năm 2005 và 20%
11
năm 2011; đầu tư vào sản xuất và phân phối điện, khí đốt chiếm vị trí thứ 2, tương ứng là
14,6% năm 2005 và 14,2% năm 2011; kế đó là công nghiệp chế biến, chế tạo, chiếm
9,2% năm 2005 và 10,3% năm 2011 Như vậy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước trong nền kinh tế và vấn đề tập trung nguồn vốn nhà nước vào các dịch vụ
công ưu tiên của nền kinh tế (các dịch vụ không hấp dẫn đối với khu vực tư nhân, khu
vực tư nhân hoạt động không hiệu quả hoặc khu vực tư nhân không có khả năng thực
hiện, nhưng cấp thiết đối với nền kinh tế) chưa thực sự chuyển biến như mong muốn.
Đầu tư nhiều - hiệu quả thấp
Đề án tái cơ cấu kinh tế đang tiếp tục được cơ quan soạn thảo, thẩm tra bổ sung, điều chỉnh trình Quốc hội xem xét vào kỳ họp tới. Trong đó, hiệu quả của việc cắt giảm đầu tư công là một vấn đề hết sức quan trọng cần được xem xét.
Cắt, nhưng vẫn tăng!

Theo số liệu mới được công bố tại phiên họp thứ 8 của UBTVQH, tổng chi ngân sách nhà nước năm 2011 vẫn có xu hướng tăng đáng kể, đạt 100.167 tỷ đồng, vượt 13,8% so với dự toán, trong đó, khoảng 23% số tăng chi ngân sách nhà nước là tăng cho đầu tư phát triển.
12
Cầu Thăng Long, một trong những công trình tốn nhiều tiền sửa chữa do chất lượng thấp
Đơn cử, lĩnh vực giao thông vận tải có mức đầu tư cao nhất, với vốn đầu tư thực hiện của Bộ GTVT là 2.167 tỷ đồng, bằng 29% kế hoạch năm và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong một diễn biến khác, người ta có thể thấy, trong nhiều năm tới, lĩnh vực này tiếp tục phải chi lớn. Theo đề án công nghiệp hóa, hiện đại hóa Bộ GTVT đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, bộ này có nhu cầu đầu tư hơn 223.000 tỷ đồng. Đáng lưu ý hơn, chỉ riêng việc đầu tư, nâng cấp nhà làm việc đảm bảo tiêu chuẩn của các cơ quan trực thuộc đã cần khoảng 12.170 tỷ đồng (riêng từ 2012 - 2015 cần 7.950 tỷ đồng). Trong đó, đầu
t ư t r ụ s ở v ă n p h ò n g b ộ l à 1 . 0 0 0 t ỷ đ ồ n g v à c á c t ổ n g c ụ c , c ụ c l à h ơ n 4 . 8 0 0 t ỷ đ ồ n g …
Luôn khẳng định tinh thần hết sức kiên quyết trong cắt giảm đầu tư công, song Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng phải thừa nhận, trong nhiều trường hợp, chính bộ này cũng phải nhân nhượng. Bằng chứng là việc tại phiên họp thứ 8 của UBTVQH, chính ông vừa thay mặt Chính phủ đề nghị UBTVQH phân bổ thêm vốn trái phiếu Chính phủ cho 5 dự án chưa có trong Nghị quyết của UBTVQH về vấn đề này…
Về kết quả này, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Phùng Quốc Hiển thẳng thắn: “Trong bối cảnh thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, vừa phải tiết kiệm chi thường xuyên vừa phải cắt giảm đầu tư công - trước hết là giảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước - mà kết quả lại như vậy là chưa hợp lý, chưa thể hiện sự nhất quán trong việc thực hiện chủ trương cắt giảm đầu tư. Điều này tạo áp lực lớn cho tái cấu trúc đầu tư công”.
Lơi lỏng giám sát
T u y n h i ê n , b ê n c ạ n h n h ữ n g n g u y ê n n h â n k h á c h q u a n , t r o n g k h á n h i ề u t r ư ờ n g h ợ p , t â m l ý c ụ c b ộ , đ ị a p h ư ơ n g c ộ n g v ớ i s ự l ơ i l ỏ n g t r o n g g i á m s á t l à n h ữ n g n g u y ê n n h â n d ẫ n đ ế n t ì n h t r ạ n g đ ầ u t ư c ô n g t i ế p t ụ c t ă n g c a o , t r o n g k h i h i ệ u q u ả l ạ i k h ô n g n h ư m o n g m u ố n .
Luật Ngân sách nhà nước năm 2004 quy định việc phân bổ vốn đầu tư được giao chủ yếu cho các ngành và các địa phương, nhằm tạo chủ động cho các đơn vị. Các dự án nhóm A, B, C đều được phân chia cho các ngành và địa phương tự xét duyệt, chỉ có một số rất ít do Thủ tướng phê duyệt. Đây chính là kẽ hở khiến cho việc ra quyết định đầu tư công nhiều khi khá tùy tiện, thiếu trách nhiệm; phá vỡ quy hoạch quốc gia, đầu tư dàn trải, lãng phí.
Trong khi đó, quá trình giám sát, kiểm tra đầu tư nhiều khi còn chiếu lệ, mang tính hình thức, không có chế tài kỷ luật nghiêm ngặt. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, năm 2011 chỉ có 110/124 cơ quan gửi báo cáo về giám sát đầu tư công, đạt tỷ lệ 88,7%; thấp hơn so với năm 2010. Tổng hợp số liệu từ các báo cáo này, hiện có 26.125 dự án trên tổng số 38.420 dự án đầu tư (các nhóm A, B, C) sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên thực hiện đầu tư trong kỳ có báo cáo giám sát, chỉ đạt tỷ lệ 68%. Điều này cho thấy công tác giám sát đầu tư chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều chủ đầu tư chưa báo cáo đầy đủ các nội
d u n g t h e o q u y đ ị n h , m ộ t s ố k h ô n g b á o c á o t h e o q u y đ ị n h , h o ặ c c ó b á o c á o n h ư n g m a n g t í n h h ì n h t h ứ c , t h i ế u c á c t h ô n g t i n c h i t i ế t .
Tuy nhiên, ngay khi các báo cáo chưa chi tiết như lẽ ra cần phải thế, người ta cũng đã thấy nổi lên một vấn đề đáng lo ngại: Tình trạng chậm tiến độ diễn ra tại nhiều dự án đầu tư sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên. Riêng trong năm 2011 có 4.436 dự án chậm tiến độ, chiếm 11,55% số dự án thực hiện trong kỳ; làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Cùng kỳ, các cơ quan chức năng đã phát hiện 100 dự án có vi phạm quy định về thủ tục đầu tư; 47 dự án vi phạm về quản lý chất lượng; 145 dự án có thất thoát, lãng phí (chiếm 0,38% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ)
v à 1 . 0 3 4 d ự á n p h ả i n g ừ n g t h ự c h i ệ n , c h i ế m 2 , 6 9 % t ổ n g s ố d ự á n đ a n g t h ự c h i ệ n .
Cần nói thêm rằng, ngay cả khi tiến hành cắt giảm khá quyết liệt, đầu tư công ở Việt Nam vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế - khoảng 38,9% năm 2011, phấn đấu giảm xuống 34% năm 2012. Ngược lại, hiệu quả của đầu tư công còn khá thấp. Những đồng tiền thuế của người dân phải được sử dụng một cách thận trọng, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
 Thực trạng đầu tư công cho tam nông
Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và
nông dân (tam nông), vốn đầu tư cho khu vực này mỗi năm một tăng. Tuy nhiên, việc bố
13
trí nguồn lực cũng như hiệu quả các chính sách kêu gọi đầu tư cho lĩnh vực này vẫn chưa
được như mong đợi.

Tín dụng cho khu vực “tam nông” và lĩnh vực xuất khẩu vẫn tăng 12,5%.
Vốn đầu tư ngày càng tăng
Theo Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, năm 2013, mặc dù cân đối ngân sách nhà nước hết
sức căng thẳng, nhưng vẫn bố chí vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông dân và
nông thôn 131.000 tỷ đồng; tăng trên 2,5 lần so với năm 2009. Tỷ trọng ngân sách chi
cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã tăng từ 32,8% tổng chi (năm 2008) lên gần
36% năm 2009. Còn năm 2013 này, vốn ngân sách bố trí cho khu vực “tam nông” chiếm
tới 41,3% tổng chi.

Ngoài chính sách tài khóa đang tập trung nhiều hơn cho khu vực nông nghiệp, nông thôn
và nông dân, theo Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh, khu vực này đã và đang nhận được nhiều
sự hỗ trợ từ chính sách tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của cả nền
kinh tế năm 2011 chỉ đạt 14,41% thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của khu vực này và lĩnh
vực xuất khẩu tăng tới 30,64%.
Năm 2012 tốc độ tăng trưởng tín dụng chung giảm mạnh, chỉ tăng 8,91%, nhưng tín dụng
cho khu vực “tam nông” và lĩnh vực xuất khẩu vẫn tăng 12,5%.
Còn trong 5 tháng đầu năm 2013, tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của cả nền kinh tế
chỉ đạt khoảng 2% thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của khu vực “tam nông” và lĩnh vực
xuất khẩu tăng 3,1%, tức là gấp 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung.
“Nguồn vốn tín dụng ngân hàng không chỉ tập trung cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn, nông dân nhiều hơn, mà khu vực này còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn của hệ thống
ngân hàng thông qua lãi suất cho vay. Trong 3 năm gần đây (2011 - 2013), lãi suất cho
vay bình quân của các ngân hàng thương mại đối với khu vực “tam nông” và lĩnh vực
xuất khẩu luôn thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường 2 - 3%”, ông Ninh minh chứng.
Quan tâm tới tam nông, ngoài việc tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tăng dư nợ tín
dụng với lãi suất ưu đãi, Chính phủ đang triển khai Chương trình Nông thôn mới với
nhiều giải pháp hỗ trợ thiết thực.
Cũng theo Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, ngoài những chính sách kể trên, trong nhiều
năm trở lại đây, năm nào Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai cho
doanh nghiệp vay vốn với lãi suất 0% để thu mua tạm trữ thóc gạo, cá tra, cá basa, qua đó
gián tiếp giúp đỡ người nông dân tiêu thụ được sản phẩm với giá cả hợp lý.
14
Song song với việc hỗ trợ đối với người trồng lúa, nuôi trồng thủy hải sản, Chính phủ đã
triển khai nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho người dân trực tiếp ra khơi đánh bắt hải sản
và làm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Cụ thể là chính sách thí điểm cho ngư dân vay vốn tới 70 - 80% với lãi suất 3%/năm
trong vòng 10 năm để đóng tàu mới có công suất từ 400 đến trên 1.000 mã lực. “Đây là
sự hỗ trợ vô cùng lớn của Nhà nước đối với tam nông. Sau khi tổng kết chương trình thí

điểm này, Chính phủ sẽ nhân rộng chương trình hỗ trợ ngư dân đóng tàu bám biển”, ông
Ninh nói.
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho biết, các bộ ngành đang nghiên cứu để nhân rộng
chương trình hỗ trợ ngư dân đóng tàu mới theo hướng vẫn giữ nguyên ưu đãi (lãi suất
cho vay thấp, thời gian vay dài) đối với khoản vay đóng tàu đánh bắt hải sản, làm dịch vụ
hậu cần nghề cá đối với tàu có công suất cao hơn.
Vẫn chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu thực tế
Mặc dù trong 3 năm gần đây, Chính phủ đã chi đến 52% tổng vốn đầu tư phát triển từ
nguồn ngân sách và trái phiếu Chính phủ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông
dân (riêng năm 2011, đã chi cho nông nghiệp, nông thôn cao gấp 2,21 lần so với năm
2008), góp phần giải quyết được nhiều vấn đề cho tam nông nhưng so với nhu cầu thực tế
vẫn chỉ đáp ứng được một phần.
Theo đánh giá tại Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư
công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn 2006 - 2011 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, nguồn lực và phân bổ đầu tư cho tam nông mới đáp ứng được 55 -
60% nhu cầu. Đặc biệt, nguồn lực đầu tư chủ yếu vẫn trông chờ vào ngân sách nhà nước,
vốn đầu tư từ các nguồn khác chưa đáng kể. Chính vì vậy chưa phát huy được hết tiềm
năng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ta, mục tiêu hướng đến một nền
nông nghiệp xanh, phát triển còn quá xa vời.
Trong đầu tư công, việc giải ngân ngân sách cho các chương trình mục tiêu quốc gia còn
quá chậm. Thông thường, kể từ khi ngân sách được Quốc hội quyết định cho đến khi tới
được cơ sở phải mất khoảng 10 tháng hoặc lâu hơn nữa. Trong cấu phần vốn ODA đầu tư
cho phát triển nông nghiệp, công tác giải ngân cũng rất chậm chạp. Vốn đầu tư đã chậm,
khi về đến cơ sở được triển khai một cách vội vàng để kịp tiến độ nên chất lượng nhiều
công trình chưa được bảo đảm. Những bất cập như tiêu cực trong triển khai các chương
trình, dự án, quy hoạch chồng chéo, thi công chậm tiến độ đang tiếp tục cản trở công
cuộc xây dựng nông thôn. Vẫn chưa có một lời giải hữu hiệu cho việc thiếu các hệ thống
hạ tầng điện, đường, trường, trạm tại các xã biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa…

Bên cạnh vốn từ ngân sách nhà nước và vốn ODA, các nguồn vốn khác đầu tư cho tam

nông còn hết sức nhỏ giọt do thiếu một cơ chế khuyến khích đầu tư đủ hấp dẫn. Thống kê
15
cho thấy, hiện doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm
khoảng 30% tổng số doanh nghiệp trên cả nước. Trong đó, có đến 60% doanh nghiệp có
tổng vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng. Lĩnh vực nông, lâm, thủy sản hiện có khoảng 1.400
doanh nghiệp hoạt động với tổng vốn đầu tư chỉ đạt khoảng 0,9% so với tổng số vốn của
doanh nghiệp cả nước. Mặt khác, nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn luôn ở mức rất thấp và có xu hướng giảm dần. Năm 2001, đầu tư cho nông
nghiệp chiếm 8% trong tổng cơ cấu FDI nhưng đến năm 2010 chỉ còn 1%. Rủi ro cao, lợi
nhuận thấp là lý do khiến dòng vốn FDI "chảy" vào khu vực nông nghiệp ngày càng ít.
2.Đánh giá thực trạng đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.
a.Thành tựu
Thứ nhất, đầu tư từ khu vực nhà nước đã trở thành một động lực quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng và quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế thời gian qua, tạo ra các
tác động lan tỏa lớn, nhất là các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng
lượng Đầu tư Nhà nước đã phát huy vai trò đặc biệt quan trọng trong những
giai đoạn kinh tế khó khăn, đầu tư từ các khu vực khác suy giảm (ví dụ như giai đoạn
2008-2009).
Thứ hai, cơ cấu đầu tư công đ ã có một số chuyển biến theo chiều hướng tích
cực. Đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu
tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xử lý bất hợp lý vùng miền; đã chú trọng đầu tư cho
các ngành nghề có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước cũng đã
tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển con người, nâng cao trình độ lực lượng lao
động. Cụ thể, trong tổng mức đầu tư phát triển từ NSNN, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ
tầng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Bình quân giai đoạn 2001-2010, chi cho đầu tư
xây dựng cơ bản chiếm trên 90% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN. Nguồn lực
NSNN đã được tập trung cho việc phát triển các dự án hạ tầng thiết yếu trong nền kinh tế,
các dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Thứ ba, đã hình thành được bộ khung pháp luật tương đối đồng bộ để
điều chỉnh các hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nhà nước nói riêng. Hệ

thống pháp luật liên quan đến đầu tư đến nay cơ bản đã bao quát được hầu hết
hoạt động đầu tư từ khu vực nhà nước.
b.Hạn chế và nguyên nhân:
 Hạn chế
Thứ nhất, mặc dù đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn
chậm và bất hợp lý chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Về nguyên tắc, đầu tư của Nhà nước chỉ nên tập trung vào việc
phân bổ các nguồn lực trong xã hội cho các lĩnh vực mà cơ chế thị trường không thể hoạt
16
động hoặc hoạt động không hiệu quả. Song trên thực tế, đầu tư của nhà nước của nước ta
vẫn còn tập trung vào một số ngành mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư.
Trong khi đó, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt
chuyển đối cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là
chưa hình thành được các tiêu chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu tiên” trong
các dự án đầu tư. Và kết quả là nhiều dự án được thực hiện song lại chưa tuân thủ theo
các mục tiêu cần thực hiện trong phát triển kinh tế xã hội chung.
Bên cạnh đó, đầu tư phát triển con người, đầu tư cho một số lĩnh vực như y tế, giáo dục
- đào tạo, tuy đã được quan tâm hơn so với trước song chưa tạo được sự chuyển biến
tương xứng về chất lượng cung cấp dịch vụ. Chi đầu tư cho nghiên cứu khoa học có tăng
nhưng hiệu quả ứng dụng các kết quả nghiên cứu chưa tương xứng.
Thứ hai, việc phân bổ vốn đầu tư từ NSNN còn dàn trải, số vốn bình quân phân
bổ cho các dự án hàng năm thấp.Chẳng hạn, Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và
địa phương phân bổ vốn NSNN cho tổng số 16.658 dự án, nhiều hơn năm 2009 khoảng
850 dự án; số vốn bình quân phân bổ cho một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân
bổ cho dự án nhóm A ở Trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố
trí năm 2007. Việc phân bổ vốn dàn trải dẫn tới tình trạng nhiều dự án bị kéo dài tiến độ,
chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng chi phí đầu tư. Hơn nữa, cơ cấu đầu tư theo vùng
miền còn chưa hợp lý. Nhiều địa phương có xu hương muốn hướng đến một cơ cấu đầu
tư tương tự nhau, hơn là hình thành một cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh của

từng địa phương. Hiện nay, cả nước đã có tới 100 cảng biển, 22 sân bay, 18 khu kinh tế
ven biển, 267 khu công nghiệp, 918 cụm công nghiệp, 28 khu công nghiệp cửa khẩu và
rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng, nhiều chương trình mục tiêu. Chất lượng xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển ở nhiều ngành trong một số khâu còn yếu, dẫn tới hiệu quả
đầu tư một số công trình, dự án chưa cao.
Hiệu quả của việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong các DNNN cũng chậm được
cải thiện. Khu vực DNNN đang được ưu tiên sử dụng rấtnhiều nguồn lực như vốn, tài
nguyên và vị thế kinh doanh. Một số lĩnh vựckinh doanh DNNN đang chiếm vị thế độc
quyền. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của DNNN lại không tương xứng với những nguồn
lực được ưu tiên đó.Tình trạng thất thoát và lãng phí đầu tư trong các doanh nghiệp, tổng
công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước chưa có giải pháp xử lý hữu hiệu. Nhiều doanh
nghiệp sử dụng vốn đầu tư vào các ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc lĩnh vực hoạt động
kinh doanh chính, dẫn đến hiệu quả thấp hoặc thua lỗ. Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, song có nguyên nhân là chậm bổ sung
chế tài để hướng các doanh nghiệp ưu tiên, tập trung nguồn lực cho phát triển các hoạt
động kinh doanh chính theo nhiệm vụ chính được giao.
17
Thứ ba, quan niệm về đầu tư công vẫn còn lệch lạc. Chưa tách biệt giữa mục tiêu kinh
doanh và mục tiêu xã hội của hoạt động đầu tư tại các doanh nghệp nhà nước vì vậy dẫn
đến đánh giá hiệu quả đầu tư vẫn còn mập mờ, thiếu tính thuyết phục. Cơ chế khuyến
khích thu hút đầu tư tư nhân còn chưa có sự đột phá mạnh, vì thế sự tham gia của khu
vực tư nhân vào đầu tư phát triển còn hạn chế, nhất là trong việc đầu tư phát triển hạ
tầng kinh tế. Bên cạnh đó, chi NSNN cho đầu tư chưa phát huy được vai trò “vốn mồi”
để thu hút sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Thứ tư, việc giám sát, kiểm tra thực hiện chưa được chú trọng đúng mức và chua có
phương pháp thực hiện phù hợp. Tuy đã thực hiện phân cấp mạnh trong cơ chế quản lý
vốn đầu tư song chế độ thông tin báo cáo, kiểm tra, giám sát trong một số khâu chưa
được điều chỉnh tương xứng nên công tác thống kê, tổng hợp, đánh giá gặp nhiều khó
khăn.
 Nguyên nhân:

Đặc thù của phân cấp đầu tư của Việt Nam là phân cấp đồng bộ và phân cấp theo địa giới
hành chính, nghĩa là phân cấp cùng các chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng cấp
quản lý nhà nước theo địa giới hành chính mà chưa chú ý tới đặc thù về quy mô, trình độ
phát triển, các yếu tố tự nhiên của từng địa phương, cũng như đặc thù về phạm vi, hiệu
quả của một số dịch vụ công. Cùng với hệ thống quản lý đầu tư còn nhiều bất cập, đầu tư
theo phong trào đã diễn ra rầm rộ, dẫn đến vấn đề “tỉnh hóa các cảng biển”, “tỉnh hóa khu
công nghiệp”, “tỉnh hóa các khu kinh tế”, “tỉnh hóa các trường đại học” Hệ quả tất yếu
của những vấn đề trên là áp lực đầu tư địa phương lớn, là đầu tư dàn trải, manh mún và
lãng phí.
18
Như đã đề cập trên đây, tốc độ tăng trưởng đầu tư nhà nước đã liên tục giảm từ năm 2007
(trừ năm 2009), bình quân tăng trưởng đầu tư nhà nước giai đoạn năm 2007 – 2011 chỉ
đạt 3,9%/năm, so với tốc độ tăng các năm trước đó rất cao (năm 2006 là 9,9%; năm 2005
là 9,6%; năm 2004 là 10,1%; năm 2003 là 10,1%; năm 2002 là 12,1% ). Song, đóng góp
chính vào sự chuyển biến này là từ đầu tư nhà nước cấp Trung ương. Cùng kỳ giai đoạn
2007 – 2011, đầu tư nhà nước cấp Trung ương chỉ tăng bình quân 1,66%/ năm, trong khi
đầu tư nhà nước cấp địa phương tăng tới 6,22%/năm. So với 5 năm trước đó, tốc độ tăng
đầu tư nhà nước cấp trung ương chỉ bằng 1/5, trong khi tốc độ tăng trưởng đầu tư địa
19
phương vẫn còn khá cao, trên 1/2 tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm trước. Cơ cấu đầu
tư, do đó, đang chệch về cấp địa phương. Năm 2011, đầu tư cấp địa phương chiếm tới
56,5%, trong khi đó con số này vào năm 2007 là 51,8%.
Cho tới nay, chỉ các dự án quan trọng quốc gia là được thẩm định với công cụ phân tích
chi phí - lợi ích. Các dự án nhóm A, được phê chuẩn bởi các bộ, ngành, các địa phương
và được đưa vào kế hoạch phân bổ ngân sách hàng năm chủ yếu được phân tích, đánh giá
thông qua công cụ giá trị hiện tại thuần. Trong khi, việc tính toán giá trị hiện tại lại
thường dựa vào các thông tin phiến diện, không cập nhật với những thay đổi kinh tế - xã
hội, điển hình là giá cả nguyên, nhiên, vật liệu Các dự án nhỏ hơn, nhóm B, C chỉ được
đánh giá trên cơ sở khả năng chi phí thực hiện.
Trong khi đó, chưa có một hệ thống theo dõi, đánh giá kết quả đầu ra và không có các

chế tài thưởng, phạt đủ mạnh. Vì thế, mặc dù liên tục được chấn chỉnh nhưng tình trạng
dàn trải, đầu tư vượt quá năng lực tài chính, chậm tiến độ, nợ đầu tư xây dựng cơ bản,
đầu tư không thực sự hiệu quả vẫn diễn ra. Tháng 7/2011 công bố kết quả kiểm toán
NSNN năm 2010 cho thấy, tổng chi NSNN địa phương năm 2010 vượt dự toán tới 19%,
trong khi con số vượt dự toán của ngân sách trung ương là 3,9%. Nhiều địa phương vẫn
phê duyệt quá nhiều dự án, với nhu cầu vốn vượt xa khả năng cân đối nguồn vốn của địa
phương và cũng theo báo cáo kiểm toán, trong năm 2010 có 3.386 dự án chậm tiến độ,
chiếm gần 10% số dự án thực hiện trong kỳ, trên 15% số dự án phải điều chỉnh, thậm chí
có trường hợp phải ngừng thi công, phá đi làm lại.
III.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công
1.Định hướng đầu tư công:
Nhu cầu nguồn lực cần có cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội giai đoạn 10 năm
tới là rất lớn. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng được xác định là một trong ba đột phá quan
trọng trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020. Trong điều kiện
nguồn lực huy động là có giới hạn, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng các
nguồn lực tài chính, nhất là nguồn vốn nhà nước phải được xem là chìa khoá quan trọng.
Đối với tài chính nhà nước, huy động và phân bổ nguồn lực phải tập trung những lĩnh
vực và khu vực mà việc phân bổ nguồn lực của tài chính phi nhà nước không thể hoạt
động hoặc hoạt động không hiệu quả (ví dụ, xử lý các “thất bại của thịtrường”). Bên cạnh
đó, để tối đa hóa lợi ích thu được, việc phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính phải
hướng vào việc thực hiện các ưu tiên chiến lược (các đột phá) của nền kinh tế trong từng
giai đoạn . Việc xác định “thứ tự ưu tiên” phải được xem là một trong những yêu cầu cốt
lõi trong việc nâng cao hiệu quả của đầu tư nhà nước trong thời gian tới. Đồng thời trong
phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho đầu tư cần phải đảm bảo tuân thủ
20
tính kỷ luật tài khoá, hiệu quả và hiệu lực tài chính; coi trọng tính minhbạch và công
khai.
2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công:
o Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội

Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư nhà nước, chỉ
tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế thiết yếu, không có khả
năng thu hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn thấp, rủi ro cao, dịch vụ công quan trọng, một
số ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân không
thể hoặc chưa thể thực hiện được.
Phân định rõ nội dung, phạm vi đầu tư giữa trung ương và địa phương thông qua việc đẩy
mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương. Nguyên tắc chung là
những việc mà địa phương không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả thì mới
để trung ương thực hiện nhằm tạo ra sự chủ động cho địa phương. Nghiên cứu hình thành
cơ chế mở cho tất cả các địa phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp
với quy hoạch, năng lực và tài lực của từng địa phương. Phát huy vai trò định hướng của
đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là
“vốn mồi” đề thu hút các nguồn lực xã hội, đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng
cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông. Tạo điều kiện bình đẳng
trong đấu thầu xây dựng và thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân sách
trên cơ sở hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ưu tiên tập trung
sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho xây dựng, cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập
trung nâng cấp phát triển hạ tầng giao thông tại vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các
trục giao thông huyết mạch liên kết các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển trục giao
thông Bắc –Nam.
o Nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực đầu tư Nhà nước
Nghiên cứu sửa đổi Luật ngân sách nhà nước cho phù hợp với yêu cầu cải cách và quản
lý; xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố trí vốn, thanh toán
và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư hoàn thành công trình theo kế
hoạch tài chính trung hạn và tiến độ công trình, giảm dần và tiến tới xóa bỏ tình trạng
phân chia bình quân và dàn mỏng nguồn lực, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng.
Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách cũng như xây
dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi ngân sách. Trên cơ sở đó thực hiện phân loại
các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên để bảo đảm kinh phí thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội đã đề ra.

Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu
trung hạn, xem kế hoạch chi đầu tư là một cấu phần của kế hoạch tài chính - ngân sách
21
trung hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới hạn trong khả năng nguồn lực và thống
nhất với các ưu tiên chính sách của Chính phủ. Qua đó, đảm bảo việc phân bổ nguồn lực
hàng năm định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội trong trung và dài hạn, tăng
cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong phân bổ nguồn lực.
o Đa dạng hóa nội dung và hình thức của đầu tư công
Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu mở rộng việc áp dụng hình thức bán hoặc chuyển
nhượng quyền quản lý, khai thác có thời hạn một số công trình cơ sở hạ tầng để huy động
nguồn vốn của xã hội cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Đổi mới phương thức phát triển tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại (tín dụng
nhà nước chỉ khắc phục những bất cập do thiếu hoặc không đảm bảo các điều kiện về tài
sản cầm cố,thế chấp, hoặc do qui mô vay vốn quá lớn, thời hạn dài…) nhằm nâng cao kỷ
cương, kỷ luật tài chính và đảm bảo tính bền vững.
Tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa phương để góp phần
huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địaphương. Đẩy mạnh việc
thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn
hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh
trong cung cấp sản phẩm dịch vụ, xóa bỏ dần thế độc quyền qua đó người dân có cơ hội
được tiếp cận với một chất lượng của dịch vụ ngày càng cao.
o Đổi mới phương thức quản lý đầu tư công
Thực hiện đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, trong đó cần đặc biệt coi trọng
nguyên tắc công khai minh bạch và giám sát độc lập. Nâng cao hiệu quả của công tác
công khai ngân sách nói chung cũng như chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công nói
riêng.
Tăng cường quản lý, giám sát, nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn vốn NSNN. Đảm bảo
hiệu quả đầu tư nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực hiện dự án.
Đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình trọng điểm quốc gia,

của HĐND đối với các dự án đầu tư trên địa bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn
thiện cơ chế để người dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản
của nhà nước.
22
IV.KẾT LUẬN
Nhìn chung hoạt động đầu công của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã có sự tăng
trưởng nhanh, cơ cấu đầu tư cũng đã có bước chuyển tích cực qua đó góp phần quan
trọng vào việc duy trì tăng trưởng và ổn định kinh tế tế vĩ mô và tăng cường xoá đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, hoạt động đầu tư công
những năm qua vẫn còn tồn tại một số bất cập, đặc biệt cơ cấu đầu tư còn dàn trải, hiệu
quả phân bổ và sử dụng nguồn lực chậm được cải thiện. Trong thời gian tới cần tập
trungvào các giải pháp nhằm cơ cấu lại đầu tư công; đổi mới phương thức quản lý đầu tư
công, đồng thời thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế
xã hội và nâng cao hiệu quả của công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu tư
công.
23

×