Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

gốm sứ thời goryeo và choson của hàn quốc – so sánh với gốm sứ cùng thời của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 40 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM 2010-2011
GỐM SỨ THỜI GORYEO VÀ CHOSON CỦA
HÀN QUỐC – SO SÁNH VỚI GỐM SỨ CÙNG
THỜI CỦA VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN MAI LOAN
LỚP : 010K2
KHOA: NN&VH PHƯƠNG ĐÔNG
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐỖ THÚY HẰNG
HÀ NỘI - 03/2011
2
Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã nhận được nhiều sự
giúp đỡ. Không chỉ có cô giáo Việt Nam mà những cô giáo Hàn Quốc cũng đã
tận tình, tạo mọi điều kiện giúp đỡ em. Đặc biệt là cô giáo hướng dẫn trực tiếp
cho em đề tài này - cô giáo ĐỖ THÚY HẰNG.
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!
Trong bài nghiên cứu khoa học sinh viên này, thuật ngữ Triều Tiên được sử dụng
cho cả Hàn Quốc- (Nam Triều Tiên) và CHDCND Triều Tiên – (Bắc Triều Tiên).
3
ĐỒ GỐM HÀN QUỐC
Mục lục
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Mục đích chọn đề tài 4
3. Vấn đề và phương pháp nghiên cứu 5
PHẦN2: NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: Đồ gốm thời kỳ Goryeo và Choson
1.Khái lược lịch sử ra đời và phát triển của đồ gốm Triều Tiên 6
2. Những đặc điểm văn hóa của đồ gốm xanh thời Goryeo 11
3. Những đặc điểm văn hóa của đồ gốm trắng thời Choson 18
4. Tiểu kết 24
CHƯƠNG 2: Đặc điểm văn hóa gốm cùng thời ở Việt Nam
1. Đặc điểm văn hóa gốm thời Lý, Trần 25
2. Đặc điểm văn hóa gốm thời Mạc, Lê 29
2.1. Đồ gốm Chu Đậu 30
2.2. Đồ gốm Bát Tràng 33
CHƯƠNG 3: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa đồ gốm Việt Nam và
Triều Tiên 36
PHẦN 3: KẾT LUẬN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO, TRÍCH DẪN 40
4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đã biết rằng mỗi dân tộc trên thế giới đều có nền văn hoá mang
những đặc trưng riêng. Và nhờ những đặc trưng đó ta có thể hiểu hơn về dân tộc
đó, đất nước đó. Khi được tiếp xúc với nền văn hoá Hàn Quốc mang đậm nét văn
hóa Á-Đông, em bị cuốn hút bởi nhiều nét văn hóa đặc sắc. Từ đó, em muốn biết
rõ hơn về nguồn gốc cũng như những ý nghĩa sâu xa liên quan tới văn hóa Hàn
Quốc mà cho tới nay em chưa khám phá, chưa thử tìm hiểu. Và đồ gốm Hàn
Quốc là một trong những nét văn hóa đặc sắc đó. Tuy nhiên, văn hóa của một
quốc gia, nhất là một đất nước có lịch sử lâu đời trên bán đảo Triều Tiên (Hàn
Quốc và CHDCND Triều Tiên) là một đề tài vô cùng lớn. Với kiến thức còn hạn
hẹp và phạm vi một bài nghiên cứu khoa học sinh viên năm nhất, em chỉ xin đề
cập đến hai dòng gốm là gốm xanh thời kỳ Goryeo và gốm trắng thời kì Choson
nổi bật trong di sản văn hóa của dân tộc Triều Tiên (Hàn Quốc và CHDCND
Triều Tiên).

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khi chọn nghiên cứu đề tài này, mục đích của em là giúp bản thân hiểu
hơn về đồ gốm Triều Tiên nói riêng và nền văn hoá Triều Tiên nói chung. Có
người cho rằng việc nghiên cứu di sản văn hóa là vô cùng khô khan và không
thực sự cần thiết đối với đời sống xã hội hiện nay. Nhưng thông qua việc nghiên
cứu này, em có thể hiểu thêm về quan điểm thẩm mỹ, đời sống tinh thần, tình
cảm cũng như truyền thống lao động cần cù, giàu sáng tạo và sự khéo léo của
những nghệ dân gốm nói chung cũng như của người dân Triều Tiên nói riêng.
Qua đó liên hệ với sản phẩm gốm của Việt Nam để thấy được những nét tương
đồng và khác biệt trong truyền thống văn hóa giữa hai dân tộc, để hội nhập, để
gắn kết, để hòa nhập mà không hòa tan và để cùng phát triển trong hòa bình, hữu
nghị và hợp tác lâu dài.
5
3. VẤN ĐỀ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đồ gốm từ xưa đến nay luôn là đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Tuy nhiên những bài nghiên cứu đa phần tập trung về lịch sử ra đời,
quá trình phát triển và các giá trị kinh tế của sản phẩm này. Bởi vậy, trong bài
nghiên cứu khoa học này, ngoài việc tóm tắt ngắn gọn lại những vấn đề trên, em
còn muốn liên hệ hai dòng gốm Triều Tiên như đã nói ở trên với đồ gốm Việt
Nam để từ đó làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt trong sản phẩm
gốm của hai nước nói riêng cũng như văn hóa của hai nước nói riêng.
Các thông tin về đồ gốm Triều Tiên trong bài viết này ngoài các nguồn tư
liệu bằng tiếng Việt, phần lớn được dịch ra bằng tiếng Anh và tiếng Hàn trên một
số sách, báo và Internet. Qua bài nghiên cứu khoa học sinh viên này, em hi vọng
sẽ cung cấp cho người đọc một số hiểu viết về giá trị văn hóa đồ gốm của Triều
Tiên và Việt Nam.
6
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐỒ GỐM THỜI KỲ GORYEO VÀ CHOSON
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỒ GỐM

TRIỀU TIÊN
Triều Tiên (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên:
조선, Choson) hay Hàn Quốc (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân quốc: 한국,
Hanguk) hay Korea (theo cách sử dụng quốc tế và có gốc từ "Cao Ly") là một
nền văn hóa và khu vực địa lý nằm tại bán đảo Triều Tiên tại Đông Á.
Hiện nay trên bán đảo Triều Tiên có hai quốc gia riêng rẽ: Đại Hàn Dân
Quốc, gọi tắt là Hàn Quốc ở phía Nam (Nam Triều Tiên) và nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc (Bắc Triều Tiên)
1.1 GIỚI THIỆU
Là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới, Triều Tiên được
biết đến trên toàn thế giới với đồ gốm sứ được phát triển như là một trong những
nghệ thuật tạo hình đỉnh cao. Khoảng 8000 năm trước, gốm được đưa vào Bán
đảo Triều Tiên. Từ khi đó, gốm đã trở thành một bộ phận khăng khít trong đời
sống nhân dân Triều Tiên và được gìn giữ như những sản vật thiên nhiên của
nhân dân Triều Tiên. Không giống như các hình thức nghệ thuật khác, dòng văn
hóa gốm Triều Tiên không những tạo ra sự thuận lợi sử dụng của sản vật mà còn
gìn giữ bảo vệ chức năng cơ bản của nghệ thuật là làm thanh khiết tâm trí con
người.
Cho mãi tới thế kỷ 19, Triều Tiên đóng vai trò quan trọng là nước sản xuất
đồ gốm và là một trong hai nước phát triển dòng gốm thanh thiên celadon. Sự
phát triển gốm trắng Triều Tiên (đồ sứ) đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các nước
láng giềng.
7
Cuối thế kỷ 19, mặc dù thế, dòng gốm thanh thiên celadon Triều Tiên bị
suy thoái. Ngày nay, sự phát triển của các xã hội hiện đại đã mang lại sự thay đổi
trong các giá trị và đồng thời cũng gây thêm các khó khăn khác. Trong đồ thủ
công, sự khó khăn mà dòng gốm gánh chịu chính là sự đụng độ giữa ý tưởng tâm
hồn và khái niệm thương mại.
Hơn thế nữa, sau khi khai mở các hải cảng, giới trung lưu và thượng lưu đã
nhập rất nhiều dòng gốm mầu sắc sặc sỡ từ nước ngoài thì tổ hợp lò gốm hoàng

gia (bunwon), không còn hoạt động nữa và tư nhân hóa năm 1884. Sau đó, trong
giai đoạn 10 năm, việc sản xuất gốm trắng (sứ) cũng bị suy tàn vào những năm
1900. Do vậy, việc chấm dứt bunwon không những đã làm ngưng trệ có ý nghĩa
sản xuất đồ gốm truyền thống Choson mà còn mất đi quan điểm gốc dòng gốm
Triều Tiên, dòng gốm đại diện cho chức năng cơ bản của nghệ thuật và giá trị tự
nhiên của sản vật thiên nhiên.
1.2. THỜI GIAN TRƯỚC GIẢI PHÓNG – SỰ SUY SỤP CỦA
GỐM TRẮNG CHOSON VÀ SỰ PHỤC HỒI CỦA GỐM CELADON
GORYEO (1900 – 1945)
Trong thời gian này, việc tăng lên của dòng gốm nhập từ Nhật Bản và sự
thâm nhập các nhà sản xuất gốm Nhật bản vào Bán đảo Triều Tiên đã làm suy
yếu sản xuất gốm trắng truyền thống của Choson. Cơ quan gốm chính phủ Nhật
Bản thấy rằng việc mở ra các nhà máy sản xuất gốm tại Triều Tiên lãi gấp 5 lần
so với mở tại Nhật Bản và do vậy đầu những năm 1900, rất nhiều nhà máy gốm
Nhật Bản được mở ra tại Bán đảo Triều Tiên, như tại Goesan, Yeongdeungpo,
Jinnampo. Năm 1917, một nhà máy gốm cỡ lớn được xây dựng tại Busan và gốm
sản xuất tại Triều Tiên đã bắt đầu nhập vào thị trường Nhật Bản.
Trong khi thị trường tràn ngập đồ gốm Nhật Bản, các nhà gốm Triều Tiên
hiện đại tìm cách tăng ý nghĩa của sản xuất gốm Triều Tiên. Nhưng những nỗ lực
này dường như không thành công do sự ngăn chặn khắc nghiệt của Nhật Bản và
không có đủ điều kiện. Yi Sunghun (biệt danh Namgang), nhà giáo đồng thời là
8
thành viên trong phong trào cứu nước, lập Công ty Gốm Pyeongyang, bị đóng
cửa v.v…
Năm 1918, Nhật Bản đã lập nên cơ quan gốm “Xưởng Nghệ thuật Hoàng
gia Yi” và bắt đầu cung cấp các sản phẩm gốm thanh thiên celadon giả cổ, được
gọi là yiwangjik, cho người Nhật, vốn rất say mê dòng gốm này. Và theo thị hiếu
chuộng đồ cổ của người Nhật, việc tái tạo dòng gốm thanh thiên celadon thời
Goryeo đã phát triển mạnh. Mặc dù thoạt tiên phải sử dụng đến vốn và kỹ thuật
Nhật Bản, nhưng các nghệ nhân gốm Triều Tiên như Yu Kunhyong (1894-1993),

Hwang Inchun (1894-1950) và các học sinh của các ông đã trở thành các nhân
vật nổi tiếng trong kỹ thuật sản xuất gốm thanh thiên celadon. Xu hướng sản
xuất tái tạo và gìn giữ dòng gốm celadon đã phát triển mạnh mẽ và nhiều người
Triều Tiên tham gia. Việc tái tạo sản phẩm gốm celadon Triều Tiên hầu như phổ
biến trên toàn lãnh thổ Triều Tiên. Những sản phẩm, thành quả nghệ thuật mức
độ cao và sự hoàn hảo các sản phẩm giả cổ tái tạo trong giai đoạn này có thể
được chứng kiến tại Bảo tàng Quốc gia Gaeseong, chẳng hạn như bình đốt dầu
tái tạo celadon của Han Sukyong.
Trong giai đoạn Nhật thuộc này, Triều Tiên đã trở thành thị trường cho
hàng hóa Nhật Bản, một cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu Nhật Bản sử dụng nhân
công rẻ và việc sản xuất tái tạo gốm thanh thiên celadon cung ứng cho nhu cầu
giả cổ của người Nhật. Hầu hết các hoạt động sản xuất tái tạo có chất lượng cao
do phụ thuộc vào vốn và kỹ thuật Nhật Bản, đã chuyển biến tiến gần hơn với
phong cách Nhật Bản. Chỉ có dòng gốm có giá trị nhỏ như onggi, người Nhật
không chú ý tới, vẫn tiếp tục được sản xuất theo phương pháp truyền thống.
Trong giai đoạn thực dân hóa của Nhật Bản, vấn đề khó khăn nhất là sự tàn
phá và suy sụp của dòng gốm trắng (sứ) Choson càng thêm tồi tệ với khái niệm
thua kém dòng gốm thương mại và công nghệ Nhật Bản. Do đó, sự phục hồi
dòng gốm thanh thiên celadon Goryeo, mặc dù nó có thể là một phần của chính
9
sách thực dân Nhật, nhưng đã đóng vai trò có ý nghĩa trong việc hàn gắn vết
thương tự hào về dòng gốm thanh thiên celadon Triều Tiên.
1.3. SAU GIẢI PHÓNG, PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG GỐM HIỆN
ĐẠI VÀ SỰ PHỤC HỒI GỐM CELADON GORYEO.
Sau giải phóng, kinh tế phát triển. Sự tràn ngập văn hóa Mỹ nhập khẩu đã
làm thay đổi nhanh chóng giá trị và cách sinh hoạt của người dân Hàn Quốc
(Nam Triều Tiên). Đây có thể là giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất, đe dọa nhất đối
với văn hóa Triều Tiên. Sự sùng bái văn hóa phương Tây dễ để người ta coi
thường các giá trị Triều Tiên.
Môi trường sản xuất đồ gốm không khác gì nhiều so với tình hình chung

của xã hội. Các nhà máy được dựng lên trong giai đoạn Nhật chiếm đóng giờ
thiếu vốn, công nghệ và nguyên liệu. Hơn thế nữa, hàng hóa Mỹ nhập khẩu dã
thay thế đồ gốm truyền thống và làm suy yếu môi trường sản xuất. Chủ nghĩa
thực dụng Mỹ, nhấn mạnh vào chức năng sử dụng, kèm theo suy nghĩ chung của
công chúng thích dùng hàng tiêu dùng như đồ đồng, nhôm, nhựa hơn so với đồ
gốm cồng kềnh, nặng nề. Do vậy, sau giải phóng sự truyền cảm tích cực vào
dòng gốm tái tạo celadon thanh thiên thời Goryeo đã hoàn toàn biến mất, nhưng
nguyên nhân cơ bản nhất chính là thị trường Nhật Bản, vốn tiêu thụ dòng gốm
celadon lớn nhất và duy nhất đã biến mất, do hai bên cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Trong giai đoạn này, ý tưởng tái tạo dòng gốm celadon Goryeo và phục hồi
dòng gốm trắng Choson dường như không thành công, chính phủ Hàn Quốc
(Nam Triều Tiên) đã xem xét chấp nhận công nghệ gốm Phương Tây và thành
lập Xưởng Thủ công Mỹ nghệ Hàn Quốc với sự trợ giúp của chuyên gia gốm
người Mỹ Stanley Whistick (1958). Ông truyền bá công nghệ gốm Mỹ qua các
bài giảng tại Trường Đại học Hongik và hướng dẫn kỹ thuật tại Xưởng Thủ công
Mỹ nghệ Hàn Quốc.
10
1.4. THỜI KỲ ĐỈNH CAO CỦA DÒNG GỐM CELEDON VÀ
GỐM HIỆN ĐẠI (1970 – 1980)
Sau Hiệp ước Nhật – Hàn (1965), vào những năm 70’, 80’ sự cuồng nhiệt
của người Nhật đối với dòng gốm celadon thanh thiên Triều Tiên lại nổi lên
mạnh mẽ. Các xưởng gốm ra đời xung quanh Icheon, tỉnh Gyeonggi, sau đó lan
tới Gwangju, Yeoju và khắp Nam Hàn. Mặc dù chất lượng có khác nhau trong sự
tái tạo gốm thanh thiên celadon và gốm trắng nhưng để hài lòng với nhu cầu
người Nhật, nhiều sản phẩm đã được sản xuất cùng dáng vẻ, kích cỡ.
Trong giai đoạn này, các cơ sở nghiên cứu, sản xuất gốm bắt đầu được mở
tại các trường Đại học và các nghệ nhân gốm như Kim Chaesok, Chong Kyu,
Won Taejong, Kwon Sunhyong, Kim Iknyong… đã đóng góp có ý nghĩa lớn vào
việc củng cố các cơ sở nghiên cứu gốm trong các trường Đại học. Do đó, thế giới
gốm Triều Tiên trong giai đoạn này pha trộn sản phẩm “gốm sản xuất từ các

trường Đại học” (một số học giả muốn dùng từ “gốm trường Đại học”) và gốm
hiện đại.
1.5. GỐM ĐƯƠNG ĐẠI TRIỀU TIÊN (1990 – NAY)
Gốm Triều Tiên được phân loại các loại gốm sau: gốm trường Đại học,
gốm truyền thống, gốm chính thống và gốm công nghiệp. Mặc dù chưa có sự
nhất trí về phân loại và thuật ngữ nhưng nhìn chung, những vật dụng hàng ngày
sản xuất hàng loạt được gọi là gốm công nghiệp.
11
2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CỦA GỐM XANH THỜI
GORYEO
2.1. CÁC LOẠI GỐM THANH THIÊN CELADON
Đầu thế kỷ 12, trải qua bao thăng trầm, các thợ gốm Triều Tiên đã phát
triển nước men gốm rất đẹp, những hình dáng rất tao nhã, với mẫu mã tự nhiên
đã giành được những lời ca ngợi của các nhà gốm sứ, đánh giá dòng gốm thanh
thiên Triều Tiên là “nhất địa thiên bảo”. Gốm thanh thiên celedon Goryeo nằm
trong loại đồ gốm bán đảo Triều Tiên được khâm phục nhất. Cheong-ja là tên
dòng gốm màu xanh ngọc và được gọi là “celedon thanh thiên ” để phân biệt nó
với các dòng gốm Triều Tiên
khác (gốm Bun-cheong có
màu nâu hoặc nâu nhạt và gốm
Baek-ja là gốm sứ trắng Triều
Tiên).
Gốm thanh thiên
Goryeo có rất nhiều chủng loại
12
như gốm thanh thiên đơn sắc, gốm khảm thanh thiên (sanggam) hay gốm thanh
thiên với bút vẽ chất liệu sắt dưới men.
Nước men Goryeo đã được đánh giá cao về độ bóng mờ và mầu xanh
thanh thiên hay màu xanh xám uyển chuyển, có được do pha trộn một chút ô-xít
sắt trong nước men. Kiểu cách trang trí được ưa chuộng nhất là các con cò trong

bụi cỏ xuất hiện trên bình nước hình quả bầu và trên các bình nước hình tháp
(kundika) đã kết hợp sự tinh tế mỹ thuật cũng như thực tiễn cuộc sống tự nhiên
Triều Tiên. Chủ ý tác động trang trí cũng được chứng kiến trong giọt nước giống
hình con vịt. Con vịt miệng ngậm lá nho là bằng chứng kỹ nghệ thủ công tột bậc
của thợ gốm Triều Tiên.
Đồ gốm khảm thanh thiên
(sanggam) là đồ gốm độc nhất
thuộc về Triều Tiên. Mặc dù kỹ
nghệ khảm đã được áp dụng vào
đồ sơn mài và thủ công mỹ nghệ
khác, nhưng chỉ một khi nước
men đủ độ thấu quang được phát
kiến trong đầu thế kỷ 12 thời kỳ
Goryeo thì kỹ nghệ khảm mới được áp dụng vào trang trí đồ gốm thanh thiên.
13
Trong kỹ nghệ này, hình mẫu được khắc vào thân gốm đất sét vẫn còn ướt và
được bôi vào một chất màu đen hoặc trắng trước khi đồ gốm được tráng men và
đưa vào lò nung. Hình mẫu này được nhìn thấy rất rõ qua lớp men, có một vẻ đẹp
không thể nào có được trước đây với lớp men đục của đồ gốm Trung Quốc. Chỉ
một kỹ thuật trang trí nhỏ kết hợp đã tạo nên một khuôn mẫu trang trí lớn, rất
được ưa chuộng trong đồ gốm thanh thiên Triều Tiên thế kỷ 12-13.
Kỹ thuật vẽ bằng ô-xít sắt dưới
men thanh thiên hoàn toàn được khai
thác trong thời kỳ Goryeo để trang trí và
sản xuất những bình gốm lớn. Các đồ
gốm thanh thiên được vẽ dưới men đã
được nung trong ô xi hóa, kết quả cho ta
một lớp men màu vàng, hoặc nâu, tương
phản trên nền màu xanh thanh thiên được
nung trong môi trường thiếu ô xi. Các

hình mẫu được vẽ trực tiếp trên các thân
gốm và cần phải thực hiện trong một thời
gian ngắn.
Bình hình trụ thế kỷ 12 với trang
trí sống động một con chim và hai con bướm bay lượn trên cành nho lả lướt, đã
cho ta thấy một ngòi bút vẽ đặc tính phóng khoáng của thời kỳ này. Các khả năng
biểu cảm của kỹ thuật trang trí này thường được thấy tại các bình hình trụ với
một kiểu cách mô-tip duy nhất là hình vẽ cây liểu rủ. Hình ảnh thanh thoát toát
lên dưới ngòi bút vẽ đã bù đắp cho hình dáng thô kệch, bình thường của bình
gốm trụ. Sự tính tế ngẫu hứng tỏa ra từ trang trí các bình thanh thiên này đã trở
thành tiền thân cho giai đoạn phát triển lớn dòng gốm Triều Tiên trong triều đại
Chô-sơn sau này.
Màu sắc tinh tế, độc nhất của gốm celedon thanh thiên, có được qua
phương pháp nung lửa với lượng oxy thấp, xuất hiện đầu tiên tại thế kỷ 11 và dần
14
được hoàn thiện. Vào thế kỷ 12, dòng gốm thanh thiên trở thành dòng gốm
Koryo tinh xảo nhất, và được sử dụng làm vật dụng chính giới thượng lưu và
trong các đền chùa Phật giáo.
2.2. CÁC BIỂU TƯỢNG
Các hình trang trí và kiểu dáng được sử dụng trên gốm thanh thiên
celadon Goryeo đều là sản phẩm niềm tin của người dân Triều Tiên vào Phật
giáo. Những biểu tượng thường được dùng đều mang những ý nghĩa nhất định:
Hình tròn : Biểu tượng của Mặt Trời và sự tôn thời Mặt Trời
Hoa sen: Đại diện cho mặt trời và biểu tượng cho sự may mắn,
hạnh phúc trong Phật Giáo
Hoa mẫu đơn: Biểu tượng cho sự giàu có và cao quý
Hoa cúc: Biểu tượng cho sức khỏe và thịnh vượng
Cây thông: Biểu tượng cho hoàng thân và sự trung thành.
Con rồng: Biểu tượng cho mọi quyền lực
Con hổ: Biểu tượng cho sự phò trợ, bảo vệ

15
Con hạc: Biểu tượng cho sự bất tử
Con cá: Biểu hiện cho sự thành công hơn mong đợi
2.3. HÌNH DÁNG
Bên cạnh những biểu tượng và ý nghĩa các biểu tượng, hình dáng của đồ
gốm Triều Tiên cũng có ý nghĩa riêng của nó. Những hình dáng đó được rút ra từ
thiên nhiên và thể hiện thiên nhiên, như hình gốm giống các đốt tre, hay hình quả
dưa Triều Tiên (Cham-wae). Những hình dáng khác thể hiện từ thiên nhiên như
hình con vật hay một phần giống như hình con vật như rùa, cá (bình đốt hương
liệu ). v.v… Hình thể con người cũng được thể hiện trong gốm Triều Tiên. Bình
gốm, lọ gốm có hình thể đại diện cho đàn ông (Mae-byeong) hay đại diện cho
đàn bà (Ju-byeong). Hình dáng thon dài với đường cong mềm mại phía dưới đồ
gốm thể hiện vẻ đẹp gợi tình của phái nữ, trong khi bình gốm vai rộng, chắc nịch
thể hiện hình dáng của phái nam.
16
2.4. VẺ ĐẸP MỸ THUẬT DÒNG GỐM CELADON
Vẻ đẹp mỹ thuật của dòng gốm celedon Triều Tiên nằm ở vẻ đẹp huyền
ảo bí ẩn và sự giản dị đến tao nhã của nó. Dòng gốm này rất ấn tượng đến nỗi các
học giả Trung quốc đã phải gọi nó là một trong 10 báu vật đệ nhất thiên hạ và các
nhà nghệ thuật Trung Quốc miêu tả màu sắc của nó “không thể tả xiết”. Mặc dù
vẻ đẹp của nó khó có thể miêu tả cho một ai đó chưa từng chứng kiến hoặc sở
hữu nó, nhưng những dòng miêu tả sau của các vị học giả ở đầu thế kỷ 20 có thể
sát đến gần nghĩa của nó.
Mới thoáng nhìn gốm
thanh thiên celedon lần đầu
tiên, nhiều người nhận thấy ít
có nhiều thu hút, thậm chí
không quan tâm do tông mầu
xanh nhàn nhạt, nhìn nhận nó
đơn điệu và xa lạ so với

những sản phẩm gốm có mầu
sắc rực rỡ mà họ quen nhìn.
Dòng gốm Trung Quốc có
mầu sắc rực rỡ, như dòng
gốm xanh trắng đời Minh, dễ
cuốn hút người ta. Nhưng nếu chúng ta trưng bày gốm đời Minh trong một không
gian tĩnh lặng và sở hữu chúng lâu dài trong phòng, ta thấy mầu sắc gốm đời
Minh quá mạnh mẽ… Sự tĩnh lặng, huyền ảo bí mật của gốm Triều Tiên có thể
nói là chúng thể hiện tinh hoa Phương Đông. Sự tinh thế thầm kín, giản dị về
hình dáng và kiểu cách, mẫu mã có thể sánh được với cái tinh túy sâu sắc và cao
quý của Phật Giáo Thiền tông. Hình dáng của nó đã cuốn hút, đi vào lòng người
ngay lập tức; màu sắc sâu lắng mà trong trẻo, trang trí khắc họa tự do… mang lại
sự thanh thản tột cùng cho tâm hồn.
17
Mặc dù có nhiều mức độ gốm thanh thiên celadon được nêu ra, nhưng
gốm mỹ nghệ Triều Tiên rất tự hào chỉ có riêng bản thân nó đưa ra được dòng
gốm thanh thiên celadon bậc nhất bởi màu sắc thanh thiên cao quý, ẩn hiện, hình
dáng sống động, thanh tao,vòng cuốn mềm mại. Hơn thế nữa, gốm Koryo với
mẫu mã chạm khắc nên thơ, đặc biệt với đồ chạm khắc chất đồng, đã chuyển
sang mầu hồng đỏ là một kỹ thuật vô song trên thế giới, đại diện cho đỉnh điểm
của dòng gốm Koryo. Sự khác biệt có thể nhận thấy trong chất lượng gốm, chi
tiết khắc-chạm, nét vẽ và nước men. Nếu xem xét kỹ lưỡng, ta thấy trong các
hàng gốm chất lượng thấp, phần khắc-chạm và nét vẽ dường như nhạt nhòa và
mờ mịt trong khi hàng gốm chất lượng cao rõ ràng trong chi tiết và đường nét.
Sự sâu lắng và màu sắc của nước men cũng thể hiện đặc trưng chất lượng các
loại khác nhau.
Gốm thanh thiên hiện đại mang cùng một vẻ đẹp. Người ta có thể nhận ra
chúng những vết rạn đan xen dưới nước men, trong màu xanh ngọc sâu lắng.
Hình dáng được chắt lọc từ tự nhiên, thể hiện hình dáng con người đã làm tăng
thêm sự quyễn rũ của nó. Do đó, khó có thể đánh giá được vẻ đẹp của gốm thanh

thiên celedon qua hình ảnh mà người ta cần phải tận mắt chiêm ngưỡng những
vết rạn đan xen đó dưới nước men xanh ngọc sâu lắng đó. Càng ngắm nhìn, càng
thấy vẻ đẹp của gốm thanh thiên.
Gốm thanh thiên hiện đại có thể tạm thời phân nhóm thành 3 loại khác
nhau: sản phẩm gốm có trang trí chạm-khắc-đắp chìm, sản phẩm gốm có trang trí
chạm-khắc-đắp nổi, và sản phẩm gốm không có trang trí (gốm trơn). Mặc dù
chúng ta ưa thích cả 3 loại trên, nhưng đặc biệt chúng ta thích dòng gốm trơn,
phô diễn màu sắc thanh thiên và các vết rạn tinh tế dưới lớp men.
18
3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CỦA ĐỒ GỐM THỜI
CHOSON
3.1. HÌNH DÁNG GỐM TRẮNG CHOSON
Mặc dù sự hình thành gốm trắng Choson được bắt nguồn từ nền sản xuất
truyền thống gốm trắng của thời kỳ Goryeo và gốm trắng Trung Quốc cuối đời
nhà Nguyên, đầu đời nhà Minh, thì nhân tố quan trọng nhất liên quan đến việc
hình thành gốm trắng Triều Tiên vẫn là sự thay đổi do các triều đại nối tiếp nhau
tại Triều Tiên lưu truyền.
Trong giai đoạn này cùng với sự thiết lập vững chắc các tư tưởng Khổng
Tử, chính quyền trung ương Triều Tiên đã tìm cách cải tiến và phát triển đồ thủ
công, trong đó có đồ gốm. Các tư tưởng Khổng Tử về sự tao nhã và thực tiễn
không nghi ngờ gì đã tác động mạnh đến đồ dùng sinh hoạt của Hoàng gia khi
Hoàng gia thừa nhận dòng gốm trắng thay thế dòng gốm thanh thiên celadon của
triều đại Goryeo. Sau đó sản xuất gốm trắng được khích lệ và đỡ đầu.
Do vậy, sự phát triển bền bỉ dòng gốm trắng trong triều đại Goryeo đã tạo
điều kiện việc thiết lập sản xuất dòng gốm trắng trong triều đại Choson. Gốm
trắng Choson dường như đã chứa đựng mức tinh túy cao nhất khi sử sách ghi lại
rằng gốm trắng Choson năm 1420 đã được Hoàng gia Trung Quốc sử dụng. Tuy
nhiên, nhân tố quyết định nhất của phát triển dòng gốm trắng xuất phát từ yêu
cầu đồ dùng sinh hoạt của Hoàng gia. Sử sách ghi lại Hoàng đế Vĩ đại Sejong (trị
vì 1418-1450) đã thừa nhận gốm trắng là gia dụng của Hoàng gia. Việc thừa

nhận của Hoàng gia đã khích lệ sự phát triển nhanh chóng dòng gốm trắng và
hình thành nên đặc tính riêng biệt của gốm trắng Choson. Kết quả là mối tương
quan tư tưởng-văn hóa “gốm thanh thiên celadon-Phật Giáo - Goryeo” đã được
thanh thế bằng “gốm trắng-Khổng Tử- Choson”
19
3.2. PHÁT TRIỂN GỐM TRẮNG CHOSON
Điều cốt yếu cần phải hiểu sự phát triển của gốm trắng Choson có mối
quan hệ với các tư tưởng Khổng Tử. Ngoài ra sự thay đổi dòng gốm trắng nổi bật
nhất có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiếp tục cho đến khi Nhật Bản
xâm lược 1592 (1592-1599), giai đoạn hai có thể kéo dài cho tới khi lập nên tổ
hợp lò gồm hoàng gia “bunwon” (1600-1751). Giai đoạn cuối kéo dài tới khi tư
nhân hóa lò gốm này (1752-1883).
3.2.1.GỐM TRẮNG TIỀN CHOSON
Hai trăm năm đầu của triều đại Choson là giai đoạn những thay đổi xáo
trộn. Mặc dù phải vượt qua nhiều khó khăn, tinh thần của triều đại mới đã dần ổn
định xã hội. Giai đoạn này bao gồm cả việc thiết lập và tinh chọn của dòng gốm
trắng Choson. Cách trang trí án khảm (sanggam) đã rất được ưa chuộng trong
một thời gian khi dòng gốm trắng và xanh lần đầu tiên cũng được đưa ra trong
thời gian này.
Hoàn cảnh ra đời công nghệ lò gốm Choson có thể được hiểu theo việc
thiết lập “bunwon” hay còn gọi là “Lò gốm Hoàng gia” (the Royal Kiln
Department). Sử ký địa dư Hoàng đế Sejong đã nêu ra tình hình ngành gốm trong
nửa đầu thế kỷ 15, trước khi có sự ra đời của “bunwon”. Việc điều tra được tiến
hành năm 1424 theo lệnh của Hoàng gia đã nghi nhận có “139 đơn vị sản xuất
đồ gốm và 185 đơn vị sản xuất đồ sành”. Các đơn vị này được phân theo đồ gốm
có chất lượng cao, trung bình và thấp. Mặc dù các nghi chép này giúp chúng ta
hiểu ngành gốm cuối triều địa Goryeo và đầu triều đại Choson, những phát hiện
điều tra lò gốm thế kỷ 20 đã đưa ra nhiều điều không chắc chắn trong tiêu chí sử
dụng nhằm phân biệt sự khác nhau giữa các dòng đồ gốm và dòng đồ sành, cũng
như chất lượng những dòng này. Chẳng hạn “các đơn vị dòng gốm” không chỉ

gồm có gốm trắng mà còn có gốm “buncheong”.(buncheong, một loại đồ sành
màu xám với nước áo màu trắng và nước men màu xanh xám.). Một vài học giả
20
thậm chí đưa ra có thể “các đơn vị dòng đồ sành” còn bao gồm cả onggi (đất
nung), nhưng lò onggi vẫn chưa được tìm thấy. Do vậy, nhiều vấn đề vẫn còn
gây rất nhiều tranh luận.
Mặc dù không có ghi chép rõ ràng, nhưng một bunwon (tổ lò gồm Hoàng
gia) phụ trách sản xuất đồ gốm gia dụng cho Hoàng gia hình như được xây dựng
ở khu vực Kyeongancheon tại Gwangju, tỉnh Gyeongi. Hệ thống bunwon này
dường như bị ảnh hưởng mạnh của hệ thống sản xuất đồ gốm Hoàng gia Nhà
Minh Trung Quốc tại Jingdezhen. Việc thiết lập bunwon tất yếu dẫn đến sự phát
triển dòng gốm trắng trong cả nước. Do vậy, bunwon đã gián tiếp bất thình lình
chấm dứt dòng gốm buncheong. Vào cuối thế kỷ 15, hầu hết các lò gốm bắt đầu
sản xuất gốm trắng là những sản phẩm chủ yếu của họ.
Một trong những đặc thù riêng biệt của dòng gốm trắng thế kỷ 15 là việc
sử dụng trang trí án khảm (sanggam). Đây cũng là đặc thù của gốm sứ Triều Tiên
và thường được gọi là án khảm đen (black sanggam inlay) vì hầu hết các trang trí
được dùng với nguyên liệu đất sét đen.
Sự phát triển nổi bật nhất của dòng gốm trắng đời đầu Choson là sự xuất
hiện gốm xanh-trắng. Dựa vào sử ký và thăm dò lò gốm, gốm xanh-trắng cho là
được sản xuất từ giữa thế kỷ 15, chẳng hạn như màu xanh cô-ban được sản xuất
ra trong triều đại Hoàng đế Sejo. Bởi vì chất nhuộm cô-ban được nhập từ Trung
Quốc về nên dắt như vàng, được sự dụng rất hạn chế, chỉ dành cho đồ gia dụng
Hoàng gia. Do đó, gốm xanh-trắng chỉ được sản xuất trong các dịp đặc biệt và
ngày nay, còn lại rất ít.
21
3.2.2. GỐM TRẮNG TRUNG CHOSON
Giai đoạn này được tính ngay sau khi Nhật Bản xâm lược 1592 cho đến
khi thành lập “lò gốm Hoàng gia” (buwon) tại Làng Bunwon (Bunwon-ri) năm
1751.


Nhật Bản xâm lược 1592, tồn tại 7
năm, phá hoại hầu hết các di sản của Triều
Tiên. Một cuộc chiến khác nổ ra với Thanh
Triều Trung Quốc (1620-1636) đã làm
chậm lại các nỗ lực phục hồi đất nước.
Các hoàn cảnh này đã làm ngưng
trệ tạm thời sản xuất đồ gốm trong cả
nước, thậm chí ảnh hưởng đến sản xuất
dòng gốm xanh-trắng của Hoàng gia. Mặc
dù vậy, việc tái xuất hiện các lò gốm đã
chứng tỏ sản xuất đồ gốm phát triển nhanh
chóng vào giữa thế kỷ 17, với lò gốm ở
Sondong-ri. Một trong các đặc điểm của lò
gốm hoàng gia (bunwon) đời Chô-sơn là di chuyển xung quanh khu vực
22
Gwangju tỉnh Gyeonggi 10 năm một lần, để bảo đảm nguồn năng lượng củi gỗ
đốt lò cần cho sản xuất gốm.
3.2.3. GỐM TRẮNG HẬU CHOSON
Vua Yongjo (1724-1776) đã thiết lập một bunwon cố định năm 1752 tại
Bunwon-ri, nơi Sông Hàn Bắc và Sông Hàn Nam gặp nhau. Từ đó về sau, nơi
đây là trung tâm sản xuất và phân phối gốm trắng, cho tới cuối thế kỷ 19 do khó
khăn về tài chính và nguồn vốn của tư nhân, đã tư nhân hóa trung tâm này.

Hậu gốm trắng Choson được đánh giá là thực sự đạt được sự đa dạng
trong dòng gốm. Do có sự thay đổi và tác động của văn hóa nước ngoài, số lượng
và chất lượng gốm trắng đã được cải thiện rất lớn. Trong khi đó đồ gốm dần
thâm nhập vào đời sống hàng ngày của người dân, nó đã sớm trở thành đồ dùng
gia dụng của nhân dân. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, những bất ổn về xã hội và
chính trị đã tác động đến gốm trắng, làm mất đi đặc tính chân thực của nó. Hơn

thế nữa, bunwon dần suy sụp do công nghệ mới từ Nhật Bản du nhập. Choson bị
sáp nhập vào Nhật Bản năm 1910, gốm trắng đã bị chuyển theo kiểu cách của
Nhật Bản, đã mất đi bản chất, vẻ đẹp của nó và dần tan biến trong lịch sử.
3. 3. VẺ ĐẸP MỸ THUẬT DÒNG GỐM TRẮNG CHOSON
Việc ra đời và phát triển của gốm trắng Choson đưa đến việc tạo ra chất
lượng mỹ thuật của nó. Điều này cũng đúng cho hầu hết đồ gốm nói chung, trong
đó có gốm trắng Choson, bởi vì nó phản ánh trìu tượng các giá trị thẩm mỹ trong
các thời đại.
Một phương pháp khác để xác định chất lượng thẩm mỹ gốm trắng
Choson là so sánh chúng với dòng gốm các nước láng giềng, với Trung Quốc và
Nhật Bản. Đây là các quốc gia đứng đầu trong lịch sử gốm quốc tế, trong khi sự
tương tác và ảnh hưởng của nó đã xây dựng truyền thống gốm đặc trưng của
chúng. Do đó, việc phân tích đồ gốm của 3 nước này sẽ đóng góp vào sự hiểu
biết hơn các đặc trưng mỹ thuật của gốm trắng Choson.
23
Để hiểu được đặc trưng gốm trắng Choson, trước hết chúng ta xem xét dặc
tính chung so sánh với dòng gốm các nước khác, và xem xét đặc tính gốm trắng
Choson qua từng thời kỳ.
Các nhà phê bình Nhật Bản đầu thế kỷ 20 đã đánh giá cao gốm trắng Choson là
chúng không phải được “làm” ra mà được “sinh” ra. Đánh giá này nói lên gốm
trắng Choson đã trình diễn sự tự do không bị tác động của nghệ sĩ khi so sánh với
dòng gốm Trung Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, trong khi dòng gốm Trung
Quốc trình bày sự hoàn hảo và rực rỡ về mặt kỹ thuật và dòng gốm Nhật Bản
trình bày một vẻ đẹp vô song với những chi tiết họa tiết, trang trí cầu kỳ thì gốm
trắng Choson chuyển tải cho chúng ta một vẻ đẹp tự nhiên bẩm sinh, vượt qua cả
cả các khái quát về trang trí, cứng nhắc và kiểu cách. Gốm trắng với lớp nền
tráng men màu xanh thường được trang trí bằng các kiểu mẫu của Sagunja (bốn
loại cây tượng trưng cho tiết hạnh được ưu chuộng vì là biểu tượng của nghệ
thuật truyền thống), ngoài ra có hoa mận, phong lan, hoa cúc, cây tre và hoa sen,
các kiểu dáng kỳ lạ và cỏ thu. Với vẻ đẹp dân dã tự nhiên, rất bắt mắt này, gốm

trắng Choson truyền cho ta một sức sống và sự yên bình, thư giãn từ thiên nhiên.
Đây là đặc tính ẩn chứa trong mọi dòng gốm Choson. Khi ta nhìn vào các dòng
24
gốm khác trên thế giới đặc biệt các dòng gốm có nước men chất lượng cao, đã
được tiêu chuẩn hóa và phân loại, ta thấy có sự tác động về mặt trang trí và kỹ
thuật. Nhưng dòng gốm Choson đã phơi bầy một tác động khác. Đấy là một sự
tác động “êm dịu”. Các họa tiết, trang trí trình bày theo một phong cách riêng,
một sự hài hòa sống động với hình dáng, nội dung. Do vậy, mỗi một đồ gốm
Choson dường như được tạo ra một cách riêng biệt, không giống như các dòng
gốm khác trên thế giới thể hiện các đặc tính sản xuất hàng loạt.
Chất lượng đồ gốm Choson dường như mang một đặc tính nội tâm bẩm
sinh, phản ánh một góc cạnh đặc tính của người dân Triều Tiên. Chúng ta ghi
nhận mỹ thuật của đồ gốm Choson khác với mỹ thuật của đồ gốm Goryeo. Khái
niệm ẩn giấu trong mỹ thuật đồ gốm Choson bắt nguồn từ cột rễ đạo Khổng Tử.
Là động lực chủ đạo tư tưởng chính trong 500 năm triều đại Choson, đạo Khổng
Tử nhấn mạnh tình bằng hữu, sự trung thành, niền tin, đa dạng, trật tự và niềm tự
hào, trong đó nhấn mạnh vào lòng tin và hiện đại.
4. TIỂU KẾT
Có thể thấy văn hóa gốm phản ánh rõ nét lối sống, lối tư duy của con
người cũng như những biến động của xã hội Triều Tiên qua các thời đại.
Các sản phẩm gốm đa dạng về kiểu dáng, độc đáo về màu sắc với các họa
tiết trang trí, đã thể hiện được trí tưởng tượng phong phú, óc sáng tạo và
bàn tay khéo léo của những người thợ gốm. Đồng thời thể hiện tình yêu
quê hương, đất nước, tình yêu nghề và khát vọng vươn lên làm chủ cuộc
sống được gửi gắm qua từng sản phẩm. Bên cạnh đó, những sản phẩm
gốm sứ thời kỳ Goryeo và Choseon đã nói lên sự phát triển rực rỡ của hội
họa và điêu khắc thời bấy giờ.
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA GỐM CÙNG
THỜI Ở VIỆT NAM
25

Cũng như đồ gốm của Triều Tiên, đồ gốm Việt Nam có quá trình ra đời và
phát triển gắn liền cùng lịch sử dân tộc. Đặc biệt thời đại Lý – Trần là giai đoạn
phát triển rực rỡ của gốm sứ nước ta. Và sau nền mỹ thuật gốm rực rỡ thời kỳ
này, cuối thế kỉ 14 ở Việt Nam phát triển một loạt sản phẩm gốm nổi tiếng của
Phù Lãng, Bát Tràng, Chu Đậu có thể sánh ngang cùng gốm sứ Goryeo (thế kỷ
XI đến thế kỷ XIV) và gốm sứ Choseon (thế kỷ XV đến thế kỷ XIX).
1.ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA GỐM THỜI LÝ – TRẦN (THẾ KỈ 11 –
THẾ KỈ 14)
Sau khi Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, nhà Đinh, nhà Tiền Lê bắt
đầu xây dựng đất nước, nhưng phải đến đời nhà Lý, văn hóa Việt Nam mới phát
triển rực rỡ. Đời Lý, Trần là giai đoạn thăng hoa cua đồ gốm Việt Nam.
Suốt bốn thế kỷ, từ nhà Lý đến nhà Trần, đồ gốm đạt được nhiều thành
tựu về quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất liệu Gốm men trắng Lý có
độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ.
Nhiều loại men, đặc biệt là men trắng xuất hiện ở thời kì này ngoài men tro và
men đất. Sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao đã tạo nên những
dòng gốm khác nhau, 4 dòng gốm tiêu biểu là gốm men ngọc, gốm trắng, gốm
men nâu và gốm men lục.
Gốm men ngọc (hay còn gọi là celadon) là dòng gốm bị ảnh hưởng của
Phật Giáo xen kẽ với ảnh hưởng của đồ men ngọc đời Tống ( Trung Quốc). Gốm
có màu xanh ngọc sắc đậm, xương gốm trắng đục và đanh mịn. Hoa văn trên
gốm thường được thấy như hoa sen, hoa cúc.
Trong nghệ thuật Lưỡng Hà và Ai Cập, hoa sen biểu trưng cho vũ trụ.
Nhưng vượt lên tất cả các tôn giáo khác, hoa sen có ý nghĩa lớn lao đối với đạo
Phật. Bởi hoa sen có những đức tính cao quý, gần gũi với triết lý của đạo Phật.

×