Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng seabank chi nhánh kim liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.49 KB, 70 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thị trường, năng suất
lao động ngày càng cao đã tạo ra lượng hàng hóa vô cùng phong phú và đa dạng
làm cho đời sống của người dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh
thần. Ngoài những nhu cầu thiết yếu như: ăn, ở, mặc thì còn nhiều nhu cầu cao
cấp hơn là nhà lầu, xe hơi, du lịch, đi du học, Song, với mức thu nhập vào thời
buổi lạm phát ngày nay thì phần lớn người tiêu dùng không thể trang trải được đủ
nhu cầu cho nhưng vật dụng đắt tiền cùng với những dịch vụ cao cấp. Tất cả
những điều này đã tạo ra nhu cầu vay mượn để tiêu dùng trong dân cư nên đã
hình thành thị trường cho vay tiêu dùng đầy hấp dẫn cho các ngân hàng thương
mại. Đây là một kênh tín dụng không mới ở các nước phát triển trên thế giới
nhưng lại khá còn mới mẻ ở Việt Nam, người dân Việt Nam luôn có suy nghĩ
Ngân hàng là để phục vụ cho doanh nghiệp, là một kênh đầu tư tiền nhàn rỗi. Bởi
vậy mà thị trường cho vay tiêu dùng còn khá sơ khai và chưa có nhiều Ngân
hàng tham gia.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Chi nhánh Kim Liên Ngân hàng Seabank đã triển
khai loại hình cho vay tiêu dùng đối với khách hàng cá nhân và hộ gia đình với
phạm vi vẫn còn hẹp nên chưa đáp ứng đủ được nhu cầu của người dân và chưa
cạnh tranh được với Ngân hàng bạn. Xét những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “
Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Seabank Chi nhánh Kim Liên” làm
đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
1
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Khái niệm và những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại


Chúng ta biết rất nhiều quan niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại và ở
các nước có nền tài chính tự do hoá thì Ngân hàng thương mại được quan niệm là
một doanh nghiệp đặc biệt, tiến hành hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
nhằm mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Còn ở một số nước khác lại cho rằng Ngân
hàng thương mại là một tổ chức có hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận
tiền gửi dựa trên nguyên tắc hoàn trả, cho vay và chiết khấu. Tuy nhiên, để có
một quan niệm thật chính xác nhất về Ngân hàng thương mại thì nên dựa vào
những loại hình dịch vụ mà các Ngân hàng thương mại cung cấp, từ đó người ta
đưa ra quan niệm: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”.
Đúng vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính
quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò là người thủ quỹ của toàn xã hội.
Hàng triệu cá nhân, hàng triệu hộ gia đình, hàng triệu doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng là tổ chức
cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối
với chính phủ. Trong đó, đối với doanh nghiệp thì Ngân hàng thường cung cấp
các khoản tín dụng phục vụ cho nhu cầu mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây dựng
nhà máy và mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải
thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ thì họ thường sử dụng séc, uỷ
nhiệm chi, thẻ tín dụng và các tài khoản điện tử, Nên khi họ cần thông tin hay
lập kế hoạch tài chính thì họ thường đến Ngân hàng để nhận được sự tư vấn.
Vậy là, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế.
- Hoạt động chính của các Ngân hàng thương mại gồm: nghiệp vụ có (cung
cấp tín dụng), nghiệp vụ nợ (huy động vốn) và nghiệp vụ trung gian (dịch vụ
thanh toán, đại lý, tư vấn, ). Ba loại nghiệp vụ trên có mối liên hệ vô cùng mật
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113

2
Chuyên đề tốt nghiệp
thiết với nhau, chúng tương trợ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển để từ đó
tạo nên uy tín cho Ngân hàng.
- Từ hình thức sơ khai đầu tiên là Ngân hàng thợ vàng ở thế kỷ XV, đến nay
Ngân hàng thương mại đã trở thành Ngân hàng hiện đại với các chức năng và
dịch vụ đa dạng và được coi là bách hoá tài chính.
- Ngân hàng thương mại được tổ chức dưới các hình thức sau:
+ Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ, trong đó Ngân hàng bán buôn
chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài chính, Nhà
nước, các doanh nghiệp lớn, còn Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ yếu cung
cấp các dịch vụ trực tiếp cho hộ gia đình, các cá nhân, các doanh nghiệp nhỏ với
các khoản tín dụng nhỏ. Với xu hướng phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ
có bán buôn hoặc chỉ có bán lẻ mà chủ yếu là kết hợp chặt chẽ cả hai hình thức
này.
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại 100% vốn
nước ngoài, Ngân hàng thương mại liên doanh, Ngân hàng thương mại tư nhân,
ngân hàng thương mại cổ phần.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
- Hoạt động huy động vốn:
Các Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền
kinh tế luôn luôn có nhu cầu huy động vốn để duy trì hoạt động và phục vụ nhu
cầu phát triền. Nguồn vốn của Ngân hàng gồm có: vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn
chủ sử hữu và nguồn vốn uỷ thác đầu tư. Để thực hiện hoạt động này Ngân hàng
sẽ tiến hành nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam kết sẽ
hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo một khoản tiền gọi là tiền lãi. Việc huy
động được càng nhiều vốn sẽ càng tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc mở
rộng kinh doanh do đó các Ngân hàng luôn luôn tìm kiếm các nguồn vốn với chi
phí thấp và ổn định, đồng thời đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy
nợ nhằm huy động được nhiều vốn trong nền kinh tế.

- Hoạt động kinh doanh ngoại hối:
Đây là hoạt động mà Ngân hàng sẽ đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này
lấy một loại tiền khác để hưởng được lợi nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch
vụ. Hiện nay, hoạt động này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình thức dịch vụ
phong phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ (giao
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
3
Chuyên đề tốt nghiệp
ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai). Các Ngân hàng thương mại
tham gia giao dịch ngoại hối với hai mục đích: thứ nhất là Ngân hàng cung cấp
dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng
riêng lẻ và Ngân hàng thu một khoản phí. Mục đích thứ hai là Ngân hàng kinh
doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi có sự thay đổi của tỷ giá.
- Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động mà Ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn huy động được để
đầu tư hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng tài sản của Ngân hàng và cũng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho
Ngân hàng. Bên cạnh hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài
sản bằng cách đầu tư vào các giấy tờ có giá như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu
công ty, … Các hoạt động đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho
Ngân hàng nhưng lại tiềm tàng rất nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thường rất
thận trọng khi thực hiện hoạt động này.
- Các hoạt động khác:
Một số hoạt động Ngân hàng khác có thể kể ra ở đây như là: hoạt động bảo
quản vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý
ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn,
cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý, Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập
đáng kể cho Ngân hàng thông qua việc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Vì vậy, các

Ngân hàng hiện đại ngày nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng
nguồn thu và giảm bớt rủi ro.
1.2. Cho vay tiêu dùng và vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của cho vay ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm:
Cho vay là hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của
các Ngân hàng giúp Ngân hàng thực hiện việc chuyển các khoản tiết kiệm thành
đầu tư. Ngân hàng thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay trong thời
gian ngắn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản suất, kinh doanh, đời
sống và cũng có thể cho các tổ chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực
hiện các dự án đầu tư phát triển, sản suất kinh doanh.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Nhiều người vẫn có cho rằng hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng của
Ngân hàng là một nhưng thực ra không phải vậy. Tín dụng rộng hơn cho vay, bao
gồm cả hoạt động cho vay và các hoạt động khác như chiết khấu thương phiếu,
cho thuê tài chính, Có thể hiểu rằng: Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền
hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và
bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay sẽ
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Đối với hầu hết các Ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu nhập của Ngân hàng. Nhưng, rủi
ro trong các hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các
khoản cho vay. Vậy thực ra, Ngân hàng đã thực hiện những khoản cho vay nào?
1.2.1.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để Ngân hàng phân loại các khoản cho

vay như: theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng cho vay, theo
phương thức cho vay, theo mức độ tín nhiệm khách hàng, Cụ thể như:
- Theo đối tượng tham gia vào quy trình cho vay:
+ Cho vay trực tiếp: là loại hình cho vay mà Ngân hàng sẽ cấp vốn trực tiếp
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay sẽ phải trực tiếp hoàn trả nợ cho
Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Tổ chức trung gian ở đây có thể là các tổ, hội, đội nhóm như: nhóm sản suất, hội
nông dân, hội phụ nữ, hoặc các công ty bán lẻ. Đối với các công ty bán lẻ, Ngân
hàng sẽ đứng ra mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ phát sinh mà vẫn còn
trong thời hạn thanh toán.
- Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng:
+ Cho vay có bảo đảm: là loại hình cấp tín dụng dựa trên các bảo đảm như
thế chấp hay cầm cố, hoặc phải được ben thứ ba bảo lãnh. Đối với các khách
hàng không có độ uy tín cao đối với Ngân hàng thì khi vay vốn đòi hỏi phải có
đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ
hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất nếu bị thiếu.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
5
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Cho vay không có đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc có sự đảm bảo từ bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của chính bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng có uy tín, tốt,
trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu
quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng mà
không cần phải có bảo đảm.
- Theo mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay nhằm mục đích sản suất kinh doanh: Ngân hàng cho các tổ chức,
doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án

đầu tư, các phương án sản suất.
+ Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng sẽ cho các cá nhân hay hộ gia đình vay để
đáp ứng nhu cầu về mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như: nhà cửa, phương tiện
vận chuyển, và các nhu cầu khác,
Cho vay tiêu dùng là một trong những lĩnh vực dịch vụ mới phát triển gần
đây của Ngân hàng nhưng nó đã tỏ rõ được những ưu thế so với các khoản cho
vay khác của Ngân hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành xu
hướng tất yếu để các Ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường tài chính.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.2.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính hết
sức quan trọng giúp những người vay trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình
và xe cộ và các nhu cầu khác. Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục,
y tế và du lịch, cũng có thể được tài trợ bởi cho hoạt động vay tiêu dùng.
1.2.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
- Quy mô của từng khoản vay thường nhỏ, dẫn đến chi phí tổ chức cho vay
cao, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất của các loại
cho vay khác trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
- Nhu cầu về vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc nhiều vào chu
kỳ của kinh tế.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu hết là ít co dãn với lãi suất mà
thông thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà
họ phải chịu.
- Mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết

tới nhu cầu về vay tiêu dùng của khách hàng.
- Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc
vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những
người này.
- Độ chính xác từ các thông tin tài chính từ phía khách hàng vay thường
không cao.
- Tư cách của khách hàng vay là yếu tố khó xác định song lại rất quan
trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
1.2.3. Khái niệm về mở rộng cho vay tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, với bất
cứ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững và phát triển trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh thì đòi hỏi doanh nghiệp đó phải không ngừng mở rộng và cải
thiện chất lượng các sản phẩm dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu
cầu đặt ra của nền kinh tế.
Khi nói đến mở rộng, là ta nghĩ đến ngay việc làm thế nào để tăng quy mô,
khối lượng và cả số lượng tức là nói đến sự tăng trưởng theo chiều ngang. Vì vậy,
ta có thể hiểu mở rộng cho vay tiêu dùng là sự đáp ứng được các yêu cầu ngày
càng gia tăng của khách hàng về quy mô cho vay tiêu dùng hay nói cách khác đó
là việc làm tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng tài sản có của các Ngân
hàng thương mại.
Mở rộng cho vay tiêu dùng được thể hiện:
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Cho vay tiêu dùng phải đáp ứng được
các yêu cầu về vốn của nền kinh tế, đồng thời cũng là kênh dẫn vốn gián tiếp hữu
hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn
các nguồn lực tài chính giúp cho Ngân sách Nhà nước thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Đối với khách hàng: cho vay tiêu dùng phải thoả mãn được tối đa các nhu
cầu hợp lý của các khách hàng về vay tiêu dùng, đa dạng hoá các hình thức và
loại hình cho vay tiêu dùng.
SV: Nguyễn Thị Phượng

MSV: CQ502113
7
Chuyên đề tốt nghiệp
- Đối với Ngân hàng thương mại: Cho vay tiêu dùng phải chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn bộ hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Vậy, ta có thể rút ra những kết luận sau:
Mở rộng cho vay tiêu dùng phản ánh khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng
gia tăng về vốn cho nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lý và hoàn toàn phù hợp với
tốc độ phát triển của xã hội trong từng thời kì, qua đó nó cho thấy sự tăng trưởng
và phát triển của cho vay tiêu dùng nói riêng và của Ngân hàng nói chung.
Mở rộng cho vay tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như :
trình độ của cán bộ, khả năng quản lý, nguồn vốn Ngân hàng và các nhân tố
khách quan như: sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế chính sách của Nhà nước,
tốc độ phát triển của nền kinh tế cũng như sự thay đổi cơ cấu đầu tư.
Mở rộng cho vay tiêu dùng được thực hiện dựa trên cơ sở việc thực hiện đa
dạng hoá nguồn khách hàng và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng.
Việc xây dựng các mức lãi suất hợp lý cũng như xác định các kỳ hạn nợ phù hợp
với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng đi đôi với việc cung cấp các loại
hình bảo lãnh thích hợp cũng góp phần vào việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
Mở rộng cho vay tiêu dùng là một khái niệm cụ thể, dễ hiểu tuy nhiên, để
thực hiện được tốt thì đòi hỏi chúng ta phải đánh giá một cách đầy đủ và chính
xác về nó và đặt nó trong mối quan hệ tổng thể với các chỉ tiêu tài chính khác.
Quá trình phân tích và đánh giá mở rộng cho vay tiêu dùng hiện đại sẽ tạo điều
kiện để tìm hiểu chính xác các nguyên nhân tồn tại, các vướng mắc về mở rộng
cho vay tiêu dùng từ đó giúp Ngân hàng lựa chọn được các giải pháp thích hợp
để có thể thực hiện việc mở rộng cho vay tiêu dùng trong từng thời kỳ sao cho
phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế.
1.2.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.4.1. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thương mại
- Tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy góp phần nâng

cao thu nhập và phân tán rủi ro.
Vai trò của các Ngân hàng thương mại đối với xã hội ngày càng được
khẳng định hơn thông qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống Ngân
hàng nói chung và của Ngân hàng thương mại nói riêng. Nhưng, không vì thế mà
các Ngân hàng có thể thoát khỏi sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các tổ
chức hoạt động trong các lĩnh vực tiền tệ khác. Ngày càng có nhiều tổ chức
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
8
Chuyên đề tốt nghiệp
muốn cung cấp các dịch vụ mà Ngân hàng đã và đang cung cấp. Và ngay cả giữa
các Ngân hàng thương mại với nhau đã tồn tại sự cạnh tranh, giành giật thị
trường và khách hàng ngày càng khốc liệt hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại và
phát triển các Ngân hàng phải không ngừng đổi mới, tìm tòi và đưa ra những
dịch vụ mới mà ngày càng có nhiều tiện ích cho các khách hàng và từ đó sẽ nâng
cao thu nhập cho chính Ngân hàng. Thực tế đã chứng minh rằng, có những Ngân
hàng thương mại lớn trên thế giới đã thu về nhiều khoản lợi nhuận kếch xù từ
việc cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, nếu xét riêng từng khoản
cho vay tiêu dùng thì ta thấy rằng cho vay tiêu dùng sẽ phải đối mặt với những
rủi ro lớn. Nhưng, vì mỗi khoản cho vay tiêu dùng có giá trị tương đối nhỏ, đặc
biệt lại có nhiều sản phẩm cho vay tiêu dùng nên xét trên toàn cục của các khoản
cho vay tiêu dùng thì rủi ro cũng không còn phải là một vấn đề lớn. Trên thực tế,
các khoản cho vay tiêu dùng thường có lợi nhuận cao hơn do mức lãi suất tính
trên các khoản cho vay tiêu dùng thường cao. Vì vậy, các Ngân hàng thương mại
cũng có thể kỳ vọng tăng lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng.
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó sẽ làm tăng khả năng huy
động các loại tiền gửi cho Ngân hàng.
Thị trường cho vay tiêu dùng là một lĩnh vực vô cung mới mẻ, chỉ đến sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, hoạt động cho vay tiêu dùng mới được phát triển
rộng rãi và lớn mạnh.

Hoạt động này giúp Ngân hàng mở rộng sự quan hệ với khách hàng, từ đó
giúp cho Ngân hàng có những thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt
là huy động vốn từ dân cư. Hơn nữa, tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên
các Ngân hàng có thể thông qua các khoản cho vay tiêu dùng mà quảng cáo về
mình, từ đó thu hút các khách hàng đến với các dịch vụ khác nữa của Ngân hàng.
Trong khi đó các khoản cho vay tiêu dùng tuy là những khoản cho vay nhỏ
nhưng nhu cầu về chúng lại vô cùng lớn nên nếu khai thác được thị trường này
thì các Ngân hàng thương mại có thể sử dụng được một số lượng vốn vô cùng
lớn. Hơn nữa, nguồn dân cư cũng chính là nguồn khách hàng tiềm năng lớn của
Ngân hàng, Ngân hàng muốn phát triển bền vững thì nên dựa vào đối tượng
khách hàng này.
Trong khi cấp các khoản cho vay tiêu dùng thì các Ngân hàng cũng góp
phần đẩy mạnh tiêu dùng, từ đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và các ngân
hàng có thêm những khoản cho vay mới phục vụ cho các nhà sản xuất. Sản xuất
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
9
Chuyên đề tốt nghiệp
phát triển lại cung cấp ra thị trường những sản phẩm mới làm nảy sinh thêm nhu
cầu tiêu dùng. Quá trình này được lặp đi lặp lại nhiều lần, không ngừng làm cho
thị trường tiêu dùng ngày càng phát triển.
1.2.4.2. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay tiêu dùng cũng chính là
người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những
khoản cho vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị
cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài
chính hiện tại của họ chưa cho phép.
Trên thực tế, ta thấy rằng có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, vô cùng
thiết yếu, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc sống đối với mỗi cá nhân và

hộ gia đình. Những nhu cầu này không sớm thì muộn thì người tiêu dùng cũng
phải thoả mãn, ví dụ như nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ
dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm các phương tiện như xe máy, ô tô, du lịch, học
hành,
Tuy rằng, đó là những nhu cầu thật sự thiết yếu nhưng của cải thì được tích
luỹ theo thời gian, do vậy mà khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy, mà
làm nảy sinh sự thật là người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt khi
đã lớn tuổi, khi đã tích lũy đầyđủ tiền. Khi lợi ích cảm thụ được từ sự hưởng thì
sẽ có xu hướng giảm xuống. Do đó, người tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp
khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu là yếu tố về thời gian và khả năng thanh
toán của hiện tại và tương lai. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách
để hưởng thụ trước số tiền mình sẽ có trong tương lai. Nếu phân tích theo khía
cạnh tài chính, việc tiêu dùng trước bằng cách vay mượn tiền của Ngân hàng sẽ
khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền ta sẽ có
tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính những nguyên nhân trên, việc Ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt
động cho vay tiêu dùng sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích thiết thực
nhất. Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng trực
tiếp và đồng nhất những lợi ích do hình thức cho vay tiêu dùng mang lại.
1.2.4.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay tiêu dùng đã đóng góp vào việc khơi thông luồng chuyển dịch hàng
hoá. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu dùng thì tất
yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hoá không tiêu thụ được sẽ dẫn tới việc doanh nghiệp bị
ứ đọng vốn và tất nhiên là quá trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò của ngân
hàng lúc này sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu
dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ đủ thời gian để

tích luỹ đủ số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua
hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa sau đó mới có khả năng thanh toán
nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Khi đã tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở
rộng việc sản xuất và sẽ tìm tới Ngân hàng để tiếp tục vay vốn. Như vậy, Ngân
hàng cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho cả ba bên: người tiêu dùng, doanh nghiệp và
Ngân hàng hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế. Tóm lại, cho vay tiêu dùng được
dùng để tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó sẽ có tác
dụng rất thiêt thực cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Song, nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được dùng như vậy thì chẳng
những không kích được cầu mà nhiều khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong
nước.
1.2.5. Các loại hình cho vay tiêu dùng
1.2.5.1. Căn cứ vào mục đích cho vay
Cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại:
Một: Cho vay tiêu dùng cư trú (Residential Mortage Loan): Cho vay tiêu
dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng
hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
Hai: Cho vay tiêu dùng không cư trú (Nonresidential Mortage Loan): Cho
vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí
mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch
1.2.5.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
- Cho vay tiêu dùng trả góp:
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm cả số
tiền gốc lẫn lãi) cho Ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay mà có
giá trị lớn hoặc thu nhập theo từng định kì của người đi vay không đủ khả năng
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
11
Chuyên đề tốt nghiệp

thanh toán hết số nợ vay trong một lần. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các
Ngân hàng thường phải chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau:
+ Thứ nhất: Loại tài sản được tài trợ.
Thông thường, thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn một khi tài sản
hình thành từ tiền vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong
tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, Ngân hàng thường chú ý đến điều này
vì Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có
thời hạn sử dụng lâu dài hoặc có giá trị lớn. Bởi vì có như vậy thì người tiêu
dùng mới được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoản thời
gian đủ lâu, dài.
+ Thứ hai: Số tiền phải trả trước.
Nói chung thì các Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán
một phần giá trị tài sản cần mua sắm trước - gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại,
Ngân hàng sẽ cho vay, số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm cho
người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt khác lại có tác dụng
hạn chế phần nào rủi ro cho Ngân hàng. Một khi người vay không cảm nhận
được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản được hình thành từ tiền vay thì người đi
vay sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không
trả nợ, trong nhiều trường hợp, Ngân hàng sẽ đành phải tiếp nhận và phát mại tài
sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng thì đều bị giảm giá trị, tức
là giá thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả
trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
• Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả
trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền
trả trước ít.
• Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
• Môi trường kinh tế.
• Năng lực tài chính của những người đi vay
+ Thứ ba: Chi phí của khoản vay.

Chi phí của khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng
về việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay cộng với các chi phí
khác có liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
12
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận thoả
đáng cho chính Ngân hàng.
+ Thứ tư: Điều khoản thanh toán.
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng thì Ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
• Số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn phải phù hợp với khả năng về thu nhập
trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của các khách hàng.
• Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay mà chưa
được thu hồi.
• Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng
• Thời hạn cho vay không nên quá lâu, thời hạn cho vay bị giới hạn bởi
thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Và nếu thời hạn cho vay quá dài sẽ dễ làm
cho giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh đồng thời rủi ro cho vay cũng tăng lên.
Hơn thế nữa, khi thời hạn cho vay quá dài thì thiện chí trả nợ của những người đi
vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
+ Thứ năm: Số tiền khách hàng thanh toán cho Ngân hàng mỗi kỳ trả nợ.
Để xác định số tiền mà khách hàng phải thanh toán cho Ngân hàng trong
mỗi kỳ trả nợ, ta có thể áp dụng một trong các phương pháp sau đây:
• Phương pháp gộp (Add on Method): Đây là phương pháp thường hay
được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản và dễ hiểu
của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc
nhân với lãi suất và thời hạn cho vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho
số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn trả nợ.

• Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method): Theo phương pháp này,
vốn gốc người đi vay phải trả cho từng kỳ hạn trả nợ được tính đều nhau bằng
cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn phải thanh toán. Còn lãi phải trả
mỗi kỳ hạn đều được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu Ngân hàng.
+ Thứ sáu: Vấn đề phân bổ lãi vay theo thời gian
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các Ngân hàng thường tiến hành
phân bổ lại phần lãi cho vay mà đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện
theo định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán nợ hoặc cũng có thể được thực
hiện theo quý hay theo năm tài chính.
Ngân hàng thường áp dụng một số phương pháp như:
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
13
Chuyên đề tốt nghiệp
• Phương pháp đường thẳng, áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn.
• Phương pháp luỹ thoái, áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn.
+ Thứ bảy: Vấn đề trả nợ trước hạn
• Cho vay tiêu dùng phi trả góp.
Theo phương thức này thì tiền vay được khách hàng thanh toán cho Ngân
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì tín dụng tiêu dùng phi trả góp chỉ được
cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
• Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Đây là các khoản cho vay tiêu dùng mà trong đó Ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên các tài khoản
vãng lai. Theo phương thức này thì trong thời hạn cho vay được thoả thuận
trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng
được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần
hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
1.2.5.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Cho vay tiêu dùng gồm:

- Cho vay tiêu dùng gián tiếp (Indirect Consumer Loan)
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay mà trong đó ngân hàng
mua đứt các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa
hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
+ Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng
+ Cho phép Ngân hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
ngân hàng khác đặc biệt trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt
thì cho vay tiêu dùng gián tiếp sẽ được an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh một số ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp còn tồn tại một số
nhược điểm sau:
+ Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu,
thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng
hóa
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
14
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm nêu trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà
với cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt
động này thì đều phải có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct Consumer Loan)
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người đi
vay.
Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được những sở
trường của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn
và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định cho vay

trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng
được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán
lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng
chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên
của công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán sao cho được nhiều hàng. Bên
cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được cấp ra một
cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định quá
nhanh mà công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của
mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là độ linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng
gián tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng, có rất nhiều lợi thế
có thể nảy sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng
lẫn ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng
1.3.1. Các nhân tố bên trong ngân hàng
Việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ chịu tác động bởi các
nhân tố khách quan mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi các nhân tố chủ quan
xuất phát từ phía người tiêu dùng và từ phía Ngân hàng như: Chính sách và thể lệ
cho vay, thông tin cho vay, tình hình huy động vốn, chất lượng nhân sự, cơ sở
vật chất thiết bị của Ngân hàng và bản thân người tiêu dùng,
- Thứ nhất: Nhân tố chính sách tín dụng
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Chính sách tín dụng gồm: các yếu tố giới hạn về mức cho vay đối với khách
hàng, kỳ hạn của khoản cho vay, lãi suất cho vay, mức lệ phí, sự bảo đảm khả
năng thanh toán, hướng giải quyết phần tín dụng thấu chi, các khoản vay có vấn
đề, Nếu tất cả những yếu tố trên đều đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thì chắc chắn rằng Ngân hàng sẽ thành công

trong việc mở rộng hoạt động này. Ngược lại, nếu chính sách cho vay không đáp
ứng được những yêu cầu trên thì Ngân hàng sẽ không mở rộng quy mô cho vay
tiêu dùng được.
Đặc biệt là trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì
một chính sách cho vay hợp lý, một chính sách đa dạng lãi suất hoá phù hợp với
từng loại khách hàng, từng kỳ hạn cho vay sẽ thu hút được nhiều khách hàng và
thực hiện thành công việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
- Thứ hai: Quy trình cấp tín dụng
Quy trình cấp duyệt cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, các quy định của
Ngân hàng trong việc cấp tín dụng, gồm các bước cụ thể theo một trình tự nhất
định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ
cho vay.
Việc xây dựng một quy trình cấp duyệt cho vay hoàn thiện và hiệu quả có ý
nghĩa rất lớn trong công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, đồng thời nó còn
gây được cảm tình với khách hàng và thu hút được nhiều khách hàng hơn.
- Thứ ba: Về thông tin cho vay
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp
thời về khách hàng thì người đó sẽ chiến thắng trong việc cạnh tranh. Và trong
hoạt động cho vay, Ngân hàng cấp duyệt các khoản vay cho khách hàng dựa trên
nguyên tắc tin tưởng và sự hoàn trả. Sự tin tưởng ở đây phụ thuộc vào thông tin
có được. Do vậy, để hoạt động tín dụng tiêu dùng ngày càng được mở rộng với
chất lượng cao, hiệu quả lớn thì Ngân hàng phải nắm bắt được thông tin một cách
kịp thời, chính xác về khách hàng vay vốn như:
+ Các thông tin phi tài chính, gồm có: tư cách, uy tín, năng lực quản lý,
năng lực sản xuất kinh doanh và cả các mối quan hệ xã hội.
+ Các thông tin gián tiếp bao gồm: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu
hướng phát triển cũng như khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
16

Chuyên đề tốt nghiệp
+ Các thông tin tài chính của khách hàng: khả năng về tài chính của khách
hàng, thu nhập hiện tại, khả năng trả nợ và bảo đảm khoản vay.
- Thứ tư: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng
Do Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế hoạt
động theo phương thức“ nhận tiền gửi để cho vay”. Bởi vậy, nếu nguồn vốn của
Ngân hàng được huy động ngày càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho
hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển.
- Thứ năm: Về chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị tại Ngân hàng
Phải khẳng định rằng: việc mở rộng cho vay tiêu dùng có thành công hay
không phụ thuộc rất lớn vào trình độ cán bộ công nhân viên và cơ sở vất chất,
trang thiết bị của Ngân hàng. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ Ngân hàng
chính là hình ảnh của Ngân hàng. Nếu như trong quá trình giao tiếp với cán bộ
Ngân hàng mà họ cảm thấy an tâm về trình độ nghiệp vụ của các cán bộ, an toàn
khi quan hệ với Ngân hàng thì chắc chắn khách hàng sẽ tự tìm đến đó. Đồng thời,
việc Ngân hàng trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và quy
mô hoạt động, phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng thì sẽ giúp cho Ngân
hàng có khả năng cạnh tranh và thực hiện việc mở rộng tín dụng tiêu dùng.
- Thứ sáu: Tình trạng của người tiêu dùng
Mỗi người dân là một người tiêu dùng và trong cuộc đời họ ít nhất phải có
một lần mua sắm những hàng hoá có giá trị lớn như: mua nhà, mua xe, Và khi
khả năng tài chính hiện tại của họ không đáp ứng đủ được các dự định tiêu dùng
thì họ sẽ đến Ngân hàng đặt quan hệ cho vay. Nhưng không phải người tiêu dùng
nào cũng được Ngân hàng chấp nhận cho vay mà Ngân hàng phải xem xét tới
những lần trả nợ trước, tình hình thu nhập có ổn định hay không. Nếu những
người đến Ngân hàng đều không có đủ năng lực tài chính thì cơ hội mở rộng cho
vay tiêu dùng chỉ là mục tiêu chứ không thực hiện được.
Sau khi tìm hiểu về người tiêu dùng và về cho vay tiêu dùng thì ta thấy rằng
vấn đề đáp ứng được đủ vốn cho người tiêu dùng trong xã hội là vấn đề mà cả hệ
thống Ngân hàng và các cơ quan quản lý nhà nước cần phải quan tâm bởi vì nếu

lĩnh vực này được phát triển nó sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ đến sự phồn thịnh
của cả nền kinh tế.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Nhóm nhân tố này thường bao gồm: tình trạng của nền kinh tế, hệ thống
pháp lý và cả tình hình xã hội. Có thể nói nhóm nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động tiêu dùng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Cụ
thể là:
- Nhân tố tình trạng của nền kinh tế:
Chúng ta đều đã biết rằng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dịch vụ của dân cư
phụ thuộc rất lớn vào tình trạng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở trong giai
đoạn hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức sống của dân cư ngày
một phát triển đi lên thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng, chính vì vậy mà họ sẽ tin
tưởng vào thu nhập của mình trong tương lai có thể chi trả được các khoản nợ để
phục vụ mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó mà cho vay tiêu dùng
của Ngân hàng thời kỳ này sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng suy thoái, thiểu phát, không ổn định thì nhu cầu chi tiêu sẽ giảm do lúc này
dân cư có xu hướng tích luỹ hơn là tiêu dùng, bởi vậy tín dụng tiêu dùng thời kỳ
này sẽ giảm xuống.
- Nhân tố xã hội: Nhân tố xã hội bao gồm: quan niệm xã hội, phong tục tập
quán, tình hình trật tự an ninh, trình độ dân trí, độ tin tưởng lẫn nhau, Các nhân
tố này ảnh hưởng trực tiếp tới các tác nhân tham gia vào quan hệ tín dụng tiêu
dùng nói riêng và các tín dụng khác của Ngân hàng nói chung. Do quan hệ tín
dụng được hình thành dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau nên nếu khách hàng nào
có uy tín với Ngân hàng, có thu nhập ổn định, có trình độ cao thì sẽ được hưởng
nhiều ưu đãi trong mối quan hệ này. Đồng thời, nếu một Ngân hàng hoạt động an
toàn và hiệu quả, tạo được lòng tin trong dân chúng thì sẽ có nhiều sự lựa chọn

của khách hàng hơn.
Mặt khác, nhân tố quan niệm xã hội, phong tục tập quán, trình độ dân trí,…
cũng ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến cả nhu cầu và thói quen mua sắm của người
dân từ đó cũng tác động đến tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng.
- Nhân tố pháp lý:
Mỗi một chủ thể trong xã hội đều có quyền tự do làm theo sở thích của
mình, việc họ muốn làm gì, muốn mua gì là phụ thuộc vào chính bản thân họ
nhưng phải trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Do đó, trong quan hệ cho
vay với Ngân hàng cũng vậy, mỗi người đều có quyền vay bất cứ lúc nào họ có
nhu cầu nhưng phải tuân thủ theo mọi quy định của Ngân hàng Nhà nước. Vì
vậy, nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, rành mạch, không đồng
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
18
Chuyên đề tốt nghiệp
bộ, không ổn định, không kịp thời và có nhiều“ kẽ hở” thì sẽ gây ra rất nhiều khó
khăn cho Ngân hàng thương mại trong mọi hoạt động cho vay. Tuy nhiên, nếu
những văn bản pháp luật quy định rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ, kịp thời và ổn định
thì sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vô cùng vững chắc, góp phần vào sự cạnh
tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay. Và đó
cũng là cơ sở pháp lý để Ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có bất kì
tranh chấp nào xảy ra trong hoạt động cho vay.
Ngoài ra, chính sách của Nhà nước cũng là một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến
hoạt động cho vay tiêu dùng. Thứ nhất là các chính sách của Nhà nước nhằm
khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với mục tiêu phát triển
kinh tế, tăng GDP, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động. Thứ
hai là các chính sách của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Hai chính sách này
đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113

19
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI
NHÁNH KIM LIÊN NGÂN HÀNG SEABANK
2.1. Tổng quan về chi nhánh
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Kim Liên Ngân hàng
Seabank
Chi nhánh Kim Liên Ngân hàng Seabank được thành lập và bắt đầu đi vào
hoạt động ngày 04/05/2007. Chi nhánh có địa chỉ tại số 436 Xã Đàn, Đống Đa,
Hà Nội, với số lượng cán bộ nhân viên ban đầu là 20 người.
Việc thành lập Chi nhánh Kim Liên Ngân hàng Seabank là hoàn toàn phù
hợp với tiến trình cơ cấu lại, gắn với quá trình đổi mới toàn diện nhằm mục tiêu
Ngân hàng phát triển bền vững đồng thời đảm bảo nhịp độ tăng trưởng hợp lý.
Sau 5 năm kể từ ngày thành lập, số lượng cán bộ nhân viên đã tăng lên 60
người, hệ thống phòng ban, bộ phận nhìn chung đã đầy đủ gồm Ban Giám Đốc,
phòng kế toán ngân quỹ, phòng khách hàng và thẩm định, phòng hỗ trợ và hạch
toán tín dụng, phòng thanh toán quốc tế, phòng hành chính nhân sự, bộ phận bảo
vệ và bộ phận tạp vụ.
Hệ thống khách hàng của Chi nhánh: không ngừng được mở rộng cả đối
tượng khách hàng tiền gửi và khách hàng có quan hệ tín dụng với số lượng khách
hàng vay vốn ban đầu chỉ gồm 14 khách (trong đó có 07 khách hàng doanh
nghiệp và 07 khách hàng cá nhân), nay đã tăng lên trên 160 khách hàng (trong đó
có 60 khách hàng doanh nghiệp và 100 khách hàng cá nhân) với ngành nghề kinh
doanh rất đa dạng như kinh doanh sắt, thép inox, đồng, nhôm, chè, thiết bị điện
tử, số lượng khách hàng tiền gửi và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng cũng
tăng trưởng không ngừng. Tổng số lượng khách hàng có quan hệ giao dịch tại Chi
nhánh đạt trên 1000 khách. Số dư huy động và cho vay đã không ngừng tăng lên.
 Về vị trí địa lý:
Seabank CN Kim Liên nằm trên đường Kim Liên mới thuộc địa bàn

Quận Đống Đa. Tại đây có mật độ dân cư khá đông, xe cộ đi lại khá sầm uất, gần
đường Khâm Thiên và Đê La Thành nhưng mật độ các doanh nghiệp lớn không
nhiều. Ngoài ra, Kim Liên mới là tuyến đường mới mở nên có ít ngân hàng trên
trục đường này nên đây cũng là điểm mạnh của chi nhánh,
Do vậy, nếu chỉ dựa trên yếu tố khách quan thì vị trí của Seabank CN Kim
Liên chỉ thuận tiện cho việc phát triển tín dụng tiểu thương (lĩnh vực này không
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
20
Chuyên đề tốt nghiệp
phải là thế mạnh của Seabank), cho vay hộ cá thể và thu hút tiền gửi cư dân nhỏ
lẻ (trên dưới 10 triệu đồng).
Với khối lượng khách hàng như hiện nay thì phần lớn đều dựa vào nỗ lực
của toàn thể đội ngũ nhân viên, phương thức quản lý đúng đắn và định hướng
phát triển rõ ràng của Ban Lãnh đạo Seabank CN Kim Liên.
 Về nguồn nhân lực:
- Trẻ, nhiệt tình nhưng trình độ chuyên môn vẫn còn hơi yếu.
- Kỹ năng sử lý vấn đề chưa chuyên nghiệp.
- Nguy cơ nhân viên “nhảy việc” là điều hoàn toàn có thể xảy ra bởi
chính sách đãi ngộ của Seabank chưa thực sự hấp dẫn, kịp thời, chưa tạo điều
kiện cho nhân viên phát huy hết khả năng nghề nghiệp quản lý công việc thì họ
sẽ trở thành nhân tố chủ chốt thúc đẩy sự phát triển của Seabank.
Có thể thấy Seabank Chi nhánh Kim Liên cũng như hệ thống Seabank nói
chung đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hiệu quả. Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì
và phát huy được sự phát triển này trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của WTO – Tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, với
dân số chiếm 90% tổng dân số toàn cầu, 95% GDP và kim ngạch xuất khẩu của
thế giới thì chúng ta còn rất nhiều việc phải làm cũng như có rất nhiều vấn đề cần
phải bàn tới, và phải đòi hỏi có sự thay đổi theo chiều hướng cải tiến.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh

Bảng 2.1. Thành tựu đạt được của Chi nhánh từ 2009 đến 2011.
Đơn vị tính: tỷ đồng, %.
STT Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Kết
quả
% so với
năm
trước
Kết
quả
% so với
năm
trước
Kết
quả
% so với
năm
trước
1 Tổng nguồn vốn huy động 302 +35,3 390 +29,1 472 +21
2 Tổng dư nợ 687 +20 809 +17,8 1.105 +36,6
3
Tỷ lệ nợ xấu (nhóm
3,4,5/tổng dư nợ)
0,33 +0,1 0,66 +0,33 0,5 -0,16
4 Quỹ thu nhập 6162 +27 9043 +47 9558 +6
5
Tỷ lệ thu nhập dịch vụ/
tổng thu nhập
0,9 -10 0,8 -12 1 +25

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2009, 2010, 2011).
2.1.2.1. Tình hình huy động vốn của Chi nhánh
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong những năm vừa qua, tổng nguồn vốn huy động được của Chi nhánh
liên tục tăng. Năm 2009 tăng so với năm 2008 là 35,3%; năm 2010 so với năm
2009 là 29,1%; Năm 2010 tăng so với 2009 là 21%. Năm 2006 tổng nguồn vốn
huy động đạt 472 tỷ đồng.
Trong năm 2011, mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt, ngân hàng nhà nước có
chính sách hạn chế tín dụng song tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2011 đạt:
472 tỷ đồng, tăng so với đầu năm 82 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng: 21%, trong đó:
+ Nguồn vốn nội tệ: đạt 250 tỷ đồng, so với đầu năm tăng: 67 tỷ đồng, tốc độ
tăng trưởng: 37%; đạt 101% và tăng 3,7 tỷ đồng so với kế hoạch.
+ Tiết kiệm gửi góp đạt: 19,456 tỷ đồng, so với đầu năm tăng 0,4 tỷ đồng, so
với kế hoạch đạt: 104,6%, tăng:0,4 tỷ đồng.
+ Nguồn vốn ngoại tệ: đạt số dư 9.644.000 USD, tăng so với đầu năm:
451.000 USD, tốc độ tăng trưởng: 59%; so với kế hoạch đạt 105,6%, tăng so với
kế hoạch: 65000 USD.
Tổng số khách hàng quan hệ tiền gửi: 11.590, tăng so với năm 2010 (10.940):
1.010 khách hàng. Trong đó, khách hàng gửi tiết kiệm: 11.476; khách hàng mở
tài khoản tiền gửi: 474.
Như vậy, dù có sự cạnh tranh, song tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng
Seabank Chi nhánh Kim Liên đã tăng trưởng khá mạnh so với đầu năm là 21%,
trong đó tiết kiệm nội tệ tăng trưởng 37%, tiết kiệm gửi góp tăng 4,1%, tiết kiệm
ngoại tệ tăng 59%, thể hiện sự hoạt động ổn định về huy động vốn của Ngân
hàng Seabank Chi nhánh Kim Liên. Có được sự tăng trưởng đó, Chi nhánh đã
phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp chỉ đạo thật sâu sát và phù hợp với thị
trường của Ngân hàng Seabank như: tăng cường quảng cáo trên truyền hình, đài

báo, đồng thời thực hiện có hiệu quả các đợt tiết kiệm dự thưởng, khuyến mãi, lãi
suất huy động vốn cả Việt Nam đồng và ngoại tệ luôn có tính cạnh tranh trên thị
trường, giao khoán chỉ tiêu huy động vốn cho từng cán bộ và từng đơn vị, phát
động thưởng thi đua, cán bộ công nhân viên Ngân hàng Seabank Chi nhánh Kim
Liên làm việc không kể giờ, nhiệt tình chu đáo, tận tụy với khách hàng, …
2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh
Ngoài khách hàng truyền thống là các hộ gia đình là chính, thì khách hàng
doanh nghiệp của chi nhánh cũng ngày càng tăng. Thủ tục cho vay vốn của Ngân
hàng cùng với điều kiện vay vốn ngày càng được cắt giảm chính là một điều kiện
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
22
Chuyên đề tốt nghiệp
để thu hút các thành phần khách hàng khác nhau đến với Ngân hàng. Dư nợ cho
vay đối với các doanh nghiệp ngày càng được cải thiện rõ ràng. Đây là một
nguồn thu lãi đáng kể cho Chi nhánh. Nhóm khách hàng này cũng đem đến cho
Chi nhánh một khoản thu từ phí dịch vụ thanh toán đáng kể.
Doanh số cho vay năm 2011 đạt: 1.897 tỷ đồng, bằng 136.6% so với năm
2010 (1.388 tỷ), năm 2010 đạt 1.388 tỷ bằng 117,8% so với năm 2009.
Bảng 2.2. Doanh số cho vay đối với các thành phần kinh tế từ 2009 đến 2011.
Đơn vị: Tỷ đồng
Doanh số cho
vay
Nợ trong tiêu
chuẩn
Tỷ lệ nợ xấu %
(Loại 3,4,5)
Năm 2009 1.178 1174 0,33
Năm 2010 1.388 1378 0,66
Năm 2011 1.897 1888 0,5

(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2009, 2010, 2011)
Dư nợ của Ngân hàng qua các năm đều tăng nhanh, nhưng kéo theo đó chênh
lệch giữa tổng dư nợ và nợ trong tiêu chuẩn cũng tăng lên về số tuyệt đối. Nhưng
về số tương đối thì có giảm sút. Điều này có nghĩa là các món vay của khách
hàng mà chi nhánh cho vay ngày càng có chất lượng tốt hơn, cần phát huy hơn
công tác cho vay để ngày càng có nhiều món vay có chất lượng và rút ngắn
khoảng cách chênh lệch đó cả về số tương đối và số tuyệt đối.
Dư nợ cho vay của các thành phần kinh tế đạt: 1.897 tỷ đồng, tăng so với đầu
năm (1.388 tỷ) 509 tỷ đồng, trong đó nợ trong tiêu chuẩn là 1888 tỷ đồng, chiếm
95% tổng dư nợ, tốc độ tăng so với đầu năm: 36.6%, năm 2009 nợ trong tiêu
chuẩn là 1174 tỷ đồng, chiếm 89%. Nợ trong tiêu chuẩn của Ngân hàng ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn hơn đã chứng tỏ việc sử dụng vốn của Ngân hàng ngày càng có
hiệu quả hơn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Nợ quá hạn năm 2009 là 3,9 tỷ đồng, chiếm 0,33% trong tổng dư nợ cả năm.
Năm 2010, nợ quá hạn là 9,1 tỷ đồng, chiếm 0,66% trong tổng dư nợ, tăng 5,2 tỷ
đồng, tăng 133% so với năm 2009, nguyên nhân là do việc kiểm tra chuyển loại
nợ của chi nhánh được tiến hành triệt để hơn. Những món nợ quá hạn của năm
trước được chuyển nợ đúng với quy định của Ngân hàng nhà nước. Nợ quá hạn
năm 2011 là 9,5 tỷ đồng, tỷ lệ 0,5% tổng dư nợ, tăng 4,4% so với năm 2010. Mức
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
23
Chuyên đề tốt nghiệp
tăng này không đáng kể nên chứng tỏ khách hàng của Ngân hàng sử dụng vốn vay
có hiệu quả hơn hay công tác thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng ngày càng hiệu
quả hơn. Nợ tồn đọng cũ cũng được Chi nhánh tổ chức thu hồi quyết liệt.
Tổng số khách hàng quan hệ tín dụng 6.060 (8.931), tăng so với năm 2009 là
257 khách hàng; trong đó số lượng doang nghiệp là 152.
2.2. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Kim Liên ngân hàng
Seabank

2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay tiêu dùng.
Cũng giống như tất cả các Ngân hàng và tổ chức tín dụng cung cấp các sản
phẩm tín dụng tiêu dùng, hoạt động cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Kim Liên
ngân hàng Seabank phải tuân theo các văn bản quy định của pháp luật và Ngân
hàng Nhà nước như:
- Luật các tổ chức tín dụng 2010.
- Văn bản số 34/ CVTD ngày 07/01/2000 của thống đốc NHNN về việc cho
vay không có tài sản đảm bảo đối với cán bộ công nhân viên và thu nợ từ tiền
lương, trợ cấp và khoản thu nhập khác.
- Nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 19/12/1999 của chính phủ về bảo đảm
tiền vay của tổ chức tín dụng.
- Quyết định 1627/ QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế
cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Nghị định số 85/2002/NĐ - CP ngày 25/10/2002 của chính phủ về sửa đổi
bổ sung nghị định 178/1999/NĐ - CP.
Ngoài ra cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Kim Liên Ngân hàng Seabank
còn phải tuân theo các quy định riêng của hệ thống Ngân hàng Seabank.
2.2.2. Điều kiện cho vay
Ngân hàng Seabank Chi nhánh Kim Liên thực hiện cho vay tiêu dùng đối
với tất cả các cá nhân, hộ gia đình thoả mãn các điều kiện sau:
- Cá nhân hoặc chủ hộ có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành
vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
- Mục đích sử dụng vốn vay hoàn toàn hợp pháp.
SV: Nguyễn Thị Phượng
MSV: CQ502113
24
Chuyên đề tốt nghiệp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn đã cam kết. Cụ thể là
đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 10% trong tổng
số vốn cam kết, đối với cho vay trung và dài hạn thì mức tối thiểu là 15%. Khách

hàng phải có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Không có nợ khó đòi hoặc quá hạn trên 6 tháng tại Chi nhánh Kim Liên
Ngân hàng Seabank cũng như các Chi nhánh Ngân hàng khác.
+ Thực hiện đúng các quy định về đảm bảo tiền vay.
2.2.3. Các hình thức cho vay tiêu dùng đang áp dụng
2.2.3.1. Giải ngân trực tiếp tiền vay cho khách hàng.
Theo phương thức nhận tiền vay này, nếu khách hàng đã được Ngân hàng
phê duyệt cho vay thì số tiền này khách hàng được nhận trực tiếp bằng tiền mặt
tại Ngân hàng theo số lần và thời gian phụ thuộc vào thoả thuận giữa khách hàng
và Ngân hàng.
Đến kỳ hạn trả nợ, người vay tiến hành trả bớt nợ (thường được trả theo
tháng) tiền lãi khi đó sẽ được tính trên tổng số dư còn lại của khoản vay (phương
thức hoàn trả này thường được áp dụng đối với những khoản vay trung và dài
hạn). Mặt khác, khách hàng cũng có thể hoàn trả một lần vào cuối thời hạn vay
tuỳ thuộc vào sự cho phép của Ngân hàng đối với khách hàng (phương thức hoàn
trả này thường được áp dụng đối với các món vay ngắn hạn).
2.2.3.2. Tiền vay được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Phương thức này được thực hiện khi khách hàng chưa có nhu cầu sử dụng
ngay số tiền vay do vậy mà Ngân hàng sẽ chuyển số tiền vay này vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng đó. Trong thời gian khoản tiền chưa được
sử dụng thì khách hàng sẽ được hưởng lãi đối với tiền gửi không có kỳ hạn. Còn
khi nào khách hàng có nhu cầu sử dụng thì khách hàng sẽ tự rút tiền ra từ tài
khoản của mình.
Phương thức hoàn trả của hình thức này cũng khá giống như phương thức
giải ngân trực tiếp.
2.2.3.3. Thấu chi.
Đây là hình thức cho vay mà Ngân hàng cho phép cá nhân rút tiền từ tài
khoản vãng lai của mình vượt qua số dư có đến một hạn mức đã được thoả thuận
với phương tiện chủ yếu là séc.
SV: Nguyễn Thị Phượng

MSV: CQ502113
25

×