Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Kỹ thuật nuôi bò sữa chất lượng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.21 KB, 24 trang )

NGUYỄN VĂN TUYẾN
GIÚP NHÀ NÔNG LÀM GIÀU
KỸ THUẬT NUÔI
BÒ SỮA
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
1 2
LỢI ÍCH TỪ VIỆC NUÔI BÒ SỮA
Mô hình nuôi bò sữa trong những năm qua đã
phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phương trên cả
nước, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo từ con bò
sữa, cũng không ít hộ gia đình đã khấm khá và làm
giàu từ đàn bò sữa của mình.
Để việc nuôi bò sữa đạt hiệu quả và cho năng
suất cao, đòi hỏi bà con phải nắm bắt được kỹ thuật
nuôi, chăm sóc và phòng trị bệnh. Những kiến thức
trình bày trong sách đã được chúng tôi sưu tầm và
nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu quý giá, sau đó
chắc lọc những kiến thức cần thiết rồi biên soạn
thành sách với mục đích là giúp bà con có thêm
kinh nghiệm trong việc nuôi và chăm sóc bò sữa.
Hy vọng quyển sách sẽ mang lại nhiều điều bổ
ích cho bà con nông dân.
BÀI 1
KỸ THUẬT NUÔI BÒ SỮA
A. CHỌN GIỐNG VÀ PHỐI GIỐNG
I. KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG
Trong chăn nuôi bò sữa, việc chọn đúng giống,
giống tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của từng
vùng là yếu tố chính quyết định tới năng suất sữa.
- Con giống quyết định 40% sản lượng sữa.
- Thức ăn quyết định 30% sản lượng sữa.


- Nuôi dưỡng chăm sóc quyết định 30% sản
lượng sữa.
Khi chọn bò giống, phải chọn những con không
bệnh tật, khỏe mạnh và cần căn cứ vào những tiêu
chuẩn sau:
1. Đặc điểm ngoại hình
Bò có ngoại hình cân đối. Bầu vú rộng, đều,
mềm, đầu thanh nhẹ, bốn chân chắc chắn.
2. Tầm vóc và khối lượng
- Đối với bò Hà Lan thuần 3-4 tuổi, P: 450-500 kg.
1 2
- Bò Hà-Việt 3-4 tuổi, P: 350-390 kg.
- Bò lai 3-4 tuổi, P: 280 - 320 kg.
Xác định thể trọng theo 2 công thức:
a. Công thức Kaxinlo:
P (kg) = Vòng ngực (m) x Dài thân chéo (m) x
87,5
b. Công thức D.W Jonson:
Vòng ngực x Dài thân chéo
P (kg) =
10.800
3. Di truyền
Giống bố mẹ tốt, sản lượng sữa cao, chu kỳ cho
sữa dài, khỏe mạnh.
4. Khả năng cho sữa
- Chu kỳ khai thác sữa:
+ Bò Hà - Việt : 270 - 300 ngày.
+ Bò lai: 240 - 170 ngày.
- Năng suất sữa trung bình :
+ Bò Hà - Việt : 08 - 10 kg/ngày.

+ Bò lai : 06 - 08 kg/ngày.
Ngoài ra điều kiện môi trường, khí hậu chuồng
nuôi, cách chăm sóc nuôi dưỡng và cách vắt sữa
cũng có ảnh hưởng đến thành phần và sản lượng sữa.

II. PHÁT HIỆN ĐỘNG DỤC VÀ PHỐI GIỐNG
1. Động dục của bò và thời điểm phối giống
- Thời gian động dục kéo dài 18-36 giờ, và sau khi
đẻ 20-30 ngày thì lên giống trở lại. Thời điểm lên
giống tốt nhất là vào lần động dục thứ 2 tức là 45-60
ngày sau khi đẻ (chu kỳ động dục 21 ngày). Đối với
bò có sản lượng sữa cao thì nên phối giống vào tháng
thứ 3 hoặc thứ 4 để kéo dài chu kỳ vắt sữa.
- Biểu hiện bò động dục: Bò ít ăn, giảm sữa,
thường nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác
nhảy (nếu con ở dưới đứng yên thì bản thân con đó
đang lên giống, nếu con ở dưới chạy thì con nhảy
lại là con lên giống, trừ trường hợp cả hai con đều
lên giống).
Biểu hiện cơ quan sinh dục: Âm hộ sưng đỏ,
chảy nước nhờn trong, lỏng sau đặc dần. Khi kiểm
1 2
tra bên trong thấy tử cung cứng hơn bình thường,
noãn sào to lên. Sau khi rụng trứng chỉ sống được 6-
10 giờ.
- Xác định thời điểm phối giống, thời gian rụng
trứng: 10-12 giờ sau khi kết thúc động dục còn tinh
trùng sống trong cơ quan sinh dục của bò cái 12-18
giờ. Vì vậy ta phải phối giống cho bò 2 lần để rào
trước, đón sau, tức là lúc bò chảy nước nhờn keo và

đục, âm hộ sưng và chuyển màu đỏ sẩm.
2. Phương pháp phối giống cho bò sữa
- Phối giống trực tiếp: Cho bò đực nhảy trực tiếp
nhưng ít lấy được giống tốt và hay bị lây truyền
bệnh đường sinh dục. Thông thường người ta chỉ sử
dụng phương pháp nầy đối với số bò tơ đã trưởng
thành có trọng lượng nhỏ hoặc bò khó phối.
- Phối giống nhân tạo: Dùng tinh đông viên hoặc
tinh lỏng đã chế sẳn đưa vào tử cung bò. Với phương
pháp phối giống nhân tạo chúng ta có thể chọn giống
theo đúng yêu cầu chăn nuôi phù hợp với giống bò
mẹ để cho ra đàn con có chất lượng tốt.
III. CHĂM SÓC VÀ ĐỞ ĐẺ CHO BÒ SỮA
Bò cái sắp đẻ tách khỏi đàn 15 ngày trước khi
đẻ, theo dõi thường xuyên để có thể can thiệp kịp
thời nếu có biến cố xảy ra.
Thông thường, người ta để bò đẻ tự nhiên, sau 2-
3 giờ bò chưa đẻ được mới phải can thiệp. Thời
gian mang thai của bò là 9 tháng 10 ngày, cũng có
nhiều trường hợp chênh lệch lên xuống 5-6 ngày.
1. Chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ
- Nước muối 10% hoặc thuốc tím 0,1%.
- Cồn Iod hoặc Cồn 750.
- Xà bông, rơm, cỏ khô v.v
- Thuốc thú y cần thiết khi phải can thiệp:
Oxytocin, Vitamin C, camphora.
2. Phương pháp đỡ đẻ
- Sát trùng tay bằng cồn, tắm rửa bò sạch sẽ nhất
là phần mông và âm hộ.
- Kiểm tra xem thuận hay nghịch (thai thuận đầu

và 2 chân trước hướng ra ngoài, mọi tư thế khác đều
gọi là thai nghịch, ta phải sữa lại tư thế thai hay
chuẩn bị để có thể can thiệp kịp thời).
Trước khi đẻ bọc ối vỡ, bò rặn và thai lọt ra
ngoài. Nếu bò mẹ yếu ta phải kéo thai (lợi dụng lúc
bò rặn mới kéo) hoặc kích thích cho bò rặn bằng
cách chích cho mỗi con khoảng 100 - 150 UI
Oxytocin (tùy trọng lượng cơ thể) chia 2-3 lần cách
nhau 30 phút, chú ý tuyệt đối không được chích quá
1 2
liều cho phép vì Oxytocin có thể làm bò rặn quá
mức dẫn đến bể tử cung.
Bê lọt lòng để bò mẹ liếm, nếu không phải dùng
khăn lau khô bóc móng cho bê đứng, rốn cắt cách
bụng 15 cm sát trùng bằng cồn Iod cho đến khi
khô. Bò đẻ xong nên cho uống nước hòa cám và
muối. Sau 1 - 2 giờ thì bê cứng cáp bắt đầu cho bê
bú sữa đầu.
Chuồng bò đẻ và chuồng bê phải luôn khô ráo
sạch sẽ.
3. Giai đoạn hậu sản
- Cho bò ăn thức ăn bồi dưỡng và thức ăn xanh non.
- Dùng bock rữa tử cung bò bằng nước sát trùng
khoảng 3-4 ngày đầu để ngừa viêm.
- Chế độ vắt sữa: Những ngày đầu bò mới đẻ
thường thường bầu vú còn cứng do đó lúc vắt sữa ta
phải lấy nước nóng chườm bầu vú cho mềm lại
đồng thời tăng cường xoa bóp bầu 3 - 4 lần/ngày
cho đến khi bầu vú bò mềm hẳn thì lúc đó sản
lượng sữa mới tăng dần lên được. Chế độ luyện vú

phải làm thường xuyên và liên tục trong thời gian
khoảng 10 ngày. Nếu sữa bò vắt ra có màu hồng thì
ta phải giảm bớt lượng thức ăn tinh.
B. CHẾ ĐỘ CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG
I. NUÔI DƯỠNG BÊ TỪ 1 NGÀY TUỔI ĐẾN
KHI TRƯỞNG THÀNH
1. Bê từ 0-7 ngày tuổi
Sữa mẹ trong 7 ngày đầu có nhiều Colostrum do
thành phần sữa có kháng thể và nồng độ dinh dưỡng
cao nên phải cho bê bú không được nhập chung vào
sữa hàng hóa. Đối với bò khai thác sữa, không được
cho bê bú trực tiếp mà phải vắt sữa ra xô rồi tập cho
bê uống tránh cho bò mẹ có phản xạ mút vú vì như
thế sẽ rất khó vắt sữa sau này.
- Cách cho bê uống sữa:
Nhúng ngón tay vào sữa rồi bỏ vào miệng bê
cho bê mút. Từ từ kéo dần ngón tay xuống xô sữa,
bê mút ngón tay sẽ mút luôn cả sữa vào miệng. Tập
khoảng 3-4 lần là bê quen sẽ tự động uống sữa trong
xô được. Khẩu phần sữa từ 5 - 6 kg/ngày tùy trọng
lượng bê sơ sinh.
2. Bê từ 8-120 ngày tuổi
Ngoài sữa làm thức ăn chính cần phải tập cho bê
ăn cỏ, cám để sớm phát triển dạ cỏ. Bê 4 tháng
chuẩn bị giai đoạn cai sữa phải bổ sung thêm đạm,
khoáng vi lượng và đa lượng vào khẩu phần.
1 2
Khẩu phần sữa:
- Bê 08 - 30 ngày tuổi : 6 kg.
- Bê 30 - 60 ngày tuổi : 4 kg.

- Bê 60 - 90 ngày tuổi : 2 kg.
- Bê 90 - 120 ngày tuổi : 1 kg.
Tùy điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng mà bà con
có thể thay từ từ một phần sữa bằng cháo bắp hay
tấm Nếu bê tiêu chảy phải cân đối lại khẩu phần
kịp thời.
3. Giai đoạn bê cai sữa đến tơ lở
Đây là giai đoạn chuyển tiếp rất quan trọng, tình
trạng kỹ thuật và bệnh tật, sự phát triển của cơ thể là
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi thành
thục và sản lượng sữa của bò sau này. Do đó việc
chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ ăn uống, tắm chải và
vận động phải thực hiện tốt và nghiêm ngặt.
Khẩu phần cho bò ở giai đoạn này bao gồm:
- Thức ăn tinh: cám hổn hợp (16 - 18% protein)
+ Từ 4 - 12 tháng tuổi: 0,6 - 0,8 kg/con/ngày.
+ Tơ lỡ: 1 - 1,2 kg/ngày.
- Thức ăn bổ sung bao gồm mật, muối, Urea,
những loại thức ăn nầy thường bổ sung vào mùa
nắng, cỏ khô không đủ dinh dưỡng cho bò bằng
cách hòa nước tưới vào cỏ.
Chú ý: Urê chỉ bổ sung cho đến 9 - 12 tháng với
lượng 15-20 gr/con chia 3 lần/ngày.
- Thức ăn thô: Cỏ, rơm cho ăn tự do.

II. NUÔI DƯỠNG BÒ VẮT SỮA
1. Yêu cầu: Cho sản lượng sữa cao, động dục sớm,
trạng thái sức khỏe tốt. Khẩu phần: Bao gồm khẩu
phần sản xuất và khẩu phần duy trì.
* Khẩu phần sản xuất

0,4 đơn vị thức ăn cho 01 kg sữa (1 đơn vị thức
ăn = 1 kg cám HH).
* Khẩu phần duy trì: 0,1 đơn vị thức ăn cho 100
kg thể trọng.
Trong thực tế chỉ cung cấp cám cho khẩu phần
sản xuất còn khẩu phần duy trì cung cấp bằng cỏ,
mật v.v
Thức ăn xanh cho ăn tự do (tương đương 10%
trọng lượng cơ thể).
1 2
Lượng nước cần 40 - 50 lít nước/con/ngày. Bò
có sản lượng sữa cao có thể cần tới 100 - 120 lít
nước trở lên. Mùa khô nên bổ sung thêm năng
lượng (rĩ mật) và đạm (Urea 60 - 80 gr/con/ngày
chia 3 lần).
2. Những quy định về vắt sữa
- Vắt đúng giờ, cố định người vắt.
- Giữ yên lặng nơi vắt sữa, không hút thuốc,
không gây cảm giác khó chịu đối với bò. Công nhân
vắt sữa phải rửa tay sạch sẽ, móng tay cắt ngắn, đeo
khẩu trang và không mắc bệnh truyền nhiễm.
- Chuồng trại và dụng cụ vắt sữa sạch sẽ, hợp vệ
sinh.
- Bò cao sản vắt trước, trung sản và thấp sản vắt
sau. Bò không bị viêm vú vắt trước, bò viêm vú vắt
sau. Trong 01 con bò có viêm vú, vú nào không
viêm vắt trước, vú viêm vắt sau. Sữa bò bị viêm vú
không được sử dụng.
- Sữa bò trong vòng 10-15 ngày đầu chứa nhiều
kháng thể và hàm lượng dinh dưỡng cao nên chỉ

cho bê uống không được nhập chung vào sữa hàng
hóa. Không sử dụng sữa lấy từ gia súc mới tiêm
kháng sinh trong vòng 24 giờ, gia súc chích vaccine
nhiệt thán trong vòng 15 ngày.
3. Quy trình vắt sữa
- Đưa bò vào vị trí vắt, cho bò ăn thức ăn tinh theo
khẩu phần.
- Cố định cổ, cột chân bò. Người vắt sữa phải ngồi
đúng tư thế vắt sữa (đứng bên phải bò, xô vắt sữa
phải đặt trước mặt).
Rửa vú bằng nước sạch, dùng khăn lau khô vắt
bỏ vài tia sữa đầu kiểm tra viêm vú bằng cách vắt
mỗi vú vài tia sữa vào miếng vải đen (nếu lợn cợn
là bị viêm).
* Xoa kích thích:
- Mục đích xoa kích thích là gây cảm giác dễ chịu,
kích thích sữa xuống và bò bình tỉnh cho vắt sữa.
- Cách làm: Ngón trỏ đến ngón út nắm giữa 2 bầu
vú bên trái, ngón cái làm chuyển động toàn thân bầu
vú trái. Sau đó hai nữa bàn tay chuyển sang bầu vú
phải, ở đây hai ngón cái nắm ở bầu vú bò và hai bàn
tay làm chuyển động tròn theo bầu vú gây kích
thích cho bò bình tỉnh đứng yên, sữa trên bể dồn
xuống 4 núm vú.
- Cách vắt: (vắt nắm 70 - 90 nắm/phút).
Trước hết ngón cái và ngón trỏ nắm và thích
chặt phần cơ vú để sữa không trở ngược lại bầu vú
được, sau đó lần lượt thích chặt các ngón 2, 3, 4 để
sữa chảy vào bầu vú, ngón út để cách bầu vú
1 2

khoảng 0,5 cm, khi sữa thoát ra khỏi núm vú, ngón
cái, ngón trỏ và ngón khác mới lần lượt buông.
Dưới áp lực của áp suất sữa trong bầu vú, bể sữa
dẫn dần sữa xuống núm vú và các thao tác vắt lại
được lặp lại như ban đầu, 1 lít sữa vắt trong vòng 1
phút là vừa.
Thứ tự vắt đối với các núm vú ảnh hưởng đến
sản lượng sữa. Do mối liên hệ qua lại giữa các bể
sữa mà đưa ra quy tắc vắt: Vắt chéo thẳng một phía
là tốt nhất.
Xoa kết thúc: Vắt sữa còn khoảng 8 - 10% sữa
trong bầu vú thì dừng lại tiến hành xoa kết thúc.
Trước hết xoa nữa bầu vú trái rồi chuyển sang nữa
bầu vú phải giống xoa kích thích nhưng ấn mạnh
hơn để dồn sữa còn lại xuống núm vú. Tiến hành
vắt kiệt, vuốt kiệt để tránh tình trạng viêm vú.
Bước xoa kích thích và xoa kết thúc cần làm nhẹ
nhàng, chú ý tránh làm thô bạo gây cảm giác khó
chịu cho bò, thời gian mỗi bước kéo dài không quá
1 phút. Sau khi vắt, rữa lại bầu vú bằng nước sạch,
lau khô. Cần tránh cho bò nằm ngay vì vi sinh vật ở
nền chuồng dễ xâm nhập vào bầu vú khi lỗ núm vú
chưa kịp đóng lại. Nếu bò bị viêm vú cần điều trị
ngay để tránh lây lan.
- Giữa 2 lần vắt sữa, người công nhân phải dọn rữa,
lau chùi, vệ sinh nền chuồng, máng ăn, máng uống.
III. NUÔI DƯỠNG BÒ CẠN SỮA
Thời gian khai thác sữa kéo dài khoảng 270-300
ngày. Tuy nhiên một số con có năng suất sữa cao
chậm lên giống có thể khai thác trên 300 ngày.

Thời gian bò mang thai 9 tháng 10 ngày thì bò
đẻ. Tùy theo biến động sinh lý trong giai đoạn mang
thai mà thời điểm bò đẻ tăng hoặc giảm 5-6 ngày.
Khi bò mang thai được 7 tháng bắt buộc phải
cho cạn sữa, dù năng suất nhiều hoặc ít mục đích
đảm bảo sản lượng sữa, sức khỏe bò mẹ, sức khỏe
bê con trong lứa tới. Thức ăn thời kỳ này phải kèm
theo khẩu phần mang thai.
Những ngày sắp đẻ và những ngày đầu sau khi
đẻ, xét tình trạng sức khỏe của từng con mà giảm
thức ăn để kích thích tiết sữa (cám, mật v.v )
Cách cạn sữa: Bò vắt sữa đến tháng mang thai
thứ 7 bắt buộc cạn sữa. Tùy bò sữa nhiều hoặc ít có
thể cạn sữa theo 2 cách sau:
- Đối với bò 4-5 lít trở lên: Giảm số lần vắt trong
ngày từ 2 lần xuống 1 lần/ngày hoặc 2 - 3 ngày vắt
1 lần. Cắt thức ăn tinh và thức ăn nhiều nước, hạn
chế nước uống.
- Đối với bò 2 - 3 kg/ngày có thể cạn sữa bằng
cách 3-4 ngày vắt 1 lần sau đó để sữa tự tiêu. Đồng
1 2
thời phải thay đổi điều kiện sống và chăm sóc của
bò như trên. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra xem
bò có bị viêm hay không.
Sau giai đoạn cạn sữa, Cho bò ăn lại khẩu phần
bình thường. Thức ăn tinh: 1,5 kg/con/ngày. Thức
ăn thô: cho ăn tự do.
Vào mùa khô nên bổ sung thêm năng lượng (mật
đường)1,2-1,5 kg/con/ngày và đạm (Urêa) 60 - 80
gr/con/ngày.


C. CHUỒNG TRẠI VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH
I. YÊU CẦU CHUỒNG TRẠI
Chuồng trại phải hợp vệ sinh, thông thoáng mùa
hè, ấm mùa đông và có sân vận động cho bò.
II. CHĂM SÓC BÒ VÀO MÙA BỆNH
1. Vệ sinh ăn uống
Thức ăn phải sạch không bị thối, chua, mốc, nước
uống sạch, không dùng nước có nguồn bệnh dịch.
2. Vệ sinh thân thể
- Tắm chảy cho bò thường xuyên, định kỳ phun
thuốc diệt ve cho bò (Dipterex 0,2%, Tactik 20
ml/8 lít nước v.v ). Sau một thời gian nếu lờn
thuốc có thể luân phiên thay đổi thuốc khác.
- Tiêu độc định kỳ mỗi tháng 1 lần bằng vôi
sống, Formol hoặc Sút. Chuồng phải luôn khô ráo,
sạch sẽ.
- Tiêm phòng một số bệnh: Tụ huyết trùng, Lỡ
mồm long móng.
- Định kỳ kiểm tra phát hiện bệnh nhất là các bệnh
truyền nhiễm dễ lây lan cho người.
1 2
BÀI 2
SỬ DỤNG U RÊ CHÒ BÒ SỮA
Lợi ích và nguyên tắc sử dụng urê cho bò sữa
Riêng bò sữa (và gia súc nhai lại nói chung) sử
dụng được urê, vì trong dạ cỏ của chúng có các
quần thể vi sinh vật có khả năng biến đổi, phân giải
nitơ trong urê và tổng hợp nên chất đạm của cơ thể
vi sinh vật. Có thể nói, vi sinh vật "ăn" urê để sinh

trưởng và phát triển thành số lượng rất lớn, sau đó
dịch chuyển xuống dạ múi khế, rồi tại đây bị tiêu
hoá và trở thành nguồn đạm có giá trị sinh vật học
cao, cung cấp cho cơ thể bò sữa.
Urê đã được sử dụng khá lâu và rất rộng rãi
trong chăn nuôi gia súc loài nhai lại. Sử dụng urê
vừa rẻ vừa cho hiệu quả; ta không cần cho bò sữa
ăn thêm các loại thức ăn có chứa đạm động vật mà
chúng vẫn được cung cấp nguồn đạm có giá trị; có
thể sử dụng urê bằng cách trộn vào thức ăn hỗn
hợp, trộn với rỉ mật đường, trộn với một số thành
phần làm bánh dinh dưỡng, kể cả trộn ủ cùng với
cỏ hoặc rơm.
Nguyên tắc sử dụng urê
• Cung cấp đầy đủ chất bột đường dễ lên men
vào khẩu phần của bò sữa, giúp cho vi sinh
vật dạ cỏ có đủ năng lượng để sử dụng khí
amoniac (phân giải ra từ urê) và tổng hợp nên
chất đạm (không làm thế thì bò dễ bị ngộ
độc, và bị chết).
• Với những bò trước đó chưa ăn urê, thì cần
có thời gian làm quen (5 -10 ngày) và cho ăn
ít một.
• Chỉ sử dụng urê cho bò sữa trưởng thành
(không sử dụng cho bê, vì dạ cỏ của bê chưa
phát triển hoàn chỉnh).
• Bổ sung urê vào khẩu phần, lúc đầu có thể bò
sữa không thích ăn, vì vậy, cần trộn lẫn urê
với một số loại thức ăn khác (có thể cho thêm
rỉ mật đường để bò dễ ăn, và cho ăn làm

nhiều lần trong ngày, ăn ít một).
• Lưu ý là không được hoà urê vào nước cho
bò uống trực tiếp
1 2
BÀI 3
PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO BÒ SỮA
I. BỆNH VIÊM VÚ Ở BÒ SỮA
1. Bệnh viêm vú (infection)
Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập vào ống tiết
sữa, nhân lên trong tuyến sữa. Sự xuất hiện hoặc
không xuất hiện bệnh được xác định thông qua việc
lấy mẫu sữa đảm bảo vô trùng ở từng núm vú riêng
biệt, nuôi cấy mẫu trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Bệnh có thể ở dạng lâm sàng hoặc cận lâm sàng tuỳ
thuộc vào mức độ của quá trình viêm nhiễm.
a. Viêm vú lâm sàng
Thể viêm vú lâm sàng đặc trưng bởi những biến
đổi rõ rệt ở tuyến sữa hoặc sữa. Những biến đổi trên
có thể ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau trong quá
trình diễn biến của bệnh. Các trường hợp bệnh ở thể
lâm sàng có thể được coi là thể á cấp tính (thể lâm
sàng nhẹ) khi các biểu hiện biến đổi nhẹ của sữa và
các núm vú bị nhiễm như tạo váng, lổn nhổn hoặc
sữa biến màu. Các núm vú này có thể bị sưng nhẹ
và nhạy cảm.
b. Viêm vú cấp tính
Các trường hợp cấp tính được đặc trưng bởi sự
xuất hiện đột ngột của các biểu hiện sưng, tấy đỏ,
bầu sữa rắn, con vật đau, sữa không bình thường và
sản lượng sữa giảm. Những biểu hiện toàn thân như

sốt, kém ăn.
c. Viêm vú quá cấp tính
Thể bệnh này ít thấy và cũng có những biểu
hiện như trên, nhưng cũng có thể có những biểu
hiện như suy nhược, tăng nhịp tim và tần số hô
hấp, vận động kém, chân lạnh, phản xạ mắt giảm,
mất nước và tiêu chảy.
d. Viêm vú cận lâm sàng
Thể bệnh này thường không rõ, không thể phát
hiện bằng quan sát mắt thường, song nó được nhận
biết thông qua các xét nghiệm định hướng như phát
hiện các vi khuẩn, các tế bào thân. Một số người
chưa ý thức đầy đủ về sự lưu hành cũng như tầm
quan trọng về mặt kinh tế của viêm vú ở thể cận
lâm sàng, bởi vì sữa gần như ở trạng thái bình
thường. Thể bệnh này rất quan trọng bởi những lý
do sau đây:
1 2
- Sự lưu hành cao gấp 15 - 40 lần so với thể lâm sàng.
- Luôn là nguy cơ của thể lâm sàng.
- Bệnh kéo dài.
- Khó phát hiện.
- Giảm quá trình tiết sữa.
- Có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng sữa.
Ngoài ra thể cận lâm sàng còn quan trọng bởi vì
nó là nguồn tàng trữ mầm bệnh và gây nhiễm cho
những con trong đàn.
e. Viêm vú mạn tính
Thể mạn tính có thể bắt đầu như bất cứ thể lâm
sàng hoặc thể cận lâm sàng. Bệnh được thể hiện qua

các triệu chứng lâm sàng gián đoạn. Thường có sự
hình thành sẹo và làm biến đổi hình dạng tuyến sữa
bị nhiễm, cùng với giảm sản lượng sữa. Thời gian
từ cận lâm sàng đến lâm sàng có thể rất lâu tuỳ
thuộc vào vi khuẩn gây bệnh, những yếu tố bất lợi
(stress) và các yếu tố khác.
f. Các trường hợp viêm vú không đặc biệt
Đôi khi được xem xét như viêm vú không do vi
khuẩn, dạng này xảy ra khi vi khuẩn không phân lập
được từ sữa. Các trường hợp như vậy có thể hoặc là do
viêm vú lâm sàng, hoặc là do viêm vú cận lâm sàng.
Bất kỳ nguyên nhân là gì thì mục đích cuối cùng
trong việc quản lý bệnh viêm vú là ngăn chặn bệnh
xảy ra. Nếu không chúng ta không thể thành công
trong việc chống lại bệnh viêm vú.
2. THIỆT HẠI KINH TẾ TỪ BỆNH VIÊM VÚ
Hiện nay người ta đã đánh giá chính thức rằng
bệnh viêm vú là một bệnh nguy hại nhất của bò sữa.
Nghiên cứu mới đây đã đánh giá lại rằng bệnh viêm
vú chiếm 26% tổng số chi phí tất cả bệnh tật của bò
sữa, nó đặc biệt nghiêm trọng vì sự thiệt hại từ bệnh
viêm vú đã cao chừng hai lần thiệt hại do vô sinh và
bệnh sinh sản.
Mặc dù hậu quả của bệnh viêm vú đã được dẫn
chứng trong nhiều nghiên cứu rộng rãi trên toàn thế
giới, thực tế này đã không được truyền đạt một cách
thuyết phục đến một số chủ trại bò sữa ở khắp nơi.
Nhiều trường hợp dường như chỉ căn cứ vào bác sĩ
thú y, đơn thuốc, xem xét các trường hợp lâm sàng
xảy ra và phải loại thải để giết mổ các động vật.

Nếu đứng về phương diện sản xuất sữa thì họ phải
loại bỏ những con bò đã được điều trị: Những thiệt
hại có thể thấy được; Sự thiệt hại to lớn mà không
thấy được trong quá trình sản suất sữa bởi các
1 2
trường hợp nhiễm bệnh phi lâm sàng, mà các chủ
trang trại không phát hiện ra.
Hội đồng quốc gia về bệnh viêm vú, một tổ chức
phi lợi nhuận thành lập năm 1961 để thúc đẩy
nghiên cứu và đào tạo nhằm giảm bệnh viêm vú, có
đánh giá rằng sự thiệt hại do giảm sản lượng sữa đã
lên tới hơn 1 tỷ đô la hàng năm ở Mỹ. Tổng số thiệt
hại tới gần 2 tỷ đô la.
Nhìn từ khía cạnh khác chi phí cho một nông trại
nuôi bò sữa trung bình khoảng 180 đô la cho một
bò cái trong một năm.
Nhân số bò cái trong đàn của bạn với 180 đô la,
bạn sẽ được một con số có ý nghĩa về chi phí riêng
của bạn trong bệnh viêm vú bò sữa.
Sự thiệt hại sẽ ở mức cao hơn nếu như số lượng
tế bào thân trong sữa của đàn gia súc của bạn ở trên
mức trung bình. Trừ đi chi phí bệnh viêm vú vào túi
tiền của bạn và bạn sẽ bắt đầu thấy sự thiệt hại tổng
sản phẩm sữa như thế nào từ các ca viêm vú cận
lâm sàng.
Sự phân tích thiệt hại hàng năm do bệnh viêm vú
gây ra đã được hội đồng quốc gia về bệnh viêm vú
soạn thảo vào năm 1985. Mặc dù ngày nay, tỷ lệ
bệnh viêm vú đã thấp hơn nhưng tổng thiệt hại kinh
tế vẫn còn là cao. Số liệu được thể hiện dưới đây.

Các số liệu được ghi thành từng mục đã khẳng
định rằng khoảng 70-80% của tổng thiệt hại có
liên quan đến bệnh viêm vú cận lâm sàng, trong
khi đó chỉ có 20-30% thiệt hại là do bệnh viêm vú
lâm sàng. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng những
số liệu thiệt hại này không bao gồm những thiệt
hại khác của ngành chăn nuôi bò sữa mà có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới bệnh viêm vú. Ví
dụ như sự tốn kém cho các máy vắt sữa, giảm chất
lượng dinh dưỡng của các sản phẩm sữa, làm sút
kém các trang trại chăn nuôi bò sữa, can thiệp vào
các quá trình nâng cao tính di truyền của đàn bò
sữa và các yếu tố khác.
Nguồn thiệt hại
Thiệt hại/1 con
bò ($)
%
- Giảm sản lượng sữa
- Sữa loại thải
- Thay thế đàn sớm
- Giá bò giảm
- Thuốc
- Dịch vụ thú y
- Công lao động

$ 116,10
24,44
13,60
9,94
9,68

4,84
2,42

64
14
8
5
5
3
1
Tổng $181,02 100%
1 2

3. BỆNH VIÊM VÚ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG SỮA VÀ THÀNH PHẦN
CỦA SỮA
Ngày nay người tiêu dùng đã có nhận thức nhiều
hơn so với trước đây. Họ ý thức đến sức khoẻ và hy
vọng rằng có một sản phẩm chất lượng cao tức là
khẩu vị tốt và thời gian bảo quản lâu hơn.
Chất lượng của sản phẩm sữa cuối cùng đưa ra
cho người tiêu dùng không tốt hơn chất lượng
nguyên liệu của chúng. Quá trình xử lý tốt nhất chỉ
hy vọng vào sự duy trì chất lượng sữa từ các trang
trại, trong khi có nhiều đòi hỏi khác nhau về các
dạng sản phẩm theo yêu cầu của người tiêu dùng.
Tất yếu là người chế biến sữa thường dựa vào sữa
trang trại có các thành phần lý, hoá học và mùi vị
như mong muốn.
Các công nhân trong ngành sản xuất sữa biết

rằng sự tăng lên tổng số vi sinh vật trong sữa
thường song song với sự tăng lên về số lượng vi
khuẩn không bị diệt qua quá trình hấp Pasteur. Các
thiết bị vắt sữa không sạch và phần da của bầu vú
không sạch và khô ráo trước khi vắt sữa sẽ là nguồn
lây nhiễm vi sinh vật phổ biến nhất. Chúng ta phải
lưu tâm đến các vi sinh vật gây viêm vú. Có sự liên
quan chặt chẽ giữa tỷ lệ nhiễm trùng bầu vú và độ ô
nhiễm của bề mặt núm vú. Do đó việc tránh nhiễm
bẩn bề mặt núm vú sẽ giảm cả bệnh viêm vú và cải
thiện chất lượng cũng như thời gian bảo quản sản
phẩm sữa.
Khi mà tỷ lệ lưu hành của việc nhiễm bệnh qua
sữa là rất nhỏ so với 50 năm trước đây, chúng ta
không được thờ ơ với việc đưa ra cho người tiêu
dùng các sản phẩm có chất lượng cao nhất. §ặt
nhiều tin tưởng vào việc hấp pasteur sữa, sự bảo
quản lạnh để hạn chế sự phát triển của vi khuẩn và
trộn lẫn sữa có chất lượng thấp và sữa có chất
lượng cao. Phải lưu tâm hơn với việc đưa ra các
phương pháp quản lý và vệ sinh đúng đắn để thu
được kết quả là sản phẩm có lượng vi sinh vật thấp
nhất. Các chủ trang trại sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn qua các yêu cầu lớn hơn về sữa và các
sản phẩm khác từ sữa.
Người tiêu dùng mong muốn nhiều hơn vào
những sản phẩm cuối cùng của sữa có thể bảo quản
lâu hơn. §ể mà trong một tuần (7 ngày) người tiêu
dùng có thể chỉ một lần đến mua sữa ở siêu thị.
Những nghiên cứu gần đây đã đưa ra rằng đối

với quy trình hấp pasteur thì sau 14 ngày sữa có
1 2
lượng tế bào thân it hơn 250.000 có chất lượng cao
hơn so với sữa có lượng tế bào thân lớn hơn
500.000. Các kết luận tương tự cũng được đưa ra
khi chế biến sản phẩm sữa từ sữa có lượng tế bào
thấp so với lượng tế bào cao. Tất yếu rằng sữa có
chất lượng cao nhất sẽ được cung cấp cho người
chế biến nếu như yêu cầu của người tiêu dùng
được đặt ra.
ảnh hưởng của viêm vú cận lâm sàng đối với
thành phần sữa và chất lượng chế biến sữa được
đưa ra ở bảng sau:
1. Lactose (tốt) giảm 5-20%.
2. Tổng số protein (tốt) hơi giảm.
3. Casein (tốt) giảm 6-18%.
4. Globulin miễn dịch (tồi) tăng.
5.Chất rắn không béo (tốt) giảm 8%
6. Tổng số chất rắn (tốt) giảm 3-12%.
7. Chất béo (tốt) giảm 5-12%.
8. Lipit (tồi) tăng mùi khét.
9. Natri (tồi) tăng.
10. Chlo (tồi) tăng.
11. Canxi (tốt) giảm.
12. Phospho (tốt) giảm.
13. Kali (tốt) giảm.
14. Khoáng chất (tồi) tăng ít.
15. Bơ (tốt) giảm sự đông vón,
độ béo và sản lượng
16. ổn định nhiệt độ (tốt) Thấp đi.

Viêm vú cận lâm sàng đã dẫn đến kết quả là có
sự tăng lên các thành phần không mong muốn và
giảm đi các thành phần mong muốn của sữa khi
chúng ta đang cố gắng tạo ra sản phẩm sữa có chất
lượn g cao.
Những điểm cần ghi nhớ :
- Các chủ trại phải trả trung bình khoảng 180 đô
la cho mỗi bò bị viêm vú/năm.
- Khoảng 70-80% sự thiệt hại là do viêm vú cận
lâm sàng.
- Các đàn bò với số lượng tế bào thân 400.000 sẽ
thiệt hại 546 kg (1.200 pound) sữa mỗi năm. Sự
thiệt hại này còn lớn hơn ở bò có số lượng tế bào
thân cao hơn.
1 2
- Hấp pasteur sữa có lượng tế bào thân ít hơn
250.000 sẽ có kết quả hơn sữa có lượng tế bào thân
lớn hơn 500.000.
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA VIÊM

1. Kiểm tra đặc tính lý học
Kiểm tra đặc tính lý học tốt nhất là trên bầu vú
cạn sữa, ngay sau khi cho sữa. Kiểm tra bầu vú để
tìm ra các núm vú cứng, sưng và nóng do viêm vú
cấp tính, các núm vú méo mó với các mô sẹo là biểu
hiện của sự thiệt hại vĩnh viễn.
2. Kiểm tra những giọt sữa đầu tiên (striptest)
Sữa đầu phải được kiểm tra trong suốt thời kỳ
chuẩn bị cho sữa. Quá trình này được ví như là sự
kiểm tra ban đầu (forestripping). Phương pháp này

cho phép tìm ra sữa không bình thường có biểu hiện
bệnh lý được giữ trong các thùng sữa và các có biểu
hiện viêm vú cần được chú ý. Sữa không bình
thường có biểu hiện mất màu, tạo váng, lổn nhổn và
có thể loãng. Sự loại bỏ những giọt sữa đầu cũng có
tác dụng kích thích cơ chế tiết sữa.
Cách truyền thống, kiểm tra sữa đầu bằng cách
sử dụng các cốc (strip cụp) hay đĩa (strip plate).
Tiến trình này được kiểm tra ở phòng vắt sữa. Các
cốc kiểm tra chỉ được sử dụng khi đã sạch và đã làm
vệ sinh sau mỗi lần vắt sữa.
Phòng vắt sữa thì nền nhà phải được dội sạch,
sữa đầu có thể vắt ra nền bằng cách dùng một tấm
màu đen đặt lên trên nền và vắt sữa lên trên đó để
tăng tiến trình kiểm tra sữa. Quá trình kiểm tra sữa
thường làm dây các sữa có nhiễm bệnh lên các núm
vú, bầu vú và dây vào các cốc kiểm tra do người vắt
sữa, vì vậy bầu vú, núm vú và các cốc vắt sữa phải
được rửa ngay lập tức. Theo thường lệ sữa không
bao giờ được dây ra tay và vi khuẩn không được lây
lan từ núm vú đến núm vú, từ bò đến bò.
3. Phương pháp thử viêm vú Califomia (CMT)
CMT và các phép thử tương tự để ước tính
lượng tế bào thân trong sữa, sự ước tính này sẽ
được ghi vào bảng số lượng tế bào thân theo điểm.
Lượng tế bào thân có xu hướng tăng trong thời gian
tiết sữa và vẫn giữ số lượng cao trong nhiều giờ sau
đó, kể cả ở những núm vú không bị bệnh. Vậy ta
chỉ nên thực hiện các test trước khi vắt sữa (ngay
sau khi kích thích bò tiết sữa bằng cách loại bỏ sữa

đầu) CMT phản ứng với chất có mặt trong tế bào
thân ở sữa nhờ các gel. Các phản ứng sẽ được ghi ở
mức độ 0, T, 1, 2, 3 theo lượng gel khi ta trộn sữa
với chất gây phản ứng theo bảng sau:
1 2
Điểm Đánh giá
0
T
1
2
3
Không phản ứng
Phản ứng nhẹ
Phản ứng nhẹ TB
Phản ứng TB
Phản ứng mạnh

Nhiều chủ trang trại yêu cầu sử dụng hệ thống
ghi điểm đơn giản hơn theo bảng bên:
Điểm Đánh giá
N (âm tính)
S (nghi ngờ)
P (dương tính)
Không phản ứng
Phản ứng ít
Phản ứng rõ rệt

Các nghiên cứu cho thấy rằng phản ứng CMT
tương đương với lượng tế bào thân trong sữa theo
bảng sau:

Điểm Đánh giá
0
T
1
2
3
100.000
300.000
900.000
2.700.000
8.100.000

Kết quả kiểm tra ở mỗi bò phải được ghi lại để
tham khảo sau này. Khi ta ghi lại như vậy và cùng
với các lần ta có thể tìm ra các trường hợp nhiễm
bệnh cận lâm sàng, các trường hợp nhiễm bệnh cận
lâm sàng này ta sẽ không biết trước cho tới khi bệnh
nặng hơn. Các tế bào có trong sữa là các tế bào bạch
cầu đi vào bầu vú qua máu. Số lượng TBBC tăng
lên là do nhiễm bệnh viêm vú hoặc do các tổn
thương cơ học.
Sự tập trung tế bào thân cao trong sữa (>200.000
Tb/ml) là dấu hiệu không bình thường của bầu vú.
CMT sẽ không xác định được một cách chính xác là
bò nào cần được điều trị bởi vì chỉ 60% bò với
lượng tế bào thân >500.000/ml thực sự nhiễm bệnh
viêm vú.
1 2
II. ĐỂ BÒ KHÔNG BỊ CƯỚC CHÂN
Thời tiết mùa đông lạnh, chuồng nuôi ẩm ướt,

trâu bò phải làm việc ngâm chân lâu trong nước
lạnh. Chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng kém làm cơ thể
bị suy nhược dẫn đến khả năng đề kháng của cơ thể
kém bị nhiễm khuẩn là nguyên nhân phát bệnh cước
chân. Trâu, bò bị cước chân đi lại khó khăn, tăng
trọng chậm, làm giảm hiệu quả chăn nuôi.
Nhận biết bệnh cước chân: Đầu tiên da vùng
chân con vật dày cộm lên, vùng sưng có hiện tượng
xung huyết, da bị nứt nẻ. Sau đó lớp biểu bì bị bong
ra có chảy dịch mầu vàng, lộ ra một lớp tổ chức
mầu đỏ thẫm, nếu vết thương sâu làm con vật què
nằm tại chỗ, da và tổ chức dưới da bị hoại tử từng
đám có chỗ tím bầm, có chỗ phồng rộp lên. Cuối
cùng các tổ chức hoại tử ăn sâu xuống thành hoại
thư làm lộ ra cả những sợi cơ và xương. Bệnh nặng,
gây biến chứng có thể làm tắc mạch máu gây xung
huyết ở phổi và bầm huyết ở não.
Phòng bệnh: Thực hiện tốt công tác vệ sinh thú
y như, chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ. Về mùa
đông nên dùng chất độn chuồng, nhưng không để
chuồng ẩm ướt, nhất là những ngày thời tiết quá
lạnh, mưa xuân kéo dài. Cho ăn đủ khẩu phần và cân
đối về dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề kháng.
Trị bệnh: Nếu bệnh mới xuất hiện chúng ta có
thể dùng gừng giã nhỏ hoà rượu xoa bóp hàng ngày.
Nếu chỗ cước đã nhiễm trùng phải rửa sạch bằng
dung dịch thuốc tím 1% sau đó rắc bột Tetracylin
hoặc Sunfamid.
Bệnh nặng, cần cắt bỏ những tổ chức hoại tử sau
đó mới điều trị. Tiêm bắp một trong các loại kháng

sinh sau Pen-Strep 5.000 - 10.000 UI/kg thể
trọng/ngày; Ampicillin 7 - 10 mg/kg TT/ngày;
Colinorxacin 1ml/15 kg TT/ngày; Amtyo 7 - 8
ml/100 kg TT/ngày. Trợ sức, trợ lực: tiêm bắp
Cafein 20 - 25 mg/kg P, Vitamin B1: 2 - 3 mg/kg P,
Vitamin C: 3 - 5 mg/kg P. Điều trị liên tục 5 - 7
ngày cho khỏi bệnh.
III. PHÒNG CHỐNG BỆNH LỞ MỒM, LONG
MÓNG
Dịch lở mồm, long móng đã xuất hiện với hàng
nghìn con trâu, bò và lợn bị nhiễm bệnh. Lở mồm,
long móng là loại bệnh hết sức nguy hiểm, lây lan
nhanh, do đó các vùng có dịch cần xử lý triệt để
theo hướng dẫn của thú y.
1. Tìm hiểu về bệnh lở mồm long móng
Bệnh lở mồm long móng là một bệnh truyền
nhiễm cấp tính, lây lan nhanh do loại virus ARN
1 2
nhỏ nhất, thuộc họ Picornaviridea, giống
Aphthovirus gây ra. Đây là một loại virus hướng
thượng bì, có đặc điểm sốt và xuất hiện mụn nước ở
miệng, chân và đầu vú. Thời gian ủ bệnh của virus
thường kéo dài ba đến tám ngày, khi nhiễm bệnh
con vật lên cơn sốt cao (40-41
0
C), ủ rũ, bỏ ăn, ở
những con đang cho sữa thì lượng sữa sẽ giảm đột
ngột, thậm chí nhiều con bị mất sữa. Đến ngày hôm
sau, mụn nước bắt đầu xuất hiện ở chân (kẽ móng,
quanh gờ móng và bướu gót chân), niêm mạc (lưỡi,

lợi, môi, chân răng) và đầu vú. Lúc đầu mụn nước
rất nhỏ, đường kính một đến hai cm, sau đó phát
triển to lên nhanh chóng, nổi lên trên bề mặt có màu
trắng, các mụn này có thể kết hợp lại với nhau. Tiếp
theo mụn sẽ bị vỡ chảy ra dịch màu vàng rơm tạo
nên các vết loét thô sâu ở miệng con vật. Khi bị
bệnh con vật ít ăn, hoặc bỏ hẳn ăn, đi lại khó khăn,
nhẹ thì mất sức kéo, nặng có thể dẫn đến chết với tỷ
lệ lên đến 60% đối với những loại gia súc nhỏ.
2. Cơ chế lây lan bệnh
Lở mồm, long móng chủ yếu lây lan qua đường
hô hấp và tiêu hoá. Sự lây lan giữa bò và lợn phát
sinh qua không khí là chính, lợn bị nhiễm bệnh có
khả năng tập trung virus lớn hơn 100- 1.000 lần so
với trâu, bò, thời gian tồn tại của virus trong không
khí cũng rất dài. Virus có thể sống sót bên ngoài cơ
thể con vật nếu không chịu tác động bởi nhiệt độ
cao hoặc thay đổi độ pH. Nhiệt độ ở mức 64- 65
0
C
virus sống được 30 phút, ở 70
0
C thời gian sống của
virus là 15 phút và ở nhiệt độ 80
o
C virus tồn tại
được 3 phút. Trong thịt đông lạnh virus sống được
trong một thời gian dài và truyền từ nơi này sang
nơi khác do vận chuyển các chất thải từ lò mổ hoặc
từ quần áo, xe cộ, thậm chí trong điều kiện mát, ẩm,

virus có thể lây truyền đi theo chiều gió rất xa.
Ở lợn đường nhạy cảm nhất là hô hấp, tại đây
virus được nhân lên rất nhiều trong phổi nhưng sự
lây lan của bệnh chỉ trong nhóm lây qua miệng. Ở
bò virus thường tồn tại ở mũi, họng, tuyến vị, virus
sống trong các mô bào này từ ba đến bảy tuần.
Nguy hiểm hơn virus có sức lây lan rất mạnh đến
ngay cả mặt nạ, khẩu trang cũng không hạn chế
được virus xâm nhập.
3. Cách phòng chống
Khi thấy xuất hiện bệnh phải tổ chức khoanh
vùng để dập ngay lập tức, tiến hành cô lập những
vùng có dịch, nghiêm cấm vận chuyển gia súc đã
mắc bệnh đi nơi khác phải thực hiện nghiêm túc
các biện pháp sau:
Đối với nơi đã xảy ra dịch:
- Thực hiện tích cực việc bao vây dập tắt ổ dịch
bằng mọi biện pháp. Xử lý triệt để gia súc mắc bệnh
1 2
bằng cách tiêu diệt hoàn toàn tránh lây lan ra diện
rộng, có thể đem gia súc đi chôn cất ở nơi xa dân cư
hoặc thiêu đốt.
- Cách ly triệt để đàn gia súc khi số lượng nhiễm
bệnh quá nhiều.
- Tiêu độc hằng ngày đối với chuồng nuôi, chất
thải và mọi môi giới truyền bệnh kể cả các phương
tiện đi lại bằng nước vôi đặc 10 - 20%, vôi bột hoặc
xút 2%, formon 2%, crezin 5%.
- Tiêm phòng khẩn cấp cho những động vật dễ
bị lây nhiễm bằng cách tiêm phòng bao vây từ phía

ngoài vào tâm ổ dịch.
Đối với nơi chưa có dịch:
Tuy chưa nhiễm bệnh, nhưng tại các vùng này
phải thực hiện mạnh các biện pháp sau:
- Cần phát hiện bệnh sớm, chẩn đoán, tốt nhất là
thực hiện chẩn đoán định kỳ ngăn ngừa bệnh từ xa.
- Thực hiện cách ly nghiêm ngặt động vật có
biểu hiện triệu trứng lở mồm, long móng và những
con được chăn nuôi cùng. Ngăn chặn mọi môi giới
truyền bệnh, tăng cường theo dõi, chăm sóc đàn vật
nuôi trong vùng dịch.
- Tiêu độc định kỳ môi trường, nơi liên quan đến
chăn nuôi động vật, nhất là vùng ổ dịch cũ hoặc nơi
mới phát sinh để tiêu diệt mầm bệnh.
- Xử lý vệ sinh thú y triệt để các phương tiện vận
chuyển thức ăn chăn nuôi, vật dụng (quần, áo) và
nước uống.
Phương pháp chữa bệnh:
- Ở miệng: Dùng chất sát trùng nhẹ như thuốc
tím với liều lượng 0,1% hoặc nước quả chua
(chanh, khế ) bóp lấy nước xoa vào niêm mạc
miệng. Cho gia súc ăn thức ăn mềm, dễ tiêu.
- Móng: Rửa sạch, dùng các loại kháng sinh mỡ,
cồn iốt, thuốc nam như lá bàng, lá phèn đen, thanh
xoan, lá trầu không chống nhiễm trùng, kích thích
lên da non, chống ruồi muỗi.
- Ở vú: Thường xuyên vắt cạn sữa, sát trùng
mụn loét bằng dung dịch sát trùng, nếu bị nặng
dùng thêm các kháng sinh Penicillin,
Streptomyxin để tiêm.

IV. CHỮA LỞ MỒM LONG MÓNG CHO BÒ
BẰNG THUỐC NAM
1 2
Trâu, bò và đặc biệt là đối với trâu, bò nuôi thả
rông thường bị các bệnh về chân móng nói riêng và
các bệnh khác nói chung trong mùa đông giá lạnh.
Chữa bệnh lở mồm long móng cho trâu, bò dù bằng
phương pháp Tây y hay Đông y cũng chủ yếu là
chữa triệu chứng vì đây là loại bệnh do virut gây
nên. Mục đích chữa trị là giúp vết thương mau lành,
đề phòng nhiễm trùng kế phát gây biến chứng nguy
hiểm tới tính mạng của con vật.
Chữa miệng
Tốt nhất rửa miệng trâu, bò bị bệnh bằng nước
các loại quả chua thông thường dễ kiếm như: khế,
chanh, quất, me giã nát các loại quả trên, hoà với
chút muối. Dùng xi lanh bơm ướt các vết loét trên
lưỡi và niêm mạc mồm. Ngày 2 - 3 lần, liên tục
trong 4-5 ngày. Có thể dùng bã chanh, múi khế cho
trâu, bò nhai. Tuyệt đối không được chà xát vào vết
thương vì dễ làm bong niêm mạc, khiến cho con vật
bị đau, rát, ăn kém, sút cân nhanh chóng.
Chữa móng
Rửa sạch chân trâu, bò bằng nước muối pha
nồng độ 10% (100g muối, 1 lít nước sôi nguội) hoặc
nước lá chát (lá sim, ổi, muối và sẻ 3, trầu không,
chè tươi) có cho thêm chút muối. Bôi các chất sát
trùng hút mủ, chóng lên da non như bột than xoan
trộn với dầu lạc. Đồng thời đề phòng ruồi nhặng đẻ
trứng vào vết thương kẽ móng chân bằng cách đắp

thuốc lào, thuốc lá khô băng lại.
Phòng bệnh
Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, đảm bảo đông ấm,
hè mát. Khử trùng chuồng trại định kỳ 10 - 12
ngày/lần bằng các loại thuốc khử trùng diệt vi rút
thời gian dài như: Virkon (Han-Iodine 10%)
Oxidan-Tca Chăm sóc, nuôi dưỡng trâu, bò chu
đáo để nâng cao sức đề kháng.

V. XỬ LÝ BÒ BỊ CHƯỚNG HƠI DẠ CỎ
1. Nguyên nhân mắc bệnh: Vào mùa khô, bò chỉ
ăn rơm, cỏ khô, thiếu thức ăn xanh nên hệ thống
tiêu hóa, sức khỏe giảm. Đặc biệt hệ vi sinh vật
trong dạ cỏ chưa thích ứng với các thức ăn khác.
Đầu mùa mưa, cỏ phát triển, bò ăn nhiều nhưng sức
tiêu hóa kém, không thích hợp với hệ vi sinh vật
trong dạ cỏ dẫn đến tiêu chảy, rối loạn hệ thống tiêu
hóa gây ra các phản ứng lên men, sinh hơi nhiều
gây chướng hơi dạ cỏ. Ngoài ra bò chướng hơi vì
mắc một số bệnh khác như: Viêm nhiễm ruột, dạ
múi khế, dẫn đến giảm nhu động dạ cỏ, hơi từ dạ cỏ
chậm thoát ra ngoài. Bò bị viêm hầu, họng sưng
1 2
không nhai được thức ăn tồn đọng lâu lên men sinh
hơi gây ra chướng hơi dạ cỏ.
2. Triệu chứng: Bò đang ăn bình thường hay đứng
ở chuồng, phần hõm hông phía trái căng phồng
nhanh, căng phồng cao hơn cả sống lưng. Khi gõ có
tiếng kêu rõ, ấn tay vào như quả bóng đầy hơi. Bò
thở khó, thở nhanh, đi lại khó khăn, mắt trợn ngược,

nếu không can thiệp kịp thời rất dễ tử vong.
3. Điều trị: Cho uống ngay 1 trong các loại dung
dịch:
1. Dung dịch thuốc tím: 1gr/1 lít nước, uống 3 –
5 lít.
2. Nước dưa chua: 3- 5 lít.
3. Bia hơi: 3 – 5 lít.
Dùng biện pháp cơ học, lấy tay kéo lưỡi bò ra và
sát nước gừng vào lưỡi để gây ợ hơi ra ngoài.
Dùng tay lấy phân ở hậu môn ra để thông hơi,
lấy rơm chà xát ở hông bên trái làm tăng nhu động
của dạ cỏ.
Nếu có điều kiện gần trạm thú y hay có dụng cụ
và thuốc thú ý:
Tiêm tĩnh mạch MgSO4 (Mazê Sunpat) 50-
60ml/100kg trọng lượng.
Tiêm Strychnin B1 20ml/con
Tiêm Dilocarpin 1% 10 – 15ml/con
Hoặc dùng: Magiêsi sulphate 100gr
Muối ăn 50gr
Thuốc tím 2gr
Pha 3 loại này vào 2 lít nước cho uống 2
lần/ngày.
Dùng muối ăn 100gr, tỏi 50gr, gừng 30gr giã
nhuyễn và pha vào 2 lít nước cho uống 2 lần cách
nhau 2 – 3 giờ.
Khi đã dùng tất cả các biện pháp không khỏi, thấy
bò vẫn căng hơi có khả năng nguy hiểm (tử vong) thì
phải chọc thủng hông trái để cho hơi ra ngoài. Dùng
Trocart, cây trúc nhỏ chọc thẳng vào hõm hông trái

nơi căng nhất. Khi chọc dùng ngón tay bịt đầu lỗ lại,
cho hơi ra từ từ đừng cho ra nhanh gây choáng bò sẽ
chết đột ngột. Khi hơi ra hết vẫn để nguyên Trocart tại
đó để cho hơi thoát ra đến khi bò khỏi hẳn. Tiêm
kháng sinh chống nhiễm trùng dùng:
1. Ampi-Septol 1ml/10kg trọng lượng
2. Chlotetradexa 10ml/100kg trọng lượng
3. Gentamycin 1ml/10kg trọng lượng
1 2
Bệnh chướng hơi dạ cỏ xảy ra nhiều vào đầu
mùa mưa, vì vậy khi bò ăn nhiều cỏ non nên trộn
thêm ít rơm khô. Bò mới đẻ có chế độ ăn từ thấp
đến cao, không cho bê nhỏ bú sữa bò mẹ bị viêm
vú, sữa vắt ra cho bê uống ngay không để lâu.
MỤC LỤC
LỢI ÍCH TỪ VIỆC NUÔI BÒ SỮA 3
BÀI 1: KỸ THUẬT NUÔI BÒ SỮA 5
A. CHỌN GIỐNG VÀ PHỐI GIỐNG 5
I. KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG 5
II. PHÁT HIỆN ĐỘNG DỤC VÀ PHỐI GIỐNG 7
III. CHĂM SÓC VÀ ĐỞ ĐẺ CHO BÒ SỮA 8
B. CHẾ ĐỘ CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG 11
I. NUÔI DƯỠNG BÊ TỪ 1 NGÀY TUỔI ĐẾN
KHI TRƯỞNG THÀNH
II. NUÔI DƯỠNG BÒ VẮT SỮA 13
III. NUÔI DƯỠNG BÒ CẠN SỮA 17
C. CHUỒNG TRẠI VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH 18
I. YÊU CẦU CHUỒNG TRẠI 18
II. CHĂM SÓC BÒ VÀO MÙA BỆNH 18
1 2

BÀI 2: SỬ DỤNG U RÊ CHÒ BÒ SỮA 20
BÀI 3: PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO BÒ SỮA. .22
I. BỆNH VIÊM VÚ Ở BÒ SỮA 22
II. ĐỂ BÒ KHÔNG BỊ CƯỚC CHÂN 35
III. PHÒNG CHỐNG BỆNH LỞ MỒM, LONG
MÓNG
IV. CHỮA LỞ MỒM LONG MÓNG CHO BÒ
BẰNG THUỐC NAM
V. XỬ LÝ BÒ BỊ CHƯỚNG HƠI DẠ CỎ
1 2

×