Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Kỹ thuật nuôi tôm hùm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.5 KB, 33 trang )

NGUYỄN VĂN TUYẾN
GIÚP NHÀ NÔNG LÀM GIÀU
KỸ THUẬT NUÔI
TÔM HÙM
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
1 2
LỢI ÍCH TỪ VIỆC NUÔI TÔM HÙM
Trong những năm qua, nghề nuôi tôm hùm phát
triển rất mạnh ở nước ta, đã góp phần khai thác sử
dụng có hiệu quả tiềm năng lợi thế về tự nhiên
đầm, vịnh, giải quyết việc làm và nâng cao thu
nhập, cải thiện cuộc sống cho bà con nông dân.
Nhiều hộ gia đình từ việc nuôi tôm hùm xuất khẩu
mà trở thành tỉ phú.
Để việc nuôi tôm hùm đạt hiệu quả và cho năng
suất cao, đòi hỏi bà con phải nắm bắt được kỹ thuật
nuôi, chăm sóc và phòng trị bệnh. Những kiến thức
trình bày trong sách đã được chúng tôi sưu tầm và
nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu quý giá, sau đó
chắc lọc những kiến thức cần thiết rồi biên soạn
thành sách với mục đích là giúp bà con có thêm
kinh nghiệm trong việc nuôi tôm hùm để đạt hiệu
quả kinh tế cao.
Hy vọng quyển sách sẽ mang lại nhiều điều bổ
ích cho bà con nông dân.
1 2
PHẦN 1
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA
TÔM HÙM

I. VỊ TRÍ PHÂN LOẠI TÔM HÙM


Tôm hùm là tên gọi chung của nhóm giáp xác
mười chân thuộc 4 họ: Palinuridae, Scyllaridae,
Nephropidae và Synaxidae. Giữa những họ này có
những điểm đặc trưng về tập tính và môi trường sống.
Với sự phong phú về thành phần giống loài,
chúng tạo nên mắt xích quan trọng trong chuỗi thức
ăn và có vai trò thiết yếu trong hệ sinh thái của biển
và đại dương.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã xác định được 9
loài thuộc họ tôm hùm gai (Palinuridae), 9 loài
thuộc họ tôm mũ ni (Scyllaridae) và 4 loài thuộc
họ Nephropidae. Trong đó, một số loài thuộc họ
tôm hùm gai được nuôi phổ biến hiện nay như tôm
hùm Bông (tôm hùm Sao, tôm hùm Hèo), tôm hùm
Đá (xanh chân ngắn), tôm hùm Đỏ (hùm lửa), tôm
hùm Sỏi (xanh chân dài, hùm ghì), tôm hùm Tre.
* Vị trí phân loại một số loài tôm hùm nuôi ở
Việt Nam:
- Ngành chân đốt (Arthropoda)
- Lớp giáp xác (Crustacea)
- Bộ mười chân (Decapoda)
- Họ tôm hùm gai (Palinuridae)
- Giống Panulirus
- Loài P. ornatus (Fabricius, 1798) - tôm hùm Bông
- Loài P. homarus (Linnaeus, 1758) - tôm hùm Đá
- Loài P. longipes (A. Milne Edwards, 1868) -
tôm hùm Đỏ
1 2
- Loài P. stimpsoni Holthuis, 1963 - tôm hùm Sỏi
- Loài P. polyphagus (Herbst, 1793) - tôm hùm Tre

II. HÌNH THÁI
Hình thái tôm hùm Panulirus spp.
- Cơ thể tôm hùm Panulirus spp. chia thành phần
đầu ngực và phần bụng. Phần đầu ngực gồm 14 đốt
hợp lại với nhau, mỗi đốt có một đôi phần phụ
ngực; 6 đốt đầu tiên tạo nên phần đầu và 8 đốt cuối
tạo nên phần ngực.
- Các phần phụ trên phần đầu ngực gồm có: 5
đôi chân bò; 1 đôi mắt kép có thể cử động, bất
động, hoặc co ngắn lại; có 2 đôi anten, anten thứ
nhất có phân nhánh, anten thứ hai rất dài và có
nhiều gai nhỏ; phần miệng có hàm trên, hàm dưới
và các mảng chân hàm. Phần bụng gồm có 6 đốt,
các đốt được bảo vệ bằng lớp vỏ kitin ở cả phần
lưng, phần bên và phần bụng. Từ đốt bụng thứ 2
đến thứ 5 có 4 đôi chân bơi, đốt bụng thứ 6 biến
thành chân đuôi và telson rất cứng và chắc chắn.

III. ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG, SINH TRƯỞNG
VÀ SINH SẢN CỦA TÔM HÙM
1. Đặc điểm dinh dưỡng
Trong tự nhiên, tôm hùm là động vật ăn tạp,
thường đi kiếm ăn và ăn mồi nhiều vào chiều tối;
chúng thích các loại mồi sống như tôm, cua, ghẹ
đang lột xác, sò, vẹm hoặc cá rạn,
Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng duy nhất
cho tôm hùm sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên,
chúng chỉ sử dụng từ 7 đến 10% lượng thức ăn cho
tăng trọng cơ thể; còn lại tiêu tốn vào các quá trình
hoạt động sống khác. Nhu cầu dinh dưỡng của tôm

hùm khác nhau tùy từng giai đoạn phát triển, tôm
1 2
càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao, ở giai
đoạn trước lột xác 2 - 5 ngày, tôm ăn rất mạnh và
ngược lại ở giai đoạn lột xác chúng sẽ ăn ít lại.
2. Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng của tôm hùm đặc trưng bởi quá trình
lột xác, qua đó có sự tăng lên về kích thước và trọng
lượng. Chu kỳ lột xác của mỗi loài tôm hùm phụ
thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ nước,
ánh sáng, độ mặn, thức ăn, và các yếu tố nội tại
của cơ thể như sự điều tiết của các hormon lột xác
hay hormon ức chế lột xác, Các yếu tố này luôn có
mối quan hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau.
Chu kỳ lột xác của các loài hay giữa các giai
đoạn khác nhau của từng loài không giống nhau. Ở
giai đoạn tôm con (chiều dài giáp đầu ngực - CL =
8-13 mm), thời gian giữa hai lần lột xác của tôm
hùm Bông và tôm hùm Đá khoảng 8-10 ngày, tôm
hùm Sỏi khoảng 15-20 ngày. Còn ở giai đoạn tôm
lớn (63-68 mm CL), thời gian giữa 2 lần lột xác
tương ứng khoảng 40 ngày và 50 ngày.
Chu kỳ sống của tôm hùm (Nguồn: BF. Phillip-CSIRO)
Các yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng của tôm hùm, đặc biệt ở giai đoạn tôm con,
những thay đổi đột ngột của môi trường thường dẫn
đến tôm chết. Chẳng hạn như khi nhiệt độ tăng lên
3-5
0
C, hoặc nồng độ muối tăng lên 8-10‰ thì hầu

như tôm con đều bị chết. Độ muối thấp 20 - 25‰
kéo dài 3-5 ngày cũng gây nên tình trạng chết từ từ
ở tôm con. Giai đoạn trưởng thành khi độ mặn giảm
xuống 20‰ thì tôm hùm rất yếu và không bắt mồi.
3. Đặc điểm sinh sản
Các loài tôm hùm khác nhau thì kích cỡ tham gia
sinh sản lần đầu và mùa vụ sinh sản cũng khác nhau.
Chẳng hạn, ở loài tôm hùm Bông, kích cỡ tham gia
sinh sản lần đầu của con đực là 110,6 mm CL và ở con
cái là 97,3 mm CL (chiều dài giáp đầu ngực); ở tôm
hùm Đá, kích cỡ tham gia sinh sản lần đầu khoảng
66,7 mm CL ở con đực và 56,9 mm CL ở con cái.
1 2
Đỉnh cao sinh sản của loài tôm hùm thường
tập trung vào tháng 4 và tháng 9 hàng năm, riêng
tôm hùm Sỏi thì đỉnh cao sinh sản xuất hiện vào
tháng 5 và tháng 6. Sức sinh sản của tôm hùm
tương đối lớn, chúng có thể đẻ từ 2 đến nhiều lần
trong năm. Khi sinh sản, trứng được giữ ở các
chân bơi, sau một thời gian trứng sẽ nở ra ấu
trùng và ấu trùng sẽ trải qua các giai đoạn biến
thái để trở thành tôm con.
IV. MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÙNG
PHÂN BỐ TÔM HÙM
Hầu hết các giống có thành phần loài phong phú
thuộc họ tôm hùm Gai (Palinuridae) đều tập trung ở
vùng biển nhiệt đới. Chúng sống từ vùng trung triều
đến vùng biển sâu tới 3.000 m, thành bầy đàn trong
hang để bảo vệ nhau và trốn tránh kẻ thù. Tìm hiểu
về môi trường vùng phân bố tôm hùm sẽ giúp hiểu

được những đặc điểm sinh thái tự nhiên của chúng,
từ đó lựa chọn được vùng nuôi có đặc điểm môi
trường thích hợp, đồng thời điều chỉnh các thông số
như độ sâu, độ mặn, theo từng giai đoạn phát triển,
giúp tôm thích nghi tốt với điều kiện nuôi lồng.
1. Yếu tố nền đáy
Cấu tạo nền đáy là một trong những yếu tố môi
trường quan trọng, quyết định sự phân bố của tôm
hùm, đặc biệt là tôm hùm trưởng thành. Tôm hùm
thường tập trung chủ yếu trong các hang hốc có nền
đáy là đá, san hô, đá tảng, bùn, cát hoặc thảm thực
vật (tảo bẹ).
Riêng tôm hùm Bông (Panulirus ornatus), tôm
hùm Đá (P. homarus), tôm hùm Đỏ (P. longipes) và
tôm hùm Sen (P. versicolor) thường sinh sống ở
những hang đá tảng và hang đá nhỏ có ánh sáng rọi
tới; tôm hùm Tre (P. polyphagus) lại thích vùi mình
dưới cát vì thế hay gặp loài này phân bố ở những
vùng đáy cát, đá cuội có rong phát triển.
2. Yếu tố độ sâu
Độ sâu có ảnh hưởng đến sự phân bố của các
loài tôm hùm trong tự nhiên.
Ở giai đoạn tôm con, chúng phân bố ở độ sâu 1-
5m nước, nhưng đến giai đoạn trưởng thành thì hầu
hết các loài tôm hùm phân bố ở độ sâu trong khoảng
từ 5-100m nước, cá biệt cũng gặp ở độ sâu đến 180-
400m như loài Panulirus delagoae.
Nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, ở vùng
biển miền Trung Việt Nam, tôm hùm con bắt gặp ở
1 2

độ sâu từ 0,5-5m nước. Tuy nhiên, trong cùng một
vùng nhưng các loài khác nhau lại sống ở độ sâu
khác nhau, theo mức độ tăng dần như sau: tôm hùm
Sỏi (Panulirus stimpsoni); tôm hùm Bông (P.
ornatus); tôm hùm Đá nhỏ (P. homarus); tôm hùm
Đỏ (P. longipes), khoảng 4-6m sâu. Do vậy, khi
ương nuôi tôm hùm cần chú ý đến độ sâu khi đặt
lồng, thường ở 2-3m.
Giai đoạn trưởng thành, tôm hùm phân bố ở độ
sâu trên 10m cho tới 35-50m, thường là các rạn san
hô, ven bờ và hải đảo.
3. Yếu tố nhiệt độ nước
Nhiệt độ nước là một trong những tham số sinh
thái quan trọng, quyết định sự phân bố của các
giống tôm hùm trong họ Palinuridae. Hầu hết các
loài thuộc giống Panulirus sống ở vùng nước ấm,
nhiệt độ dao động từ 20-30
0
C, trung bình khoảng
25
0
C, đó là những vùng thềm lục địa, vĩ độ thấp
khoảng 35-40
0
.
Ở vùng biển miền Trung nước ta, những số liệu
điều tra cho thấy, nhiệt độ nước trong vùng phân bố
tự nhiên của tôm hùm Bông nhỏ, dao động từ 24-
31
0

C; còn của tôm hùm trưởng thành từ 26-29
0
C
vào mùa hè và khoảng 22-27
0
C vào mùa đông. Hơn
nữa, khi nhiệt độ nước thay đổi đột ngột, chẳng hạn
như tăng lên 3-5
0
C thì hầu như tôm hùm con các
loài đều bị chết, khi giảm nhiệt độ nước xuống 5
0
C
pha lột xác của tôm hùm sẽ chậm dần và dừng lại
hoàn toàn.
4. Độ mặn
Độ mặn là một trong những yếu tố gây ảnh
hưởng mạnh đến đời sống của tôm hùm, đặc biệt là
tôm con.
Những số liệu điều tra cho thấy vùng phân bố
tôm hùm con ngoài tự nhiên có độ mặn dao động
trong khoảng 33-34‰. Sự thay đổi đột ngột độ
mặn (từ 5-15‰) sẽ làm hoạt động bắt mồi của tôm
con giảm từ 30-90%, khi độ mặn giảm xuống đến
20-25‰ và kéo dài 3-5 ngày sẽ gây nên tình trạng
chết từ từ ở tôm con. Độ mặn vùng biển có tác
động đến hoạt động bắt mồi, khả năng điều hòa áp
suất thẩm thấu ở tôm hùm con, từ đó những thay
đổi bất lợi hoặc kéo dài thời gian lột xác hoặc gây
chết đối với chúng.

Số liệu điều tra ở khu vực miền Trung Việt Nam
cho thấy, tôm hùm trưởng thành sống ngoài khơi ở
độ sâu dưới 10m nước, độ mặn dao động từ 30-5‰.
5. Nguồn thức ăn tự nhiên
1 2
Tôm hùm được coi là những động vật ăn mồi
sống chủ yếu trong hệ sinh vật đáy ở biển. Chúng
bắt mồi vào ban đêm nơi có nguồn thức ăn phong
phú gồm các loài liên quan với rạn san hô và có ảnh
hưởng trực tiếp tới cấu trúc chung của hệ sinh thái
hoặc một vùng sinh thái, kể cả thành phần loài và
độ phong phú của các sinh vật là mồi của chúng.
Ở nước ta, nghiên cứu của một số tác giả cho
thấy, thành phần động thực vật thường gặp ở vùng
tôm hùm phân bố bao gồm: các động vật thuộc giáp
xác nhỏ (tôm, cua), thân mềm (sò, vẹm, ốc), cầu
gai, sao biển, một số loài cá (cá đáy, cá rạn san hô),
huệ biển, hải sâm và các loài rong, rêu.

PHẦN 2
KỸ THUẬT KHAI THÁC VÀ
VẬN CHUYỂN TÔM HÙM GIỐNG
I. KHAI THÁC BẰNG LƯỚI
Ngư cụ khai thác là lưới trủ:
+ Mắt lưới có kích cỡ 5mm (2a =5mm).
+ Kích thước lưới phụ thuộc vào quy mô khai thác.
+ Ðộ dài lưới dao động khoảng 100 - 150m, độ
cao 4 - 6m.
+ Các hoạt động khai thác được tiến hành vào
ban đêm.

+Sử dụng ánh sáng đèn neon có cường độ
khoảng 1000 - 2000W.
+ Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền, thời
gian vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 - 5 tiếng (vào
1 2
khoảng 12 - giờ khuya) lưới được kéo lên thuyền
lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống
dính lưới. Ngay sau đó, lưới được giăng tiếp xuống
biển, vào khoảng 4 giờ sáng lưới được kéo lên lần
2. Một đêm khai thác thường kết thúc vào khoảng 5
giờ sáng của ngày hôm sau.
+ Những tôm hùm giống mắc lưới được gỡ ra
rất nhanh và được lưu giữ trong các thùng nhựa
tròn, có thể tích 4 lít, khoảng 100-150 con/thùng,
có máy sục khí. Kích cỡ tôm giống thu được khá
đồng đều, chúng trong suốt và chiều dài giáp đầu
ngực chỉ dao động từ 7 - 8mm/con và trọng lượng
từ 0,25 - 0,35 g/con.
+ Khi thuyền cập bến, tôm hùm giống được
chuyển sang các thùng xốp với nước biển sạch.
Kích thước của thùng là 30 x 50 x 25 cm, dưới đáy
rải một lớp cát mỏng 5 -7mm. Mật độ lưu giữ
khoảng 200 - 300 con/thùng và có sục khí liên tục.
II. KHAI THÁC BẰNG BẪY
Loại bẫy được làm bằng lưới thường có chiều
dài 60cm và đường kính khoảng 40cm. Riêng san
hô được sử dụng làm bẫy có nhiều kích cỡ khác
nhau tùy thuộc vào từng loại san hô.
Ða số san hô tảng được chọn là những khối có
trọng lượng khoảng 2-5kg, các lỗ trên bề mặt được

khoan cách nhau khoảng 10 - 15cm, kích thước
mỗi lỗ từ 2 - 2,5cm. Ðối với bẫy được làm bằng
những gỗ cây cũng được khoan lỗ tương tự như đối
với san hô.
Các loại bẫy được thả xuống nước ở độ sâu
khoảng 4-5 m vào tháng 11 hàng năm, nghĩa là vào
thời gian xuất hiện tôm hùm giống. Sau khoảng 3-5
ngày, khi bẫy đã ổn định, ngư dân sẽ thu bắt tôm
hùm hàng ngày vào các buổi sáng bằng cách giũ
bẫy vào trong vợt lưới hoặc bắt chúng ra bằng tay từ
các lỗ đã khoan. Kích cỡ con giống thu được
khoảng 7,5 - 10 mm CL/con và trọng lượng xấp xỉ
0,3 - 1 g/con. Vào cuối tháng 5, bẫy cũng được thu
lên bờ và cất giữ ở nơi thoáng mát để sử dụng cho
mùa khai thác năm sau.
Với cách khai thác này, trong một diện tích thả
bẫy khoảng 50 x 100m có thể thu gom được khoảng
50 - 200 con/ngày vào những tháng đỉnh cao như
tháng 1 hoặc tháng 2 trong năm. Và tôm giống cũng
được giữ trong các thùng xốp hoặc xô nhựa với
nước biển có sục khí.
III. KHAI THÁC BẰNG LẶN BẮT
1 2
Ðây là loại hình khai thác truyền thống của ngư
dân miền Trung. Năm 1998 trở về trước, tôm hùm
giống được khai thác chỉ bằng lặn bắt. Hình thức
này đảm bảo con giống khỏe, với kích cỡ lớn từ 12 -
15 mm CL/con và trọng lượng 7 - 9 g/con. Song số
lượng con giống được khai thác mỗi ngày tối đa chỉ
được 100 - 150 con/thuyền/10 ngày/5 người vào

mùa khai thác chính trong năm. Vào các tháng sau
số lượng khai thác chỉ đạt 3 - 10% so với vụ chính.
IV. VẬN CHUYỂN TÔM HÙM GIỐNG
Tôm hùm giống đã được vận chuyển bằng nhiều
phương pháp khác nhau từ các vùng khai thác đến
các vùng nuôi dọc ven biển miền Trung. Từ những
số liệu điều tra cho thấy các hình thức vận chuyển
đều đảm bảo tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt
khoảng trên 80%.
1. Phương pháp vận chuyển khô
Thường được sử dụng để vận chuyển con giống
lớn khoảng 30 - 100 g/con. Dụng cụ vận chuyển là
các thùng xốp có kích thước 30 x 40 x 25 cm; hoặc
60 x 70 x 45 cm tùy thuộc vào số lượng giống cần
vận chuyển. Mật độ tôm vận chuyển khoảng 150 -
300 con/thùng xốp. Thời gian vận chuyển khoảng 3
- 7 giờ với nhiệt độ được duy trì 21 - 22
0
C bằng đá
cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín.
Tôm được giữ độ ẩm của nước biển bằng rong hoặc
bằng khăn vải dày và chuyên chở bằng xe máy hoặc
xe ôtô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt 90 - 95%.
2. Phương pháp vận chuyển nước
Ðược sử dụng để vận chuyển con giống nhỏ, từ
post-puerulus (tôm trắng) đến juveniles (tôm bò
cạp). Trọng lượng của cỡ giống này chỉ xấp xỉ 0,25
- 1 g/con, và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột
của môi trường sống.
Dụng cụ vận chuyển cũng là các thùng xốp có

kích cỡ 30 x 50 x 25 cm hoặc 45 x 60 x 35 cm.
Dưới đáy thùng được phủ một lớp rong câu tươi
hoặc một lớp cát dày 0,5 - 1cm. Ðổ nước biển sạch
vào thùng xốp cao ngập cát hoặc rong khoảng 5
-7cm và sục khí trong suốt thời gian vận chuyển.
Nhiệt độ nước được duy trì 21 - 22
0
C với thời gian
vận chuyển từ 5 - 15 giờ; và khoảng 23 - 25
0
C với
thời gian vận chuyển 3 - 5 giờ bằng đá cây lạnh giữ
trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín.
Tôm giống được đưa vào thùng xốp với mật độ
300 - 400 con/thùng nhỏ hoặc 700-1000 con/thùng
lớn. Song hầu hết các phương tiện vận chuyển bằng
xe máy thường sử dụng các thùng nhỏ vì tính gọn,
nhẹ và dễ dàng xử lý trên đường vận chuyển. Thùng
1 2
lớn được sử dụng khi vận chuyển giống với số
lượng lớn bằng xe ô tô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển
thường đạt 95 - 97%.
3. Chất lượng và tỷ lệ sống của con giống sau
vận chuyển
Chất lượng của con giống nuôi phụ thuộc khá
lớn vào hình thức khai thác và thời gian lưu giữ tôm
sau khi khai thác; phụ thuộc vào cỡ giống, thời gian
lưu giữ và kỹ thuật lưu giữ.
1 2
PHẦN 3

KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI NÂNG CẤP
TÔM HÙM GIỐNG (Panulirus ornatus)
Ðể giải quyết việc con giống ngày càng khan
hiếm trong khi chưa tạo được tôm hùm giống bằng
con đường sinh sản nhân tạo thì việc ương nâng cấp
tôm hùm giống từ tôm trắng, trắng hồng, tôm đen
lên tôm giống cỡ lớn (100g/con trở lên) nhằm tăng
khả năng sống tự nhiên của tôm hùm là hết sức
quan trọng và đang được thực hiện ở nhiều địa
phương trong các nước.
I. CHỌN ĐỊA ĐIỂM ƯƠNG NUÔI
- Nơi có độ mặn cao, tương đối ổn định nằm
trong khoảng từ 30 – 35‰, ít bị ảnh hưởng của lũ, lụt.
- Có nguồn nước trong sạch, nước lưu thông tốt,
ít bị ảnh hưởng bởi chất thải công nghiệp, nông
nghiệp và đô thị.
- Là nơi kín gió, có độ sâu phù hợp cho việc xây
dựng và quản lý lồng nuôi, mức nước tối thiểu khi
nước thủy triều xuống là 1,5 m.
- Chất đáy là cát; cát bùn; hoặc chất đáy cát, cát
bùn có lẫn đá san hô nhỏ, vỏ động vật thân mềm.
- Gần nguồn giống, thức ăn và thuận tiện đường
giao thông.
II. THIẾT KẾ XÂY DỰNG LỒNG NUÔI
1. Kiểu lồng hở (bè)
Là loại lồng được cố định bởi các cọc gỗ găm
xuống đất.
- Kích thước lồng nuôi phù hợp là: (3 x 3 x2) m;
(3 x 2 x2) m, chiều cao cọc lồng phụ thuộc vào độ
sâu tại nơi đặt lồng, tốt nhất nên đặt tại nơi có độ

sâu 1,5 đến 2 m (lúc thủy triều thấp nhất).
2. Kiểu lồng kín (lồng di động)
- Loại lồng này thích hợp ở vùng nhiều sóng gió,
vùng có sóng gió theo mùa. Kiểu lồng này được áp
dụng phổ biến trong việc ương nâng cấp tôm hùm
giống hiện nay.
- Kích thước lồng thường nhỏ hơn lồng hở để
thuận tiện cho việc di chuyển. Kích thước lồng
thường được sử dụng trong ương nuôi là:
1 2
(0,7x0,8x1,2)m; (1x1x1,2)m; (1,5x1,5x1,2)m;
(2 x 2 x 1,2m);
- Ðối với việc ương nuôi theo qui mô nhỏ, giai
đoạn đầu (1 - 2 tháng đầu) có thể sử dụng lồng có
kích thước nhỏ hơn (từ 0,5-1,0 m
2
) sau đó san ra
lồng nuôi có kích thước lớn hơn.
- Lưu ý: dù là kiểu lồng kín hay lồng hở (bè)
cũng đều phải đặt lồng cách đáy ít nhất là 0,5m.
III. THẢ TÔM
1. Chọn giống
Ðể chọn được giống tốt ta cần chú ý một số đặc
điểm sau:
- Giống nuôi tốt nhất nên mua tại địa phương
nhằm tránh sự khác biệt về điều kiện môi trường,
thời gian vận chuyển xa làm yếu tôm và tránh con
giống đã lưu giữ dài ngày.
- Giống được đánh bắt một cách tự nhiên, không
qua việc sử dụng thuốc nổ hay bất kỳ một loại hóa

chất gây mê nào khác.
- Tôm giống phải có hình dáng cân đối, đầy đủ
các phần phụ, không trầy xước, thương tổn, có màu
sắc tươi sáng tự nhiên, tôm khoẻ mạnh, không mang
mầm bệnh.
- Chọn giống có kích cỡ đồng đều, hoặc phân cỡ
tôm để thả nuôi, tránh thả tôm có nhiều kích cỡ vào
một lồng nuôi.
- Nên chọn con giống đánh bắt theo phương
pháp lặn hoặc bằng bẫy.
2. Cách vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi
- Có hai phương pháp vận chuyển: vận chuyển
khô và vận chuyển nước.
- Ðối với tôm hùm cỡ nhỏ, để đảm bảo tôm có tỷ
lệ sống cao nên sử dụng phương pháp vận chuyển
hở bằng thùng xốp và có sục khí bằng máy thổi ô xi.
3. Thả tôm
Khi tôm vận chuyển đến lồng nuôi, tiến hành
thuần nhiệt độ cho đến khi gần bằng với nhiệt độ
môi trường nuôi. Cách làm: cho dần dần nước từ
môi trường nuôi vào dụng cụ chứa tôm sau 30 - 60
phút để tôm hồi phục sức khỏe hoàn toàn rồi mới
thả tôm ra.
4. Mật độ nuôi
Ðối với tôm trắng có thể thả với mật độ từ 50 -
60con/m
2
.
- Sau 60 ngày nên san thưa tôm ra với mật độ
còn 15 - 20 con/m

2
.
1 2
- Sau 90 - 100 ngày nên san thưa với mật độ 12 -
15 con/m
2
. Chú ý phân nuôi theo cỡ tôm.
IV. THỜI VỤ THẢ NUÔI
Từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau là đã có nguồn
tôm trắng giống xuất hiện nhiều, vào thời gian này
ta bắt đầu thả giống là được.
Tuy nhiên do tôm hùm giống rất nhạy cảm với sự
biến động môi trường và thích nghi nhiệt độ không
cao, do vậy nên ương tôm trong mùa bấc nhằm tránh
gây sốc cho tôm để đảm bảo tỷ lệ sống cao. Tốt nhất
nên ương từ tháng 1 đến tháng 3 hàng năm.
V. CHĂM SÓC VÀ QUẢN LÍ
- Thức ăn: Tôm hùm là loại tạp ăn, thức ăn chủ
yếu là cá tạp, cua, ghẹ, cầu gai, và các loại nhuyễn
thể. Trong nuôi nhân tạo nên chọn những thức ăn
tươi và chất lượng cao như cua, ghẹ, tép, ruốc,
hàu, và băm nhỏ cho phù hợp với khả năng bắt
mồi của tôm.
- Chủ yếu là cho ăn tươi, nên cho tôm hùm ăn 2
lần/ngày vào buổi sáng và chiều tối.
- Lượng cho ăn hằng ngày bằng 15 - 20%
trọng lượng đàn tôm (khoảng 5 - 7g/100 con tôm
mới thả nuôi).
- Quản lí: Hằng ngày lặn kiểm tra lồng, kiểm tra
tình trạng tôm, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay

thiếu để từ đó có hướng giải quyết kịp thời.
- Ðịnh kỳ 7 - 10 ngày vệ sinh lồng nuôi một lần
để đảm bảo môi trường sạch sẽ thông thoáng.
- Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp trên
cơ sở dựa vào 3 yếu tố là môi trường nuôi, sức khỏe
tôm và quản lý mầm bệnh.
Nuôi tôm hùm trong lồng
1 2
PHẦN 4
KỸ THUẬT NUÔI TÔM HÙM LỒNG
I. CHỌN ĐỊA ĐIỂM ĐẶT LỒNG NUÔI
Chọn địa điểm đặt lồng nuôi tôm hùm là khâu
đầu tiên rất quan trọng. Ðịa điểm chọn đặt lồng nuôi
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Nơi có độ mặn cao, tương đối ổn định nằm
trong khoảng từ 30-36‰, ít bị ảnh hưởng bởi lũ lụt,
những vùng biển có nhiệt độ từ 24 -32
0
C, tốt nhất là
từ 26-30
0
C.
- Có nguồn nước trong sạch, ít bị ảnh hưởng bởi
chất thải công nghiệp, nông nghiệp và đô thị.
- Là nơi kín gió, có độ sâu phù hợp cho việc xây
dựng và quản lí lồng nuôi, mức nước tối thiểu khi
triều xuống thấp nhất phải đạt 2m, chất đáy là cát;
cát bùn; hoặc chất đáy cát, cát bùn có lẫn đá san hô
nhỏ, vỏ động vật thân mềm.
- Gần nguồn giống, thức ăn và thuận tiện đường

giao thông.
II. THIẾT KẾ XÂY DỰNG LỒNG NUÔI
Tùy vào điều kiện từng vùng biển mà có thể thiết
kế các kiểu lồng nuôi khác nhau. Hiện nay có 2 kiểu
lồng nuôi phổ biến: kiểu lồng hở và kiểu lồng kín.
1. Kiểu lồng hở
Là loại lồng được cố định bởi các cọc gỗ găm
xuống đất.
* Nguyên vật liệu và cách xây dựng
- Kích thước lồng nuôi phù hợp là: 4 x 4(m); 3 x
4(m) và 4 x 5(m), chiều cao cọc làm lồng phụ thuộc
1 2
vào độ sâu tại nơi đặt lồng, tốt nhất nên đặt tại nơi
có độ sâu 2 - 5m (lúc thủy triều thấp nhất).
- Nguyên vật liệu và cách làm:
+ Cọc gỗ: có thể dùng gỗ tròn f =15-20 cm hoặc
gỗ xẻ (gỗ 5 x 10 cm), chiều dài cọc gỗ phụ thuộc
vào độ sâu nơi đặt lồng (cọc gỗ phải có chiều dài
cao hơn độ sâu cao nhất khi triều cường tại nơi đặt
lồng khoảng 0,5m). Cọc được vót nhọn một đầu và
được cắm chặt xuống đất, khoảng cách giữa 2 cọc
từ 1,5 - 2m.
+ Nẹp ngang thường dùng gỗ tròn có f = 12 -15
cm hoặc dùng gỗ xẻ (gỗ 4 x 6 cm), nẹp cách nẹp 1,5
đến 2m.
+ Sắt làm khung lồng: dùng sắt tròn (sắt rằn) có
f = 18 -20 mm, được làm thành các khung hình chữ
nhật, khoảng cách giữa 2 thanh sắt từ 1 -1,2 m,
chiều cao (rộng) của khung sắt làm thân lồng cao từ
1 -2m. Lưới lồng được bệnh trực tiếp vào các khung

sắt sau đó lắp ghép lại và được cố định bởi khung
cọc gỗ.
+ Lưới lồng: Hiện nay, phổ biến là làm lồng
theo kiểu lồng 1 lớp hoặc 2 lớp, lưới lồng ghép sát
vào nhau. Vật liệu bằng lưới nhợ hoặc bằng lưới
PE, kích thước mắt lưới 2a = 25 -35mm (tùy theo
cỡ giống thả nuôi), đối với tấm lưới đáy còn làm
thêm một lớp lưới ruồi nhằm đảm bảo thức ăn
không bị lọt ra ngoài khi cho ăn. Ngoài ra để đảm
bảo an toàn, cần gia cố thêm một lớp lưới cước
(cước 150 -180), kích thước mắt lưới 2a = 35 -
40mm tại những phần có làm khung sắt. Những
lồng sử dụng để ương tôm hùm giống thì kích thước
mắt lưới nhỏ hơn sao cho đảm bảo tôm không chui
ra được ( 2a < 5mm).
+ Mặt trên của lồng phải có nắp đậy bằng lưới
nhằm tránh thất thoát tôm do bắt trộm hay do triều
khi triều cao ngập lồng nuôi. Trong những ngày
nắng nóng, lồng nuôi xây dựng ở những vùng nước
nông phải tiến hành che mát cho tôm trên mặt lồng
bằng các vật liệu như lá dừa, cót, hoặc dùng nắp
lồng bằng lưới ruồi để tránh tôm hoạt động quá
nhiều hay tôm bị đóng rong.
2. Kiểu lồng kín (lồng di động)
Loại lồng này thích hợp ở những vùng nhiều
sóng gió, độ sâu cao.
- Kích thước lồng kín thường nhỏ hơn lồng hở
để thuận tiện cho việc di chuyển.
- Kích thước lồng phù hợp theo: dài x rộng x cao
tương ứng là: 3 x 2 x 2 (m) hoặc 3 x 3 x 2 (m), được

thiết kế giống như một hình hộp chữ nhật được tạo
1 2
bởi các khung sắt hình chữ nhật, trên phần nắp lồng
được đặt một ống nhựa f = 10 -15 cm để thuận tiện
trong việc cho ăn.
- Vật liệu sắt, cách làm khung, vật liệu lưới và
cách bệnh lưới vào khung sắt tương tự như lồng hở.
- Loại lồng này không cố định bằng cọc, có thể di
chuyển một cách dễ dàng từ nơi này đến nơi khác.
- Trong trường hợp tại nơi nhiều sóng gió, loại
lồng này phải được cố định bằng các dây neo.
- Dù là kiểu lồng kín hay lồng hở cũng đều
phải đặt lồng cách đáy ít nhất là 0,5m.
- Nhược điểm của loại lồng này là khó thao tác,
khó chăm sóc quản lí hơn kiểu lồng hở.
3. Lồng ương tôm giống
Lồng ương tôm giống chủ yếu thiết kế theo kiểu
lồng kín, khung lồng được làm bằng sắt (f =16 -20),
kích thước lồng phổ biến là 2 x 2 x 2 m, lưới lồng được
làm 2 lớp với kích thước mắt lưới 2a = 2-3 mm.
4. Bè nuôi
Hiện nay, do hiện tượng ô nhiễm môi trường
ngày càng tăng nên việc nuôi tôm hùm bằng bè trở
nên ưu thế hơn lồng cố định hay lồng chìm, tuy
nhiên việc nuôi tôm hùm bằng bè cần lưu ý một số
điểm sau:
- Vùng đặt bè phải kín gió, vật liệu làm bè như
phao, gỗ, dây neo phải chắc chắn tránh bè bị chao
đảo nhiều.
- Cần phải che mát lồng bằng các vật liệu như:

bạc, cót,…
III. THẢ TÔM
1. Chọn giống thả nuôi
Hiện nay, trong nước cũng như trên thế giới
chưa sản xuất được giống tôm hùm, nguồn giống
phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt tự nhiên. Kích cỡ
giống thường không đồng đều, con giống được đánh
bắt bằng nhiều phương tiện khác nhau kể cả việc sử
dụng các loại thuốc gây mê, thuốc nổ, thời gian
lưu giữ dài ngày và kỹ thuật lưu giữ không tốt nên
khi nuôi thường dẫn đến một hậu quả là tôm thường
chết nhiều vào giai đoạn đầu thả nuôi, tỷ lệ sống
thấp và tôm chậm lớn,
Ðể chọn được giống tốt ta cần chú ý một số vấn
đề sau:
- Giống nuôi tốt nhất nên mua tại địa phương
nhằm tránh sự khác biệt về điều kiện môi trường,
1 2
thời gian vận chuyển xa làm yếu tôm và tránh con
giống đã được lưu giữ dài ngày. (Một số điểm để
nhận biết tôm giống đã lưu giữ dài ngày là: chạt
đuôi bị phòng, bị tổn thương; các phụ bộ bị tổn
thương đã chuyển sang màu đen, màu sắc của tôm
trở nên đen sậm, vỏ không còn bóng láng và tôm
hoạt động yếu ớt, chậm chạp.)
- Giống được đánh bắt một cách tự nhiên không
qua việc sử dụng thuốc nổ hay bất kỳ một loại hóa
chất gây mê nào khác (loại tôm này thường còn
nguyên vẹn các phụ bộ nhưng màu sắc của tôm
thường chuyển sang màu hồng nhợt nhạt, phần đầu

ngực và phần thân dãn ra hơn bình thường trông
giống như tôm bị bệnh lỏng đầu do nhiệt độ nước
cao hay độ mặn hạ thấp, tôm hoạt động chậm chạp
yếu ớt; việc đánh bắt tôm tại các vùng biển có độ
mặn thấp do ảnh hưởng của mưa lũ gây ra cũng có
hiện tượng tương tự). Khi mua phải loại tôm này
tôm nuôi sẽ chết từ rải rác đến hàng loạt vào giai
đoạn đầu thả nuôi.
- Tôm giống phải có hình dáng cân đối, đầy đủ
các phần phụ, không trầy sước, thương tổn, có màu
sắc tươi sáng tự nhiên, tôm khoẻ mạnh, không mang
mầm bệnh.
- Chọn giống có kích cỡ đồng đều, cùng giới tính
để nuôi trong cùng một lồng, kích cỡ giống nuôi có
thể dao động từ 100 -500g/con. Trong trường hợp sử
dụng nguồn con giống có kích cỡ nhỏ như dạng tôm
bò cạp ta phải tiến hành ương nuôi sau đó tuyển chọn
lại và đưa vào nuôi thương phẩm.
2. Cách vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi
Tôm hùm có phương thức hô hấp tương tự như
các loài cua, ghẹ, chúng có khả năng sử dụng được
nguồn oxy trong không khí và có khả năng chịu
được ngưỡng oxy thấp.
Có 2 phương pháp vận chuyển giống là vận
chuyển nước có sục khí và phương pháp vận chuyển
khô:
+ Phương pháp vận chuyển nước: Là phương
pháp vận chuyển sử dụng nước có sục khí để cung
cấp oxy, nhiệt độ nước trong quá trình vận chuyển
là 22 -25

0
C bằng cách cho đá lạnh vào các bọc nhựa
sau đó bỏ vào dụng cụ chứa. Mật độ vận chuyển
phụ thuộc vào kích cỡ tôm và thời gian vận chuyển.
Phương pháp này thường áp dụng khi thời gian vận
chuyển trên 2 giờ.
+ Phương pháp vận chuyển khô: Cách vận
chuyển của phương pháp này là tiến hành sốc nhiệt
ở nhiệt độ 20 -22
0
C, sau đó buộc tôm vào trong các
khăn lông đã nhúng nước và sắp theo từng lớp vào
1 2
thùng xốp đã chuẩn bị sẵn sao cho các lớp tôm
không chồng lên nhau, chú ý giữa các lớp tôm phải
rải thêm đá lạnh (cũng bằng cách bỏ vào trong các
túi nhựa sao cho vừa đủ) đảm bảo giữ nhiệt độ ổn
định từ 22 - 25
0
C, phương pháp này áp dụng cho
thời gian vận chuyển dưới 2 giờ.
3. Thả tôm
Khi tôm vận chuyển đến lồng nuôi, tiến hành
nâng dần nhiệt độ lên cho đến khi gần bằng với
nhiệt độ môi trường nuôi, bằng cách cho dần dần
nước từ môi trường nuôi vào dụng cụ chứa tôm sau
đó thả tôm vào các giai đã đặt sẵn trong lồng sau 30
-60 phút để tôm hồi phục sức khỏe hoàn toàn ta mới
thả tôm ra.
Trong quá trình thả tôm ta phải thả tôm đực

riêng, cái riêng và thả theo từng nhóm kích cỡ,
không nên thả chung.
4. Mật độ nuôi
Tôm hùm chủ yếu sống ở tầng đáy, nên mật độ
nuôi được tính theo diện tích đáy lồng. Tùy vào
kích cỡ tôm, mức độ đầu tư, điều kiện môi trường
mà ta có thể nuôi với mật độ cao hay thấp. Ðối với
tôm giống có kích cỡ từ 100g/con trở lên, có thể thả
nuôi với mật độ từ 8 -10 con/m
2
.
IV. THỜI VỤ THẢ NUÔI
Trong tự nhiên tôm hùm được khai thác quanh
năm nhưng tập trung lượng giống nhiều vào các
tháng 8 -12 hàng năm, nên vào thời gian nay chúng
ta nên tập trung thả giống nuôi.
V. CHĂM SÓC VÀ QUẢN LÍ
Chăm sóc quản lí là khâu đặc biệt quan trọng
ảnh hưởng đến hiệu quả của suốt quá trình nuôi.
- Thức ăn và cách cho ăn:
+ Tôm hùm là loại tạp ăn, thức ăn chủ yếu là cá
tạp, cua, ghẹ, cầu gai,… và các loại nhuyễn thể.
+ Chủ yếu là cho ăn tươi, nên cho tôm hùm ăn 2
lần/ngày vào buổi sáng và chiều tối.
+ Lượng cho ăn hằng ngày bằng 15 - 20%
trọng lượng đàn tôm (khoảng 5 - 7g/100 con tôm
mới thả nuôi).
- Quản lí: Hằng ngày lặn kiểm tra lồng, kiểm tra
tình trạng tôm, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay
thiếu để từ đó có hướng giải quyết kịp thời.

- Ðịnh kỳ 7 - 10 ngày vệ sinh lồng nuôi một lần
để đảm bảo môi trường sạch sẽ thông thoáng.
1 2
- Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp trên
cơ sở dựa vào 3 yếu tố là môi trường nuôi, sức khỏe
tôm và quản lý mầm bệnh.
VI. THU HOẠCH
Sau thời gian nuôi từ 12-15 tháng, tùy vào cỡ
giống, mật độ nuôi và mức độ đầu tư, tôm có thể đạt
khối lượng từ 1,2 kg/con trở lên. Lúc này tiến hành
thu tỉa những con có khối lượng lớn, cứng vỏ,
không mang trứng vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
Phương pháp vận chuyển đến nơi tiêu thụ tương tự
như cách vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
PHẦN 5
PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO
TÔM HÙM
1. Bệnh đen mang
- Biểu hiện: Mang tôm có những điểm đen, các
tơ mang chuyển màu đen, mang thối rữa toàn bộ.
Quan sát bằng mắt thường thấy những búi sán lá
đơn chủ trắng nhỏ như sợi tóc. Sán lá sẽ đục thủng
mang gây hoại tử tế bào. Thân tôm cũng xuất hiện
những đốm đen, mắt tôm cũng có thể chuyển sang
màu đen. Bệnh xuất hiện ở cả tôm con và tôm
trưởng thành.
- Nguyên nhân: Mang tôm bị đen là do sắc tố
Melanin phát triển tại các mô của mang bị phá hủy
do các tác nhân: Ký sinh trùng sán lá đơn chủ (xuất
hiện nhiều sau các cơn mưa), nấm Fusarium, vi

khuẩn dạng sợi Vibrio, nồng độ khí độc Amoniac
và Sulfur hydro trong môi trường cao.
1 2
- Hậu quả: Tôm bỏ ăn, hô hấp kém, nằm dưới
đáy lồng và chết hàng loạt.
- Cách phòng trị:
+ Tắm cho tôm bằng Formol với nồng độ từ 15 -
25ml/m
3
nước trong 10 - 15 phút, có sục khí. Thời
gian chữa trị từ 5 - 7 ngày.
+ Tắm cho tôm bằng Sulfat đồng, nồng độ
0,5gr/m
3
nước trong 5 - 7 phút, có sục khí. Thời
gian chữa trị từ 5 - 7 ngày. Lưu ý tôm bệnh sau khi
xử lý thuốc cần được thả nuôi ở một lồng khác.
+ Treo những túi vải có chứa vôi ở giữa lồng
tôm hoặc đặt ở những vùng đáy lồng nuôi bị ô
nhiễm. Vôi có tác dụng diệt ký sinh trùng, nấm, vi
khuẩn tốt.
+ Có thể sử dụng một số kháng sinh như
Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciprofloxacin để phòng
trị bệnh, bằng cách trộn vào thức ăn với lượng từ 30
- 50mgr/kg thức ăn. Thời gian điều trị từ 5 - 7 ngày.
2. Bệnh đốm trắng trên vỏ
- Hiện tượng: Trên vỏ tôm và dưới giáp đầu
ngực xuất hiện những đốm trắng.
- Nguyên nhân: Cần phân biệt rõ nguyên nhân:
+ Nếu tôm có đốm trắng song vẫn khoẻ mạnh,

hoạt động bình thường thì không phải do dịch bệnh.
Nguyên nhân là do hàm lượng Canci, Manhê trong
nước cao. Đây không phải là hiện tượng bệnh, tôm
lột xác các đốm trắng sẽ mất đi.
+ Trường hợp tôm nhiễm nấm, vi khuẩn đặc biệt
nhiều ở vùng đáy bị ô nhiễm sẽ gây ra bệnh đốm
trắng trên vỏ.
- Hậu quả: Tôm giảm ăn, giảm tăng trưởng,
không lột xác được hoặc chu kỳ lột xác kéo dài, tôm
chết rải rác.
- Cách phòng trị:
+ Tắm cho tôm bằng Sulfat đồng với nồng độ
0,5gr/m
3
, sục khí trong vòng từ 5 - 7 phút. Thời gian
chữa trị từ 5 - 7 ngày.
+ Treo túi vải đựng vôi để phòng và trị bệnh.
3. Bệnh đỏ thân
- Hiện tượng: Mang tôm và thân tôm đều chuyển
sang màu hồng. Bệnh xuất hiện ở tôm con và tôm
trưởng thành.
- Nguyên nhân: Nước và đáy khu vực lồng, bè
nuôi bị ô nhiễm nặng, thức ăn thừa quá nhiều, công
tác vệ sinh kém; nhiễm vi khuẩn Vibrio.
1 2
- Hậu quả: Tôm bỏ ăn, kém hoạt động, giảm
tăng trưởng và chết hàng loạt.
- Cách phòng trị:
+ Vệ sinh lồng, bè nuôi sạch sẽ, tạo môi trường
nước thông thoáng, giảm lượng khí độc.

+ Tắm cho tôm trong dung dịch Oxytetracyline
với nồng độ từ 0,5 - 2gr/m
3
nước. Thời gian tắm 15
phút. Thời gian chữa trị từ 5 - 7 ngày.
+ Trộn thuốc kháng sinh Oxytetracyline cộng
với dầu thực vật vào thức ăn với trọng lượng
50mgr/kg thức ăn. Cho tôm ăn liên tục 5 - 7 ngày.
+ Có thể sử dụng kháng sinh mới có độ nhạy cao
như Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciprofloxacin với
lượng 30 - 50mgr/kg thức ăn liên tục trong 5 - 7 ngày.
4. Bệnh trắng râu
- Hiện tượng: Râu 1 chuyển từ màu nâu sang
màu vàng, hồng rồi sang trắng. Bệnh này xuất hiện
phổ biến ở giai đoạn tôm con.
- Nguyên nhân: Tôm con bị nhiễm nấm Lagenidium
sp, Fusarium sp.
- Hậu quả: Tôm con chết hàng loạt.
- Cách phòng trị:
+ Treo túi vôi giữa các lồng nuôi. Vôi có tác
dụng diệt nấm tốt.
+ Tắm cho tôm bằng dung dịch Formol với nồng
độ từ 15 - 25ml/m
3
nước, sục khí trong 15 phút.
Thời gian điều trị từ 5 - 7 ngày.
5. Bệnh long đầu
- Hiện tượng: Phần giáp đầu ngực và phần thân
long ra. Trong lớp biểu bì tiết dịch nhầy hôi thối.
Bệnh xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành.

- Nguyên nhân: Tôm nhiễm vi khuẩn Vibro sp,
Aeromonas.
- Hậu quả: Tôm chết rải rác.
- Cách phòng trị:
+ Tắm cho tôm trong dung dịch Oxytetracylin
với nồng độ 0,5 - 2gr/m
3
. Thời gian tắm 15 phút.
Thời gian chữa trị từ 5 - 7 ngày.
+ Trộn thuốc kháng sinh Oxytetracylin và dầu
ăn với lượng từ 40 - 50mgr/kg thức ăn. Cho ăn liên
tục 5 - 7 ngày.
6. Bệnh to đầu
Xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành. Tôm
có hiện tượng là phần giáp đầu ngực tôm rất lớn,
khác thường, phần thân và đuôi nhỏ.
1 2
7. Bệnh mềm vỏ
Xuất hiện ở tôm trưởng thành. Toàn bộ cơ thể
tôm mềm, kéo dài ra như lúc mới lột xác, vỏ tôm
không cứng lại được.
8. Bệnh đóng hàu, sụn
Xuất hiện ở tôm trưởng thành. Sụn, hàu bám đầy
giáp đầu ngực. Tôm khó lột xác, chết rải rác.
9. Bệnh phồng mang
Xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành. Mang
tôm bị phồng lên, có chất dịch vàng dưới lớp biểu bì
nắp mang.
Những bệnh từ mục 6, đến mục 9 thì tỷ lệ xuất
hiện ít, chỉ gây chết tôm rải rác, không gây thiệt hại

cho người nuôi, nếu biết ngăn ngừa. Bệnh phát sinh
do môi trường bị ô nhiễm, tôm suy dinh dưỡng,
kém ăn, khó lột xác. Có thể sử dụng vôi để ngừa
bệnh, cải tạo môi trường, vệ sinh lồng, bè nuôi, bảo
đảm chất lượng và số lượng thức ăn hợp lý cho tôm.
10.Bệnh đầu vàng (Yellow head disease)
Bệnh đầu vàng xuất hiện trên tôm sú, tôm thẻ
chân trắng, tôm rảo, tôm rằn và nhiều loại tôm khác
tại Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ Ở Việt Nam, tôm
nhiễm bệnh đầu vàng nhiều lúc thời tiết thay đổi lúc
giao mùa, ở những vùng nuôi ven biển độ mặn cao.
* Triệu chứng
- Tôm ăn nhiều khác thường trong vài ngày, rồi
bỏ ăn đột ngột. Sau đó 1-2 ngày tôm bơi lờ đờ
không định hướng trên mặt nước hoặc ven bờ, bám
vào bờ.
- Phần đầu ngực, gan, tụy chuyển màu vàng, gan
có thể có màu trắng nhạt, vàng nhạt hoặc nâu.
- Thân tôm có màu nhợt nhạt.
- Tôm chết rải rác trong vó sau đó chết với mức
độ tăng dần.
- Tôm chết rất nhanh trong vòng 3-5 ngày (có thể
chết gần 100%) sau khi xuất hiện các triệu chứng.
* Phương pháp chẩn đoán bệnh
- Nhận biết triệu chứng bệnh.
- Nhuộm màu mô bào, tế bào máu nhận thấy
nhân tế bào bị thoái hóa đông đặc.
- Phân tích PCR.
1 2
* Nguyên nhân

- Bệnh do virus YHV (yellow head virus) là
virus có acid nhân RNA chuỗi đơn, hình que, kích
thước 44 x 173 nm, thuộc loài Nidovirales, họ
Ronaviridae, chi Okavirus.
* Lây truyền bệnh
Chủ yếu lây truyền theo hàng ngang, do có vật
chủ trung gian mang mầm bệnh vào môi trường nước.
* Phòng và trị bệnh
- Bệnh đầu vàng chưa có thuốc chữa.
- Phòng ngừa và ngăn chặn bằng cách chọn tôm
giống sạch bệnh (qua kiểm tra PCR), diệt khuẩn và
diệt vật chủ mang mầm bệnh trong ao và nước.
- Không nuôi mật độ quá cao.
- Luôn cung cấp đủ oxy cho ao nuôi.
- Giữ môi trường ổn định.
11. Bệnh phát sáng
(Luminous Bacteria Disease, Luminescent
vibriosis)
Bệnh phát sáng xuất hiện quanh năm trên các
loài tôm sú, thẻ, càng xanh, tôm hùm Bệnh có thể
xảy ra trong tất cả các giai đoạn ương nuôi từ trứng
đến tôm trưởng thành.
Bệnh phát triển mạnh trong môi trường nước
giàu dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ ở độ mặn cao,
thiếu oxy hòa tan, lây lan nhanh trong mùa nóng.
* Triệu chứng:
• Tôm yếu, bơi không định hướng, tấp mé bờ,
phản ứng chậm chạp.
• Mang và thân tôm có màu sẫm, bẩn, thịt đục
màu. Gan viêm và teo nhỏ, mất chức năng tiêu hóa

cho tôm.
• Ăn giảm, không có thức ăn và phân trong ruột.
• Đầu, thân tôm phát sáng màu trắng.
• Quan sát bằng kính hiển vi thấy vi khuẩn
phát sáng di chuyển trong cơ, máu tôm.
• Có đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ
thịt của tôm.
• Tôm chậm lớn, có thể bị đóng rong ở mang
và vỏ.
• Tôm chết đáy rải rác tùy vào mức độ nặng
nhẹ của bệnh. Nếu nhiễm bệnh 100% đàn tôm trong
giai đoạn 45 ngày nuôi đầu, có thể chết hàng loạt.
1 2
• Tôm ấu trùng nhiễm bệnh có màu trắng đục,
nhiễm bệnh nạng thì lắng dưới đáy bể ương và chết
hàng loạt.
* Phương pháp chẩn đoán bệnh
- Nhận biết triệu chứng bệnh.
- Thử nghiệm bằng TCBS Agar test kit (dùng
môi trường thiosulfate citrate bile sucrose agar) để
phát hiện vi khuẩn.
* Nguyên nhân:
• Nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Luminescencet
Vibrio: chủ yếu và gây nguy hiểm nhất là Vibrio
harveyi. Các vi khuẩn này có enzyme Luciferase
gây ra sự phát sáng.
• Là vi khuẩn gram âm G, phát triển nhanh ở
độ mặn 10-40ppt (mạnh nhất ở độ mặn 20-30 ppt).
• Các vi khuẩn này có khả năng kháng lại
nhiều loại kháng sinh.

• Bệnh có thể nhiễm từ các trại giống, ao ương
sang ao thịt. Trong sản xuất giống, mầm bệnh được
lây lan chủ yếu bằng đường ruột từ tôm mẹ sang ấu
trùng trong giai đoạn sinh sản.
* Phòng ngừa và xử lí bệnh
a. Trại giống
• Vệ sinh kỹ lưỡng bình ấp trứng, bể ương.
• Thường xuyên sát trùng dụng cụ.
• Xử lý nguồn nước bằng UV, chlorine, ozone.
• Xử lý trứng artemia bằng chlorine.
b. Tôm giống
• Chọn tôm bố mẹ khỏe, sạch bệnh.
• Kiểm tra bằng PCR.
• Kiểm tra sự căng thẳng và sức khỏe của
giống, loại tôm yếu bằng formol.
• Thả nuôi với mật độ thả phù hợp.
c. Ao nuôi
• Trước vụ nuôi phải cải tạo ao: nạo vét sạch
bùn đáy, bón vôi, phơi ao.
• Diệt khuẩn trong ao và nước bằng Chlorine
30ppm hoặc B.K.C 1-2ppm hoặc thuốc tím KMnO
4
2-3ppm.
1 2

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×