Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Văn mẫu ôn thi tuyển sinh 10 gồm nhiều đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.17 KB, 97 trang )

Ñeà 1 : Phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua
nhân vật Vũ Nương trong truyện "Người con gái Nam Xương" của
Nguyễn Dữ.
Baøi Laøm 1
Nhà thơ Huy Cận từng viết :
" Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ "
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã đc đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn
thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số
phận đầy bị kịch và đáng thương:
" Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung "
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như
một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng " Thân em chỉ là thân con
bọ ngựa, chao chược mà thôi ! ", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến.
Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học
Việt Nam, trong " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là
trong 2 tác phẩm " Truyện Kiều " của Nguyễn Du và " Chuyện người con gái Nam Xương " của
Nguyễn Dữ.
Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé
nhỏ, long đong lận đận.
Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong
số ấy là nhân vật Vũ Nương ( " Chuyện người con gái Nam Xương " ).
Tục ngữ có câu " Gái có công thì chông chẳng phụ " thế nhưng công lao của Vũ Nương chắng
những không được biết đến mà chính nàg còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận.
Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng
lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum
vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú
lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư
hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi


nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái
chết để kết thúc một kiếp người.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du.
Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý
Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má
hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm,
mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm
ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng.
Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền
Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một
kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã
khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu
Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người
con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp
thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ
phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy
Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ
chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:
" Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài "
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế
lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người
vào tình cảnh đau đớn . Với chế độ nam quyền : " Trọng nam khinh nữ " , người phụ nữ đã bị
tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buồng bởi những lễ
1
giáo fong kiến khắc nghiệt như đạo " tam tòng " , hay các quan niệm lạc hậu như " nữ nhân
ngoại tộc "… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi
như món hàng.
Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn ngơi ngớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ

nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức
phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.
Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói " Hồng nhan thì bạc phận " nhưng những lễ giáo khắc
nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình dẳng, nhất
là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc
phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động
sâu xa, nhức nhối trong lòg người dọc.
Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa
về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao
người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung
tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.
Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt- đây chính là sự kết tinh sức
sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong
truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu
thương con người của Nguyễn Du.
Viết " Chuyện người con gái Nam Xương " và " Truyện Kiều ", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du
đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
Bạn có thể tham khảo dàn bài trên để viết bài cho mình ngoài ra bạn cũng có thể liên hệ thân
phận người phụ Việt Nam xưa trong xã hội phong kiên qua các bài thơ như Tự Tình của Hồ
Xuân Hương , Thương Vợ của Trần Tế Xương , Bánh Trôi Nước của Hồ Xuân Hương hoặc các
tác phẩm văn học mà bạn đã học qua rồi. Bạn vào thêm link này tham khảo về phụ nữ Việt
Nam xưa
Baøi Laøm 2

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”.
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng “miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa, vấn
vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút đầy
trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn

học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho
cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn
đầy nước mắt.
Tên nàng là “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”, đã đẹp người lại đẹp nết.
Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao loạn
lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình chăm sóc
mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con trẻ mà
nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình,
nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người
hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương. Trương Sinh hối
cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con rồi lại quay về
động Rùa vì hai người đã “âm dương đôi đường”. Nhưng hình ảnh Vũ Nương không
dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp hoàn mỹ cũng như
số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới
chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước
2
nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: “tư
dung tốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được
hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên chàng
Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào
tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, song rất mực
tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình. Thế
nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Trong gia đình chồng, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép,
không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thế là, “hạnh”, một trong những tiêu
chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông hiểu, am tường.
Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu dàng như
vàng như ngọc. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình

nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ,
ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì
không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum
họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong ước của nàng đã
không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng
minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải
thích: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn
gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn
từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như
lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời nói của nàng luôn từ
tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời thoại,
từ “ngôn” của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ
tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô
bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng
trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô
đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn
với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò
võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ
chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn
khéo khuyên lơn”. Thời xưa, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dường như chưa bao giờ êm
đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng”.
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong
nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời
nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao cả
của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng
phụ mẹ”. Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay

tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình”, như tô đậm tình yêu thương của nàng đối với mẹ
chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi người. Vậy
là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh cao của sự
3
hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ
phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế
độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã khiến bao
gia đình li tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi lính, giao phó
cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ.Tất cả mọi việc trong nhà
đều trông cậy vào nàng. “Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên
là Đản”. Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song nàng vẫn nuôi nấng,
dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc, thuốc thang cho mẹ
chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con và cũng một mình lo
ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi, bấy giờ, trên đôi vai bé
nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn. Rồi chiến tranh cũng qua, cứ ngỡ Vũ
Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương, được sống trong hạnh
phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu.
Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng xót xa biết bao khi nhìn cảnh
con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người cha.Thế là nàng đã chỉ bóng mình
trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy chẳng phải vì nàng
quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu thương con vô bờ của một người
mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng chết chính bởi cái bóng của chính
mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ: “Trước đây có người
đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng
bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn là tên thất học, lại thêm“tính đa nghi, đối với vợ
phòng ngừa quá sức”. Lời nói ngây thơ của bé Đản chứa đầy những chi tiết đáng ngờ,
như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một
mực “đinh ninh là vợ hư”. Chàng không còn đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ
ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng,

cũng nhất quyết không nói ra nguyên cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh
thoáng chốc hóa một kẻ vũ phu, thô bạo, “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vượt qua
được mọi gian lao, vất vả trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ
Nương không thể vượt qua nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn
bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm:“Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”.
Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và
mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng
cưới về”. Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải
bán mình chuộc cha:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh những
uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng phong kiến.
Chính cái gia đình “chồng chúa vợ tôi”, “phu xướng phụ tùy” ấy đã khiến nàng bị khinh
rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả “tam tòng tứ
đức” lại phải mang tiếng xấu “hư thân mất nết”. Mọi lời mắng nhiếc của Trương Sinh
như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa chồng, Vũ
Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo
những “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh
phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”. Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi
4
kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn
ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào
đường cùng không lối thoát. Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ
người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết
mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ
nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là
một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không
cho nàng chạm tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” một lần duy nhất trong đời.
Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng

bởi “tình ngay lý gian”. Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất của mình
từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không hề biết rằng
mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem
trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm
cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh không
những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ
vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng
ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của
nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong chế độ phong kiến bị rẻ
rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ như
muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác
với dương gian. Nhưng ở chốn “làng mây cung nước”, Vũ Nương chẳng thể nào nguôi
nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu kỳ
nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh gia
đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của một
người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn thủy
cung, Vũ Nương “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến năm
mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện”. Nhưng xót xa thay,
nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nỗi oan tình của nàng đã được minh oan,
giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ
chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi
trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có dành cho
nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù
quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh
phúc “nghi gia nghi thất”, chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ.
Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt
Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu.
Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

5
Baøi Laøm 3
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở
thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn lục
là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đếp
người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng
mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI.
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng
người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng
Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ nương -
người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự
thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về
nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ dàng
nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và
chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người
vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường Sinh,
chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình,
mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng
mình.

Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn
chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng ái
gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi” , “thư tính, nghìn
hàng, áo rét gửi người ải xa ”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ
Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta
phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn
là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc
thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ nương
giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là
trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương
với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời
trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như
con đã chẳng phụ mẹ “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm
thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn
được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi
lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ
6
ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách
dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô
tình).
Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán,
phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con
non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao
nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác,
trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún
sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng

đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn
nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất
từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi
gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn
là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của
nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự
độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung
túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ
“Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông ích
kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh- là lời tố
cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công- “chế độ nam quyền”
dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc điểm
truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của mình
bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói thơ ngây
của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người vợ quý trên
đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến tranh loạn lạc và lễ
giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
7
Đề 2 : Phân tích nhân vật Nguyễn Huệ trong “Hoàng Lê nhất thống chí”
chương 14 .
Bài Làm 1
Phân tích nhân vật:
- Nguyễn Huệ là một người hành động mạnh mẽ và quyết đốn:

+ Nghe tin qn Thanh chiếm được Thăng Long, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm
qn đi ngay.
+ Chỉ trong 10 ngày, ơng đã làm được nhiều việc lớn: tế cáo trời đất lên ngơi hồng đế, đốc xuất
đại binh ra Bắc để đánh giặc, gặp gỡ Nguyễn Thiếp để xin ý kiến, tuyển binh và duyệt binh lớn ở
Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, lên kế hoạch hành qn đánh giặc và đối phó với nhà Thanh sau khi
chiến thắng.
- Nguyễn Huệ là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, nhìn xa trơng rộng và có ý chí quyết thắng:
+ Ơng là người sáng suốt, phân tích tình hình thời cuộc, phân tích sự tương quan giữa ta và
địch, ngồi ra ơng còn kêu gọi tướng sĩ đồng lòng đánh giặc ( Qn Thanh sang xâm lược nước
ta, hiện ở Thăng Long, các người đã biết chưa? chớ bảo là ta khơng nói trước! "
=> Lời phủ dụ này giống như lời hịch kích thích lòng u nước, khơi dậy truyền thống quật
cường của dân tộc.
- Nguyễn Huệ sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng người, và lập kế hoạch :
+ Tha chết cho Sở và Lân
+ Hiểu và thương u tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc
+ Chưa đánh, chỉ vừa mới khởi binh đã tính được kế hoạch đối ngoại sau khi chiến thắng ( Lần
này ta ra thì ta có sợ gì chúng? )
- Nguyễn Huệ có tài dụng binh như thần:
+ Qua cuộc hành qn thần tốc
+ Qua các trận đánh sơng Gián, sơng Thanh Quyết, làng Hà Hồi, đồn Ngọc Hồi bằng nhiều cách
và giành được chiến thắng
Qua hình ảnh lẫm liệt của Nguyễn Huệ, ta thấy được ơng là người dũng cảm và đa tài.
=> Nguyễn Huệ là người anh hùng quả cảm, mạnh mẽ, chí dũng vơ song, có tài dụng binh như
thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến cơng vĩ đại.

Bài Làm 2

Qua đoạn trích có trong "Hồng Lê nhất thống chí " thơng qua nghệ thuật miêu tả khéo léo, tỉ mỉ,
tinh tế thái độ, hành vi,ngơn ngữ của nhân vật ,tác giả đã ca tụng nhân vật người anh
hùng áo vải Quang Trung là bậc anh hùng kiệt xuất có đức, có tài tuyệt vời :

-trọng bậc hiền ,nên khi “ ra đến Nghệ An” Quang Trung cho mời Nguyễn Thiếp ra để
tham khảo ý kiến.”;
- khơng cố chấp, độc đốn , nên khi được tin cấp báo , Quang Trung bỏ ý “ thân chinh
cầm qn đi ngay mà “ mà nghe lời tướng sĩ lên ngơi hồng đế “ban lệnh ân xá khắp
trong ,ngồi ,để n kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người “ rồi mới tiến qn ra Bắc ,
- sáng suốt nhận định tình thế và có độ lượng khoan hồng nên đã tha cho các tướng
lãnh như Sở và Lân “đáng chết mn vạn lần “ vì “đã làm đến chức tướng sối” , được “
giao cho tồn hạt cả 11 thừa tun, lại cho tùy tiện làm việc .Vậy mà giặc đến khơng
đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước' rồi còn khen họ đã biết nghe theo Ngơ
Thì Nhậm “ biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của địch , chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên
trong thì kích thích lòng qn, bên ngồi thì làm cho giặc kiêu căng “,;
-tổ chức qn độii tài tình, nên Quang Trung đã cho “hơn một vạn qn mới tuyển ở
Nghệ An thì làm trung qn “ còn “ thân qn ở Thuận Hố,Quảng Nam chia làm bốn
doanh tiền ,hậu,tả hữu “;
8
- khộo lộo khớch l ng viờn tinh thn tng s nờn ó cho tt c u c ngi m
nghe li hiu d , phõn tớch cn k, t m cho h bit ch ó Thng Long ó xõm
phm nc ta, chỳng khụng phi l nũi ging dõn tc ta, bn cht ca chỳng l tn
bo, tham lam chỳng ó cp nc ta, git hi nhõn dõn ta,v vột ca ci trong khi ú
dõn tc ta l dõn tc anh hựng , t tiờn l Trng N Vng, Trn Hng o, Lờ Thỏi T
vn ó cú truyn thng chin u v chin thng bn xõm lc, nh c c lp "
khin t i nh inh ti nay ,dõn ta khụng n ni kh Nay bn xõm lc nh Thanh
ngoan c, cú dó tõm ly nc ta lm qun huyn ca chỳng,. L ngi cú lng tri
,lng nng hóy nờn cựng ta ng tõm, hip lc dng nờn cụng ln , khụng c
n hai lũng ;
- iu binh khin tng tuyt vi nờn ó nm o quõn trung,tin,hu t, hu ht sc
chu ỏo;
- cú lũng t tớn vng chc, nờn ó tin tng chng qua mi ngy , cú th ui ht
c quõn Thanh ;
- cú tm nhỡn xa , thy rng, v ht sc thng dõn, nờn trc khi i phỏ quõn Thanh

ó ngh n chuyn y thỏc cho Ngụ Thỡ Nhm lo vic ngoi giao, ch l nc ln,
thua trn, nhng vn gi c th din, dp ni binh ao kộo di
Baứi Laứm 2
Mục tiêu chính khi đọc hiểu đoạn trích hồi XIV - Hoàng Lê nhất thống chí là Giúp học sinh
tìm hiểu vẻ đẹp của ngời anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đại phá quân
Thanh,chân dung và sự thảm bại của quân tớng nhà Thanh và số phận bè lũ vua tôi Lê Chiêu
Thống.Bồi dỡng cho học sinh lòng tự hào dân tộc và nhận thức lịch sử đúng đắn
Trớc hết phải thấy rằng tuy có sự phát triển vợt trội so với các tác phẩm tự sự đơng thời về
nghệ thuật tự sự nhng Hoàng Lê nhất thống chí vẫn không thoát khỏi một đặc điểm có tính chất t-
ơng đối phổ biến của các sáng tác văn chơng cùng thời ,đó là:văn -sử bất phân.Mà đặc điểm
đầu tiên của ghi chép lịch sử đó là tính xác thực,trung thành với sự kiện.Hoàng Lê nhất thống chí
đáp ứng đợc yêu cầu đó
Chính vì vậy khi tìm hiểu về hình tợng nhân vật trong tác phẩm là ta cũng là đi tìm hiểu nhân
vật có thực trong lịch sử, trong mối quan hệ với các nhân vật khác,trong quan niệm của những con
ngời sống cùng thời để có đợc cái nhìn về nhân vật không phiến diện, khiên cỡng.Tuy vậy cũng
không có nghĩa ta lấy lịch sử để xem xét một nhân vật văn học mà chỉ lấy đó làm t liệu bổ
sung,tham khảo.
Nh ta đợc học và đợc biết Bắc Bình Vơng Nguyễn Huệ là một con ngời kiệt xuất trong lịch
sử chống giặc ngoại xâm, đợc nhân dân và các thế hệ sau tôn thờ nh một vị anh hùng dân tộc.Hơn
thế ở ông ta còn thấy một năng lực thiên tài,đó là năng lực tổ chức ,lãnh đạo.Hai phơng diện,hai
phẩm chất ấy đều đợc bộc lộ trong trích đoạn hồi XIV Hoàng Lê nhất thống chí.
Tìm hiểu về Nguyễn Huệ ở góc độ một ngời anh hùng tầm cỡ dân tộc thì ta phải kết hợp hai
điểm nhìn:điểm nhìn chủ quan của các nhân vật trong tác phẩm ,của tác giả dòng họ Ngô Thì và
điểm nhìn khách quan đó là lịch sử.Còn các tác giả họ Ngô Thì thì sao?Làm sao để nhận ra đợc
đúng cái nhìn của họ với quân Tây Sơn,với Nguyễn Huệ?
Ngày nay ,chúng ta nhìn nhận Nguyễn Huệ là nhìn nhận bằng con mắt của lịch sử vì ta có thể đặt
câu hỏi:Nếu không có ông và phong trào Tây Sơn ,lịch sử đất nớc Việt Nam này sẽ ra sao?Đơng
nhiên dễ thấy nhất đất nớc vẫn là chia cắt:Đàng trong ,Đàng ngoài,nội chiến liên miên,nhân dân
9
lao động khốn đốn.Tình trạng này sẽ kéo dài,và dễ là miếng mồi béo bở cho những kẻ cơ hội nh

Nguyễn hữu Chỉnh ,Nguyễn Văn Nhậm chẳng hạn lộng hành,đục khoét , ra oai.Và tình trạng đó
làm cho nớc ta cũng không dễ gì tránh khỏi sự nhòm ngó của nhà Thanh ở phơng Bắc vì chúng có
bao giờ từ bỏ mộng bành trớng,xâm lăng xuống phơng Nam.
Sự trởng thành và hành động kịp thời của nghĩa quân Tây Sơn ,đứng đầu là Nguyễn Huệ đã cứu
vãn nớc ta khỏi tình trạng một nớc hai chủ, thống nhất giang sơn về một mối,chấm dứt thời kì
khủng hoảng kéo dài của chế độ phong kiếnViệt Nam hàng thế kỉ và một lần nữa đánh một đòn
chí mạng vào t tởng bành trớng của phong kiến Trung Quốc ,khẳng định sức mạnh quật cờng của
tinh thần Việt.Và vì vậy nhắc đến tên tuổi Quang Trunglà chúng ta tôn vinh ông cùng với những
tên tuổi lừng lẫy: Bà Trng,Bà Triệu,Trần Hng Đạo,Lê lợi.
Bám vào văn bản thì ta thấy dũng khí của ngời con đất võ Tây Sơn này là ở chỗ nghe thấy giặc
đã vào tận thànhThăng Long với đội quân hàng vạn tên mà không hề nao núng ,định thân chinh
cầm quân đi ngay,khi ra trận thì lẫm liệt ,xông xáo,tự mình thống lĩnh một mũi tiến công,cỡi voi
đi đốc thúc,xông pha nơi đầu tên mũi đạn.
Sách giáo viên và các sách tham khảo cho chơng trình đổi mới hiện nay có nói đợc những
phẩm chất này của Nguyễn Huệ nhng cha thâu tóm đợc những phẩm chất đó lại, để chỉ ra đó là
biểu hiện cho phẩm chất của một ngời anh hùng.Theo chúng tôi còn một nhợc điểm nữa là sách
cha chỉ ra đợc một phẩm chất cực kì quan trọng mà có nó Nguyễn Huệ đợc các thế hệ đời sau
đánh giá , thừa nhận là một ngời anh hùng dân tộc,không gì khác chính là tinh thần yêu nớc của
ông.Nếu là một ngời anh hùng mà thiếu phẩm chất đó thì Nguyễn Huệ cũng chẳng khác Nguyễn
hữu Chỉnh,Nguyễn Văn Nhậm lợi dụng chính sự rối ren để mu lợi riêng,và để đảm bảo cho sự yên
ổn của cái ngai vàng thì cũng giống nh Lê Chiêu thống có thể dễ dàng xem nhẹ nỗi nhục quốc
thể .Nhng qua lời của công chúa Lê Ngọc Hân-con gái vua Lê khi nói về Nguyễn Huệ:
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân xây dựng xiết bao công trình
ta hiểu đợc đây không phải là những lời sáo rỗng.
Về điểm này riêng cuốn Ôn tập văn học của Nguyễn Văn Long chủ biên đã nói khá
rõ:Nguyễn Huệ là ngời có lòng yêu nớc nồng nàn.Trớc khi lên đờng tiến quân ra Bắc, ông cho
truyền đi lời lệnh dụ có khí văn nh một bài hịch.Trong lời lệnh dụ này,Nguyễn Huệ thể hiện ý thức
độc lập tự chủ:Trong khoảng vũ trụ,đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng,phơngNam,Phơng
Bắc chia nhau mà cai trị.Lời lệnh dụ chính là sự tiếp nối tinh thần Nam quốc sơn hà nam đế c từ

thời Lí Thờng Kiệt ,tinh thần quyết chiến ,quyết thắng kẻ thù xâm lợc của Nguyễn Huệ mang hào
khí Hịch tớng sĩ của Trần Quốc Tuấn:Các ngơi đều là những kẻ có lơng tri, lơng năng,hãy cùng
ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn.Niềm tự hào dân tộc của vua Quang Trung lại âm
vang lời tuyên bố dõng dạc trong Bình Ngô đại cáo:Đời Hán có Trng Nữ Vơng,đời Tống có Đinh
Tiên Hoàng,đời Minh có Lê Thái Tổ,các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã
thuận lòng ngời,dấy nghĩa quân,đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi đợc chúng về phơng Bắc.
Hơn nữa nếu không phải là một ngời yêu nớc,thơng dân thì Nguyễn Huệ không thể nghĩ đ-
ợc:Nhng nghĩ chúng là nớc lớn gấp mời nớc mình,sau khi bị thua một trận ắt lấy làm thẹn mà lo
mu báo thù.Nh thế thì việc binh đao không bao giờ dứt,không phải là phúc cho dân,nỡ nào mà làm
nh vậy.
Làm nên hình tợng Quang Trung Nguyễn Huệ còn có một phơng diện nữa đó là:phẩm chất
của một ngời lãnh đạo chính trị,quân sự,ngoại giao tài ba.Trong Sách giáo viên chơng trình đổi
10
mới lẫn cuốn Ôn tập văn học đã nhắc đến ở trên không nói rõ điểm này.Nh sách giáo viên chơng
trình đổi mới nói rất cụ thể những tố chất của Quang Trung Nguyễn Huệ:Con ngời hành động
mạnh mẽ,quyết đoán;trí tuệ sáng suốt nhạy bén;ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng;tài
dụng binh nh thần; trong ý cuối cùng có nói đến ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự.Còn
trong cuốn Ôn tập văn học thì chỉ ra:Nguyễn Huệ là ngời thông minh ,sáng suốt,có tinh thần quả
quyết ,có tài cầm quân.
Nh vậy phải chăng cả hai cuốn sách đều chỉ phân tích theo lối :thấy cây mà không thấy rừng,
cha thấy đợc hội tụ điểm của những phẩm chất đó là tài năng của một nhà lãnh đạo quân sự lỗi
lạc.Dới đây chúng tôi xin đợc mạo muội đa ra một số ý kiến có thể chứng minh trong hồi XIV
của Hoàng Lê nhất thống chí Nguyễn Huệ là một nhà lãnh đạo tài ba
Điểm thứ nhất,là một nhà lãnh đạo trớc hết phải là ngời có trí tuệ sáng suốt,nhạy bén,có tầm
nhìn xa trông rộng.Qua một vài chi tiết ta có thể thấy ngay điểm này.Từ việc Nguyễn Huệ nghe
theo ý kiến rất xác đáng của các tớng trong quyết định lên ngôi cho chính vị hiệu , tham khảo ý
kiến của những ngời tài nh Nguyễn Thiếp trớc khi hành sự đến việc ra lời phủ dụ rất thấu lí đạt
tình,đánh trúng tâm lí trọng chính nghĩa,khích lệ đợc tinh thần chiến đấu ,niềm tinvào thắng lợi
của nghĩa quân,đến việc xét đoán ngời và chọn dùng ngời và cả những dự đoán trớc về đối phơng
để đa ra phơng lợc tiến đánh thậm chí đoán trớc đợc thắng lợi ,nghĩ đến kế hoạch ngoại giao với

kẻ thù sau khi chiến tranh kết thúc.Trong một thời gian rất ngắn từ hoàn toàn bị động ,đội quân
Tây sơn chuyển sang chủ động rồi chiếm hẳn u thế dù quân số ít hơn địch rất nhiều.Nếu không có
bản lĩnh hơn ngời , hẳn là chỉ nghe đến số lợng quân Thanh nhiều ngời đã run lên vì sợ, hoặc nếu
không thì cũng cha thể đa ra những quyết định quan trọng hoặc mất khá nhiều thời gian để suy
tính,bàn bạc và chuẩn bị.Và đơng nhiên cũng không thể có chuyện trong vòng 7 ngày một đội
quân cha đợc đào tạo bài bản,dợc tập hợp vội vàng trong một thời gian ngắn ngủi lại thắng thế
nhanh chóng và giòn giã,đánh tan 10 vạn quân thù.Có đợc những thắng lợi đó công đầu phải là ở
ngời lãnh đạo.Không ai khác chính là Nguyễn Huệ.
Đọc đến những dòng này ta không khỏi tự hào và khâm phục, nhìn lại lịch sử quá khứ chỉ có
thể đếm trên đầu ngón tay những ngời có trí tuệ quân sự kiệt xuất nh thế.
Điểm thứ hai,là một ngời lãnh đạo quân sự tài giỏi phải biết hành động quyết đoán ,chớp đúng
thời cơ, tạo ra đợc tình huống bất ngờ,có lợi cho mình mà bất lợi cho địch.Nắm bắt dợc đúng vào
dịp tết,quân Thanh từ xa đến lại chủ quan,không phòng ngừa chi cả,Nguyễn Huệ đã cho quân
hành quân thần tốc ,tấn công trớc khi chúng kịp trở tay.Phải thừa nhận rằng trong lịch sử Việt
Nam cha có cuộc hành quân nào gây ấn tợng bằng cuộc hành quân của nghĩa quân Tây Sơn-ấn t-
ợng ở sự độc đáo ,ở tốc độ di chuyển trong một thời đại không hề có sự hỗ trợ của phơng tiện máy
móc.
Điểm thứ ba,đó là tài điều binh khiển tớng của Nguyễn Huệ.Cả một đạo quân hàng vạn ngời
nhng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề,có tổ chức có kỉ luật,hành động đảm bảo đúng kế hoạch thậm chí
còn thắng lợi vợt trớc thời gian tởng nh không thể nào còn rút ngắn hơn đợc nữa.Ông biết lấy kinh
nghiệm của lịch sử để nhận thức hiện tại,lấy truyền thống để động viên quân lính,biết kêu gọi l-
ơng tri lơng năng của họ để đồng tâm hiệp lực dựng nên nghiệp lớn.
Và tất cả những u điểm trên cũng cha thuyết phục chúng ta nếu nhà lãnh đạo đó xa rời quần
chúng,binh sĩ của mình.Một Nguyễn Huệ thông minh sáng suốt , mạnh mẽ và quyết đoán hơn ng-
ời,vợt xa ngời thờng cũng đồng thời là một Nguyễn Huệ áo bào sạm đen khói súng
11
C¶ mét t¸c phÈm dµi mêi t¸m håi,tõ ®Çu ®Õn ci cã lÏ chØ cã ë håi XIV lµ lµm cho t¸c phÈm cã
dÊu Ên sư thi ®Ëm nhÊt.Vµ nh©n vËt lµm táa s¸ng chÊt sư thi ®ã lµ Ngun H.Con ngêi nµy lµ sù
kÕt tinh vµ n©ng cao nh÷ng trun thèng q b¸u cđa d©n téc víi lßng yªu níc,tinh thÇn tù lËp tù
cêng,khÝ ph¸ch anh hïng bÊt kht vµ tµi thao lỵc v« song.

Sau Ai t v·n ,Hoµng Lª nhÊt thèng chÝ lµ t¸c phÈm ph¶n ¸nh ch©n thùc nhiỊu mỈt vỊ phong
trµo T©y S¬n vµ ngêi anh hïng ¸o v¶i Ngun H,®em l¹i cho ngêi ®äc nhËn thøcvµ t×nh c¶m tèt
®Đp vỊ mét thêi k× lÞch sư ®Çy b·o tè nhng còng nhiỊu thµnh tùu vỴ vang trong ®ã khëi nghÜa n«ng
d©n lµ ®Çu tÇu m¹nh mÏ
Đề 3 :Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên
cứu Kiều Nguyệt Nga”
Bài Làm
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga có 60 câu thơ, thuộc phần đầu của
Truyện Lục Vân Tiên. Nội dung phần đầu truyện kể về chàng thư sinh Lục Vân Tiên
khơi ngơ tuấn tú, văn võ song tồn, từ nhỏ đã đi học xa nhà. Biết tin triều đình mở
khoa thi, chàng từ biệt thầy xuống núi tham dự. Trên đường rẽ qua nhà thăm cha mẹ,
chàng đánh tan bọn cướp Phong Lai, cứu được người đẹp Kiều Nguyệt Nga con quan
tri phủ Hà Khê.
Đọc qua đoạn trích có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu sử dụng rất nhiều từ ngữ in đậm
dấu ấn vùng văn hóa Nam Bộ, phương ngơn Nam Bộ, ngữ âm Nam Bộ: “bên đàng,
tìm đàng, đàng xa, giữa đàng” (bên đường, tìm đường, đường xa, giữa đường), “xơng
vơ” (xơng vào), “tại mầy” (tại mày), “xe nầy, con nầy” (xe này, con này), “chưa hãn
dạ nầy” (lòng này chưa tỏ, chưa biết chắc), “rước tơi” (đưa tơi), “hay vầy” (biết vậy,
biết thế này), “rõ đặng” (rõ được)… Việc sử dụng một cách sinh động, chính xác, hợp
lý vốn từ ngữ địa phương chứng tỏ tác giả thơng thuộc, am hiểu con người và cuộc
sống q hương Nam Bộ. Điều này tạo nên tính đặc trưng, điển hình của hệ thống
nhân vật gắn với một vùng văn hóa cụ thể, đồng thời góp phần làm phong phú thêm
vốn ngơn ngữ nghệ thuật của cả dân tộc.
Trong tương quan chung, đoạn thơ mơ tả hình ảnh chàng thư sinh Lục Vân Tiên dũng
cảm đương đầu với bọn cướp và thể hiện tinh thần trọng nhân nghĩa qua những lời
đối đáp với Kiều Nguyệt Nga. Trước hết, từ câu mở đầu đến câu thứ 14 - Bị Tiên một
gậy thác rày thân vong, Nguyễn Đình Chiểu mơ tả hành động quyết đốn “bẻ cây làm
gậy”, “xơng vơ” để đánh lại tên tướng cướp Phong Lai và đồng bọn “đảng hung đồ”,
“hồ đồ hại dân”. Đây là sự đối đầu giữa chàng thư sinh anh hùng với tên Phong Lai
“mặt đỏ phừng phừng” và đám qn “bốn phía phủ vây bịt bùng”. Nhà thơ cực tả

hình ảnh Lục Vân Tiên “tả đột hữu xung” và sử dụng điển tích: Khác nào Triệu Tử
phá vòng Đương Dang… Theo tiểu thuyết chương hồi Tam quốc diễn nghĩa của La
12
Quán Trung (Trung Quốc), nhân vật viên tướng trẻ Triệu Vân, còn gọi Triệu Tử
Long, đã một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ được A Đẩu, con của chủ
tướng Lưu Bị. Việc sử dụng điển tích, so sánh Lục Vân Tiên với Triệu Tử Long
khiến cho câu thơ trở nên hàm súc, phát huy được lối nói khoa trương, tôn vinh phẩm
chất nhân vật cũng ngang bằng với người anh hùng nổi tiếng thời Tam quốc. Sử dụng
điển tích là một biện pháp nghệ thuật phổ biến trong Truyện Lục Vân Tiên cũng như
với hầu hết các tác phẩm văn chương dưới thời trung đại.
Phần tiếp theo kể từ câu thứ 15- Dẹp rồi lũ kiến chòm ong đến hết đoạn trích, Nguyễn
Đình Chiểu triệt để sử dụng hình thức hỏi – đáp để nhân vật có dịp tự giới thiệu về
mình, qua đó bày tỏ tình cảm, suy nghĩ, quan niệm đạo đức, tính cách và lối sống…
Lục Vân Tiên là nhân vật chủ động trước sự kiện đánh thắng bọn cướp và cả ở tình
thế gặp gỡ Kiều Nguyệt Nga. Trong tổng số 43 câu thơ hỏi – đáp, Lục Vân Tiên chỉ
được dành cho 15 câu nhưng luôn đóng vai người dẫn chuyện, chủ động tìm hiểu và
bày tỏ thái độ:
- Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”.
- Vân Tiên nghe nói động lòng…
- Vân Tiên nghe nói liền cười…
Vốn là kẻ sĩ thấm nhuần lễ giáo, sau khi nghe lời khẩn cầu của người hầu “Cúi đầu
trăm lạy cứu cô tôi cùng”, Lục Vân Tiên nói rõ:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Về phía Kiều Nguyệt Nga, nàng kể rõ tên mình và người hầu, quê hương, gia đình,
công việc. Qua cách nói cũng có thể xét đoán được Kiều Nguyệt Nga là con người
dịu dàng, khiêm nhường, mực thước, hiếu nghĩa, biết mình biết người: “đâu dám cãi
cha”, “tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”, “liễu yếu đào thơ”, “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng
ngươi”. Sau khi thanh minh về cảnh ngộ hiện thời, nàng có ý mời chàng về quê để

báo đền công ơn:
… “Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa…
… Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Lục Vân Tiên vốn là con người “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, sau khi nghe lời
bày tỏ của Kiều Nguyệt Nga lại càng khẳng định thêm tinh thần nghĩa hiệp, chính
trực, trọng nghĩa khinh tài:
… “Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Trở lại con người đời thường, Lục Vân Tiên không “tính thiệt so hơn” và nhắc lại câu
nói “kiến nghĩa bất vi”. Nguyên văn cả câu này là “Kiến nghĩa bất vi vô dũng giã”
(Gặp việc nghĩa mà không hành động thì không phải người dũng lược), ý muốn đề
13
cao tinh thần người anh hùng dám xả thân vì việc nghĩa, giữa đường thấy sự bất
thường thì cần can thiệp, giúp đỡ. Điều quan trọng hơn, ngay cả sau khi nghe lời Kiều
Nguyệt Nga nói về sự đền ơn, Lục Vân Tiên vẫn thành thực với quan niệm sống của
mình, trước sau vẫn kiên định với tư tưởng làm việc nghĩa như một phẩm chất bậc
anh hùng hảo hán, không đòi hỏi được hưởng ơn huệ, tiền tài vật chất.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga gắn với sự kiện đánh kẻ cướp cứu
người đẹp được thể hiện như một mẫu hình người anh hùng vốn phổ biến trong
truyện dân gian cũng như nhiều tác phẩm văn học trung đại. Có thể nói chủ đề này
nằm trong truyền thống cốt truyện kể về sự gặp gỡ “tài tử - giai nhân”, “trai tài, gái
sắc”, “trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Đây cũng là một phương diện trong truyền

thống mĩ học của người xưa nhằm tôn vinh vẻ đẹp bậc “tài tử - giai nhân”, xây dựng
hình ảnh nhân vật lý tưởng kiểu mẫu, góp phần tôn vinh những giá trị, phẩm chất
nhân nghĩa của con người trong một xã hội còn nhiều bất công, loạn lạc./.
Ñeà 4 :Phân tch đon trch "Ch em Thy Kiu" ca Nguyn Du
Baì Laøm 1
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện
Kiều” - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một bài ca lớn về
giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, cái phản nhân bản, một tập đại
thành của nghệ thuật văn chương . Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận vật, Nguyễn
Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ trích đoạn Chị em
Thúy Kiều đả thể hiện được trọn vẹn vè đẹp, tài năng va đức hạnh của hai chị em nàng
Thúy kiều. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh
của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc
hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du
cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai
chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai,
có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách
toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ
14
tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng,
quý phái, phúc hậu: Sau khi giới thiệu vẻ dẹp chung về hình thức lẫn tâm hồn của hai chị
em bằng bốn câu thơ , Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân :

Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngóc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc , tuyêếtnhường màu da,
Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang , đứng đắn
và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn. chân mày của nàng đẹp
như mày của con bướm tằm. Đuôi mắt của nàng đẹp như mắt phượng . miệng của nàng
nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc , tỏa hương. Tiếng nói của nàng trong như
ngọc. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của nàng.
Tuyết là biểu tượng của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn màng, trắng
trẻo của nàng.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, liệt
kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách điệu luyện,
Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo
được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ " thua ", "nhương " cho chúng ta thấy số phận
bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường đời .
Còn đây là bức chân dung của nàng kiều :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu. Còn lông mày lại thanh
nhẹ, tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng .đây cũng là vẻ đẹp
ước lệ, tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa , thậm xưng,
so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố,liệt kê, đối ngữ, tương hỗ đã tiếp tục đưa sắc đẹp của
Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
"Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy là phải "ghen" , "hờn", tức giận trước vẻ
đẹp "sắc sảo mạn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng. Còn đối với con người , nàng
Kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa thì nước
người ta bị đổ Chao ôi ! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhân

Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy ,đài các, kiêu sao , có sức cuốn hút mãnh
liệt của Thúy Kiều . Nhất là các từ "ghen" , "hờn" , Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta
thấy những cơn sóng gió bảo tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của
nàng .
Nếu như ở Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều , nhà thơ vưa
miêu tả nhan sắc , vừa ca ngợi tài năng :
Sắc đành tài một , tại đành hoạ hai
Như vậy, về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra, họa hoằn lắm mới
có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
15
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác . Những nốt cung ,
thương , giốc , chũy , vũ trong âm giai của nạhc cổ trung Quốc và Việt Nam được nàng
phối hợp một cách nhuần nhuyễn , tinh thông , dạt dào cảm xúc . Đặt biệt , một bản nhạc
nhan đề là " Bạc mệnh " - đưa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu
thẳm trong tâm hồn của con người , khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ , sâầunão
đến rơi nước mắt , đến buốt nhói tim . Phải chăng " một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
" ấy như muốn dư báo những đâu khổ , bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng của
đời người con gái tài sắc vạn toàn ?
Nhìn chung , Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều ,
nhà thơ đã cực tả Thúy vân , tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được nữa ,
để rồi sau đó , Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹpcủa Thúy Kiều là tuyệt đỉnh . Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh . ( Giáo sư Nguyễn
Lộc )
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du

một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Đó là một cái nhìn của con
gnười có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước triều dâng . Nguyễn du dã mở
đườngbcho tư tưởng của mình đi trước thời đại . Bởi lẽ , trong xã hôi phong kiền đầy rẫy
nhưng bất công , ngang trái , hà khắc , phụ nữ luôn bị lép vế , bị ruồn rẫy , chà đạp , xô
đẩy đến bức đường cùng .
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều , Nguyễn Du miêu tả
cuộc sống phong lưu, êm đềm, khuôn phép , mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cá hay chị
em :
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Em đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều
vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che , không tơ tươởngđến những kẻ
dđ tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa . Chính những nét hồn nhiên ,
trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân cách và
ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này , đặc biệt là Thúy Kiều .
Tóm lại . bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú , tính tế , kỳ diệu , bằng một bút pháp
điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của con
người , nhất là người phụ nữa, Nguyễn du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã , vừa có sức
gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn chị em Thúy Kiều. Có
thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ hoàn
mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du một
16
cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Càng nâng niu , quý trọng truyện
Kiều ,chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó
là một cái nhìn của con người có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước tràn ly
_________________
Baøi Laøm 2
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc Việt Nam . Ông đã để lại cho đời kiệt tác Truyện kiều .

Truyện Kiều là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo , một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái
ác , cái phản nhân bản , một tập đại thành của nghệ thuật văn chương . Chỉ xét riêng về
nghệ thuật miêu tả nhận vật , Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử
tiểu thuyết bằng thơ . trích đoạn Chị em Thúy Kiều đả thể hiện được trọn vẹn vè đẹp , tài
năng va đức hạnh của hai chị em nàng Thúy kiều .
Sau khi giới thiệu vẻ dẹp chung về hình thức lẫn tâm hồn của hai chị em bằng bốn câu
thơ , Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân :
Vân xem trang trong khác vời ,
Khuôn trăng đầy đặn , nét ngài nở nang .
Hoa cười ngóc thốt đoan trang ,
Mây thua nước tóc , tuyêếtnhường màu da ,
Chỉ vài nét chấm phá , bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang , đứng
đắn và phúc hậu . Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn . chân mày của nàng
đẹp như mày của con bướm tằm . Đuôi mắt của nàng đẹp như mắt phượng . miệng của
nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc , tỏa hương . Tiếng nói của nàng trong
như ngọc. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của
nàng . Tuyết là biểu tượng của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn màng ,
trắng trẻo của nàng .
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ , tượng trưng , ẩn dụ , nhân hóa , liệt
kê , đối ngữ , thậm xưng và cách dùng các từ láy , từ Hán Việt một cách điệu luyện ,
Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo
được tương lai của nàng . Đặc biệt , các từ " thua ", "nhương " cho chúng ta thấy số phận
bình an , tốt lành của ThuyýVân trên những chặng đường đời .
Còn đây là bức chân dung của nàng kiều :
Kiều càng sắc sảo mặn mà ,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Đôi mắt của nàng Kiểu được miêu tả bằng hai hình ảnh ẩn dụ :
Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu . Còn lông mày lại thanh
nhẹ , tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng , duyên dáng .đây cũng là vẻ đẹp

ước lệ , tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ . Những nghệ thuật nhân hóa , thậm xưng
, so sánh , hoán dụ , ẩn dụ , điển cố ,liệt kê , đối ngữ , tương hỗ đã tiếp tục đưa sắc đẹp
của Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm ,liễu hờn kém xanh
17
"Hoa " và "liễu" là những loài vô tri , vô giác , vậy là phải " ghen " , "hờn ", tức giận
trước vẻ đẹp sắc sảo mạn mà ", " mười phân vẹn mười của naàng. Còn đối với con
người , nàng kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa
thì nước người ta bị đổ . Chao ôi ! Thúy Kiều đuúnglà một tuyệt thế giai nhận
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy ,đài các, kiêu sao , có sức cuốn hút mãnh
liệt của Thúy Kiều . Nhất là các từ ghen " , "hờn " , Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta
thấy những cơn sóng gió bảo tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng
Nếu như ở Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều , nàh thơ vưa
miêu tả nhan sắc , vừa ca ngợi tài năng :
sắc đành tài một , tại đành hoạ hai
Như vậy ,về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều vêềtài thì may ra , họa hoằn lắm
mới có người thứ hai . Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng :
Thông minh vốn sẵn tính trời
Thứ nhì là tài thơ , vẽ , ca hát , đánh đàn , sáng tác nhạc :
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác . Những nốt cung ,
thương , giốc , chũy , vũ trong âm giai của nạhc cổ trung Quốc và Việt Nam được nàng
phối hợp một cách nhuần nhuyễn , tinh thông , dạt dào cảm xúc . Đặt biệt , một bản nhạc
nhan đề là " Bạc mệnh " - đưa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu
thẳm trong tâm hồn của con người , khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ , sầu não đến
rơi nước mắt , đến buốt nhói tim . Phải chăng " một thiên bạc mệnh lại càng não nhân "
ấy như muốn dư báo những đâu khổ , bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng của

đời người con gái tài sắc vạn toàn ?
Nhìn chung , Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều ,
nhà thơ đã cực tả Thúy vân , tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được nữa ,
để rồi sau đó , Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹpcủa Thúy Kiều là tuyệt đỉnh . Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh . ( Giáo sư Nguyễn
Lộc )
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du
một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất . Đó là một cái nhìn của con
gnười có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước triều dâng . Nguyễn du dã mở
đườngbcho tư tưởng của mình đi trước thời đại . Bởi lẽ , trong xã hôi phong kiền đầy rẫy
nhưng bất công , ngang trái , hà khắc , phụ nữ luôn bị lép vế , bị ruồn rẫy , chà đạp , xô
đẩy đến bức đường cùng .
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều , Nguyễn Du miêu tả
cuộc sống phong lưu , êm đềm , khuôn phép , mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cá hay
chị em :
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Em đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
18
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều
vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che , không tơ tưởng đến những kẻ
đi tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa . Chính những nét hồn nhiên ,
trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân cách và
ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này , đặc biệt là Thúy Kiều .
Tóm lại . bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú , tính tế , kỳ diệu , bằng một bút pháp
điêu luyện , bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của con
người , nhất là người phụ nữa, Nguyễn du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã , vừa có
sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn chị em Thúy Kiều .

Càng nâng niu , quý trọng truyện Kiều ,chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của
đại thi hào dân tộc Nguyễn Du . thật đáng tiếc cho những ai đâu đội trời Việt Nam , chân
đạp dất Việt Nam mà xa lạ với Truyện Kiều
Baøi Laøm 3
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi:
“Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với
những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những
bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và
sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung
cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một
lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim
Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
Đầu lòng hai ả tố nga,…
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật dã đạt dến trình độ
điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà
vẫ giúp người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy
Kiều, gây một ấn tượng khó phai trong lòng mỗi chúng ta.
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu
chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều:
Đầu lòng hai ả tố nga…
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang viết của Nguyễn Du
đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị
em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho đến tam hồn bên
trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá
giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh
thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm
hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không

chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn
khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ
với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều
là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt
đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Mấy
chữ ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao đọ của nhà thơ. Bởi lẽ, ở đời mấy ai được “mười
19
phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân,
Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm
mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một
vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân
dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,….
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của
một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn
người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác
vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm
rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy
là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc
thốt” ở đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà?
Một từ “thốt “ thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy
Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ
hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang,
quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong của
trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,… toàn những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời.
Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chũng ta cũng dễ dàng cảm
nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du
cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ

đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Chắc chắn,
Thúy Vân sẽ làm tròn thiên chức một người mẹ, người vợ sau này. Về mặt này, con mắt
nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ
đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã
giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh.
Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên
ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc
sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả dùng hết
tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn:
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải là cái
đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu
kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng
thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp,
tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng
bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ
gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy.
Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi
vụng về.
Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
20
Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình
như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mua
xuân. Cách mieu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh áng và làn sóng xao động bên
trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào,
ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt
thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp

mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt nàng Vân
là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối
trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng để tô đạm, tạo ấn tượng về nhan sắc của
Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên.
Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên
nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc
sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so
với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để
thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một
náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi.
Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ
đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên
địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ: không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện
tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu
nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen,
hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi
theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu
chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta
thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu
thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy
băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã
để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,

Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng.
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du.
Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng
Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người con gái vốn có thiên tư thông
minh bẩm sinh và rất mực tài hoa:
Thông minh vốn sẵn tính trời,…
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ
Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa
lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” “làu bậc”, “ăn
21
đứt” làm cho cái gìcũng đầy đủ và toàn vẹn. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa
của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ tròn tác
phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia thiều:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn
Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ
ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Ông bà ta xưa cũng đã từng nói: “Một vừa hai phải ai ơi / Tài tình chi lắm cho trời đất
ghen”. Vậy mà, Thúy Kiều của Nguyễn Du tột đỉnh hơn người. Câu chữ, lời thơ chất
chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trê mỗi chữ dùng của
Tố Như. Nguyễn Du biết thế. Bởi, có lúc ông đã phải thốt lên rằng:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nhưng là sao khác được. “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu
thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vòng
xoáy nghiệt ngã cuẩ định mệnh.

Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức
hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quí. Hai cô
gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy
thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến
những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm
của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống
phong lưu, đài các của hai chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của
người đẹp chứ nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của
Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo bậc thầy
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết,
khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách
nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến
Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu
sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân
tộc Nguyễn Du.
22
Đề 5 : Phân tích đoạn trích “ Cảnh ngày xuân “.
Bài Làm 1
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ khơng chỉ nổi
tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh
quang đó là vì ơng đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện
Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngơn
từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm
qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xn", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh
vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:

Ngày xn con én đưa thoi,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành cơng đặc biệt của "Truyện
Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc
nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xn tười đẹp và tâm
trạng của người du xn trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời
gian của một cuộc du xn. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xn. Tám dòng thơ
tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng
của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều bng xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xn thật ấn tượng. Khơng gian,
thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xn con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xn. Giữa bầu trời cao rộng, từng
đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa
thoi" gợi bước đi của mùa xn tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt
thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" -
ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên tồn cảnh vật. Ánh nắng mùa xn có nét riêng,
23
không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm
giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian
đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên
nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt
một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa.
Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh

xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính
là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc:
"Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên
cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu
thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài
hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi
sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm"
đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay
động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những
đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn
gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây
và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ
nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa
dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử
trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa
xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm
đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con
người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập
dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi
xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng,
quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến
"hội đạp thanh", khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các
cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn
tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.

Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ
giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
24
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng
loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị
em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu, đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ
hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được
ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách
nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én,
chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không
chỉ nói lên một lờithoong báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong,
chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ
tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của
ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã
khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống
của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du
đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước
cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người
đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha
đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và
phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo,
nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói
chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện
đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước
mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:

ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra
một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay,
sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng
vó rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của
Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ
cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày
hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây,
hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết,
ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan
thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần.
Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức
tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến
đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho
nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người
đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc
25

×