LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Thùy Dung - ngƣời
đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em hồn thành luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng KHCN và HTQT, Thƣ
viện, Ban chủ nhiệm Khoa Tiểu học Mầm non - Trƣờng Đại học Tây Bắc và các
bạn sinh viên lớp K51 ĐHGD Mầm non đã tạo điều kiện giúp đỡ em nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu cùng
tồn thể các cơ và các cháu mẫu giáo 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu giáo Minh Tân –
Bảo Yên – Lào Cai đã tạo điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành đề tài đúng thời
gian.
Sơn La, tháng 05 năm 2014
Ngƣời thực hiện
Kim Thị Hơn
1
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐC
: Đối chứng
TN
: Thể nghiệm
TB
: Trung bình
MG
: Mẫu giáo
ĐHGD
: Đại học giáo dục
TC
: Tiêu chí
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………..1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………….……2
3. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….4
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu……………………………………...……4
5. Giả thiết khoa học……………………………………………………………..4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………5
7. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….……..5
8. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………………...5
9. Cấu trúc của luận văn…………………………………………………………6
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………..7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN..............................7
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………………………………….….7
1.1.1.Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi…………………………………………7
1.1.2. Chức năng, vai trị của ngơn ngữ, đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi……………………………………………………………..9
1.1.3. Đặc điểm của các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi……………..………15
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN………………………………………………………21
1.2.1.Tác phẩm thơ trong chƣơng trình “Chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non”…21
1.2.2. Khảo sát điều tra thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo qua các
tác phẩm thơ……………………………………………………………………25
Tiểu kết chƣơng 1………………………………………………………..……..30
CHƢƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5– 6
TUỔI QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ĐỌC THƠ………………..………..31
2.1. Sử dụng biện pháp đàm thoại……………………………..……………….31
2.1.1. Khái niệm……………………………………………..…………………31
2.1.2. Cách thức thực hiện……………………………………...………………31
2.1.3. Yêu cầu khi sử dụng phƣơng pháp đàm thoại…………………………...31
2.2. Dạy trẻ đọc diễn cảm bài thơ………………………………………………36
3
2.2.1. Rèn luyện trẻ phát âm đúng……………………………………...………38
2.2.2. Hình thành nhịp điệu của ngơn ngữ và chất liệu giọng nói…….……..…39
2.2.3. Dạy lời nói diễn cảm…………………………………………………….49
2.3. Biện pháp giảng giải, giải thích từ khó…………………………………….40
2.4. Sử dụng các phƣơng tiện trực quan trong việc đọc thơ cho trẻ nghe……...41
2.4.1. Cách thức thực hiện……………………………………………..……….41
2.4.2. Yêu cầu của việc sử dụng trực quan……………………………..………44
Tiểu kết chƣơng 2 ………………………………………………...……………45
CHƢƠNG 3 THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM…….………….46
3.1. Mục đích thực nghiệm………………………………………….………….46
3.2. Đối tƣợng thực nghiệm……………………………………….……………46
3.3. Thời gian thực nghiệm………………………………………….…………46
3.4. Mẫu thực nghiệm……………………………………………….………….46
3.5. Tiến hành thực nghiệm…………………………………………….………46
3.5.1. Các bƣớc thực nghiệm………………………………………….………..47
3.5.2. Các tiêu chí đánh giá và phân loại mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ
thông qua hoạt động đọc thơ……………………………………………...……48
Tiểu kết chƣơng 3……………………………………………………...……….55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...........................................................................56
1. Kết luận……..…………………………………………………….…………56
2. Kiến nghị……………………..………………………………….…………..57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì
vậy đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho sự phát triển bền vững, đảm bảo đào tạo
một thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nƣớc. Đại
hội Đảng khóa IX đã khẳng định “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực của con
ngƣời”.
1.2. Hiện nay giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt
giáo dục mầm non chiếm một vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con
ngƣời mới xã hội chủ nghĩa.
Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia
đình, là tƣơng lai của đất nƣớc, là lớp ngƣời sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông cha để
lại, gánh vác mọi công việc xây dựng tổ quốc. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền
đƣợc giáo dục chăm sóc, đƣợc tồn tại và phát triển, đƣợc yêu thƣơng trong gia
đình cộng đồng. Khi xã hội càng phát triển thì giá trị con ngƣời càng đƣợc nhận
thức và đánh giá đúng đắn, do vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ lại càng mang
ý nghĩa nhân văn cụ thể và trở thành đạo lí của thế giới văn minh.
1.3. Việc giáo dục trẻ mầm non phải dựa trên nhu cầu cơ bản, thỏa mãn
những mong muốn tốt đẹp của trẻ, khơi gợi sự phát triển khả năng vốn có của
trẻ.
Trong nhà trƣờng mầm non, việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”
là môn học trọng tâm có vị trí quan trọng trong tất cả các môn học, thông qua
môn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất và sâu sắc nhất đặc biệt
là qua hoạt động dạy thơ cho trẻ. Dạy thơ giúp trẻ tiếp cận cái hay, cái đẹp trong
tiếng nói của dân tộc để từ đó làm giàu cảm xúc của trẻ, phát triển trí tƣởng
tƣợng, giúp trẻ khám phá những điều mới lạ trong xung quanh. Để làm đƣợc
5
những điều đó cần phải cho trẻ tiếp xúc và làm quen với các tác phẩm thơ gần
gũi với trẻ, ngôn ngữ thơ phải dễ hiểu, đơn giản mang màu sắc ngộ nghĩnh, vui
tƣơi hồn nhiên nhí nhảnh, yêu đời. Ngôn ngữ thơ đƣợc đánh giá là một hiện
tƣợng ngôn ngữ độc đáo, mang nhiều hình ảnh với các từ láy, từ tƣợng thanh,
tƣợng hình và các phƣơng tiện tu từ. Tuy nhiên để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
qua thơ đạt hiệu quả cao rất cần tìm hiểu nghiên cứu một cách đầy đủ. Chính vì
những lí do này mà chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh Tân- Xã Minh TânHuyện Bảo Yên- Tỉnh Lào Cai qua tổ chức hoạt động đọc thơ” để nghiên
cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của nhân loại. Nó tồn tại và phát triển đi lên
cùng với xã hội loài ngƣời, nó ln đồng hành và là phƣơng tiện giao tiếp của con
ngƣời. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tƣ duy. Khơng những thế ngơn ngữ cịn
có sức hút mạnh mẽ lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu của rất nhiều các nhà nghiên
cứu khoa học vĩ đại từ nhiều nhà nghiên cứu khác nhau nhƣ: triết học, tâm lí học,
xã hội học, giáo dục học...và đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn.
Có rất nhiều các nhà khoa học trên thế giới cùng tham gia nghiên cứu ngôn
ngữ nhƣ: F.Dsaussre, R.O.shor, E.D.Polivanop, L.X.Vuwuwxxky, O.B.Encơnhin,
K.D.Usinxky, Planton, Arítot,…
Những nghiên cứu tuy khác nhau về phƣơng pháp nhƣng ln tìm hiểu chung
một vấn đề đó là ngơn ngữ.
Ví dụ:
A.VPetrovsky với “Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm”.
A.M.Barodis với “Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em”.
Những nhà khoa học nổi tiếng của Nga cũng có những khám phá vĩ đại về
những vấn đề hồn thiện ngơn ngữ với lứa tuổi mầm non:
A.A.Leeonchiep với “Những cơ sở của lí thuyết hoạt động lời nói”.
N.I Giuwnkin với “Vấn đề hồn thiện nội dung và phương pháp”.
A.N. Xookơlơp với “Lời nói bên trong và tư duy”.
6
Hay các nghiên cứu khác nhƣ:
M.M.Konxoova với “Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học”.
V.X.Mukhina với “Tâm lí học mẫu giáo”.
A.B.Zaporojets với “Cơ sở tâm lí học của trẻ mẫu giáo”.
Ở Việt Nam vấn đề phát triển ngôn ngữ, lời nói cho trẻ cũng đã đƣợc rất
nhiều các nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu nhƣ:
Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lƣu Thị Lan, Nguyễn
Thanh Hồng với: “Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ”, đề cập
tới tiếng Việt dựa vào đó tác giả xây dựng các phƣơng pháp nhằm phát triển và
hoàn thiện lời nói cho trẻ.
Tác giả Hồng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với: “Phương
pháp phát triển ngôn ngữ”. Các tác giả đã đƣa ra các phƣơng pháp nhằm tăng
vốn từ cho trẻ.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hồng Gia, Đồn Thị Tâm với: “Tâm lí
trẻ em lứa tuổi mầm non” đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ
mầm non qua các giai đoạn lứa tuổi.
Luận án Tiến sĩ của Lƣu Thị Lan: “Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ
từ 1 – 6 tuổi”. Nội dung luận án nói về các bƣớc, giai đoạn hình thành phát triển
ngơn ngữ cho trẻ trong độ tuổi từ 1 đến 6 tuổi.
Luận án Phó tiến sĩ tâm lý học: “Đặc trưng tâm lý của trẻ có năng khiếu
thơ”. Tác giả nghiên cứu các đặc trƣng tâm lý trẻ em, trong đó đặc điểm tâm lý
có chứa năng khiếu cảm thụ các tác phẩm thơ ca là đặc trƣng cơ bản nhất.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về: “Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo từ 0-6 tuổi”, đã nghiên cứu về sự phát triển về vốn từ ngữ của
trẻ qua các độ tuổi và đƣa ra các phƣơng pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
em ở lứa tuổi mầm non.
Luận án Tiến sĩ Nguyễn Thị Oanh: “Cơ sở của việc tác động sư phạm đến
sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non”. Dựa trên cơ sở của ngành sƣ phạm tác
giả đã nghiên cứu tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em mầm non.
7
Các cơng trình nghiên cứu trên đều dựa trên việc tìm hiểu đặc điểm phát
triển tâm lí của trẻ trên cơ sở xuất phát cho việc nghiên cứu, những phƣơng pháp
và biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đó là những đóng góp
quý báu trên các phƣơng diện lí luận và thực tiễn, song việc nghiên cứu về các
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi qua các tác phẩm thơ
chƣa có một cơng trình nghiên cứu nào chun sâu. Các cơng trình nghiên cứu
trên là cơ sở quan trọng để tác giả thực hiện đề tài “Một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh Tân- Xã Minh
Tân- Huyện Bảo Yên- Tỉnh Lào Cai qua tổ chức hoạt động đọc thơ ”.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát thực tiễn và tìm hiểu cơ sở lí luận chúng tơi nhằm đề xuất
một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 -6 tuổi thơng qua hoạt động đọc
thơ, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển lời nói cho trẻ qua giờ văn học ở
trƣờng mẫu giáo nói chung.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tìm hiểu và đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động đọc thơ.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu trên 104 trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu giáo Minh Tân – Minh Tân –
Bảo Yên – Lào Cai.
5. Giả thuyết khoa học
Mức độ phát triển ngôn ngữ thông qua một số bài thơ cho trẻ mầm non từ 5 6 tuổi ở trƣờng mầm non hiện nay còn những hạn chế vì chƣa gây đƣợc hứng thú với
trẻ và có biện pháp truyền đạt đến gần hơn với trẻ thì sẽ gây đƣợc hứng thú, cảm giác
thoải mái đối với trẻ, qua đó giúp trẻ phát triển tồn diện về các lĩnh vực đức – trí thể - mĩ nhất là phát triển ngôn ngữ. Các biện pháp đề xuất chứng minh đƣợc tính
khả thi thì sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới phƣơng pháp giáo dục mầm non hiện
nay nhất là ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ và có thể làm tài liệu tham khảo
cho giáo viên mầm non, sinh viên ngành giáo dục mầm non.
8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề cần
nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu, tổng hợp, phân tích tài liệu có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu.
Khảo sát thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi qua tổ chức hoạt
động đọc thơ ở trƣờng mầm non.
Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo trong độ
tuổi từ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ.
Tổ chức thể nghiệm để khẳng định tính khả thi của phƣơng án đề xuất.
Xử lí kết quả nghiên cứu.
7. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn những vấn đề liên quan đến đề tài.
Vì điều kiện thời gian có hạn và khơng có thời gian để nghiên cứu nhiều
trƣờng nên chúng tôi chỉ tiến hành điều tra, khảo sát và thực nghiệm tại trƣờng
Mẫu giáo Minh Tân – Minh Tân – Bảo Yên – Lào Cai.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận
Đọc sách báo và các tài liệu liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu, từ đó
chọn lọc để xây dựng nên cơ sở lí luận của đề tài.
8.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp điều tra
Dùng phiếu điều tra kết hợp trao đổi các thông tin có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu với các giáo viên ở trƣờng mẫu giáo nhằm phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ.
8.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát các tiết học làm quen với các tác phẩm văn học, quan sát và ghi
chép những tác dụng của thơ đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua các
tiết học ở trƣờng mẫu giáo.
8.2.3. Phương pháp thể nghiệm sư phạm xây dựng thiết kế và thiết kế mẫu
9
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài gồm 3 chƣơng.
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
Chƣơng này chúng tôi đề cập tới những cơ sở lí luận về ngơn ngữ nói chung
và ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ mẫu giáo (5 - 6 tuổi) nói riêng.
Chúng tơi nghiên cứu các tác phẩm thơ đƣợc đƣa vào chƣơng trình chăm sóc
giáo dục ở trƣờng mẫu giáo lứa tuổi 5 -6. Đồng thời khảo sát sự tiếp nhận về
phƣơng diện ngôn ngữ thơ trong chƣơng trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 5
-6 tuổi.
Chương 2: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 -6 tuổi qua hoạt động
đọc thơ.
Ở chƣơng này tơi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng phƣơng
pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức dạy thơ cho trẻ 5 -6 tuổi với mục đích
phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Chương 3: Thể nghiệm sư phạm.
Từ những cơ sở lí luận, thực tiễn đã thấy tôi tiến hành thiết kế một số mẫu
giáo án và tiến hành giảng dạy ở một số lớp sau đó xử lý số liệu, vẽ biểu đồ thể
hiện tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi
1.1.1.1. Trẻ em rất giàu xúc cảm, tình cảm
Cảm xúc là những rung cảm xảy ra nhanh chóng, nhƣng mạnh mẽ và rõ rệt
hơn so với màu sắc xúc cảm của cảm giác. Nó mang tính chất khái quát hơn và
đƣợc chủ thể ý thức ít nhiều rõ rệt hơn so với màu sắc, xúc cảm của cảm giác.
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con ngƣời đối với
những sự vật, hiện tƣợng có liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ.
Xúc cảm, tình cảm là nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ, đặc biệt là trẻ lứa tuổi
mẫu giáo. Nhìn chung ở lứa tuổi này, tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt
động tâm lý của trẻ. Chính vì vậy mà nhận thức của trẻ cũng mang đậm màu sắc
cảm xúc. Trẻ ln có nhu cầu đƣợc ngƣời khác quan tâm và cũng luôn bày tỏ
tình cảm của mình với mọi ngƣời xung quanh. Lứa tuổi này đặc biệt nhạy cảm
trƣớc sự thay đổi của thế giới xung quanh và xúc động, ngỡ ngàng trƣớc những
điều tƣởng chừng rất đơn giản. Một bông hoa nở, một chiếc lá rơi, một con kiến
tha mồi hay một đêm trăng sáng... cũng có thể làm trẻ xúc động một cách sâu
sắc. Chính đặc điểm đẹp đẽ nhạy cảm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện, đọc
thơ có thể dễ dàng hố thân vào nhân vật trong tác phẩm. Trẻ thƣờng có những
phản ứng trực tiếp ngay tức thì khi tiếp xúc với tác phẩm. Chúng có thể cƣời, có
thể khóc, có thể sung sƣớng hay tức giận trƣớc những chi tiết, sự kiện của tác
phẩm, những tình huống mà nhân vật gặp phải. Đó là phản ứng hết sức tự nhiên,
biểu thị trạng thái tâm lý chƣa ổn định dễ dao động trƣớc những tác động bên
ngoài. Những phản ứng này tƣơng đồng với nội dung của tác phẩm và nó trở
nên mạnh mẽ nếu có sự đồng cảm của ngƣời lớn. Chính vì vậy, ngơn ngữ, giọng
điệu, ngữ điệu hoặc những cử chỉ, điệu bộ của ngƣời đọc, kể tác phẩm văn học
cho ngƣời nghe là vấn đề hết sức quan trọng. Việc cho trẻ tiếp cận với tác phẩm
11
văn học cho ngƣời nghe là vấn đề hết sức quan trọng. Việc cho trẻ tiếp cận với
tác phẩm văn học, ngồi kiến thức cịn tạo cho trẻ một năng lực cảm nhận cái
đẹp, một thái độ cảm nhận cuộc sống – một phong cách sống.
Trẻ càng lớn tình cảm sẽ dần ổn định, sự hiểu biết của trẻ sẽ phong phú,
phức tạp dần theo mối quan hệ và những hiểu biết về thế giới xung quanh.
Chính vì vậy từ những xúc cảm, tình cảm đƣợc nảy sinh trong quá trình cảm thụ
văn học trẻ sẽ biết yêu thƣơng mọi ngƣời cũng nhƣ vạn vật xung quanh.
Các tác phẩm thơ mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con ngƣời, một thế
giới náo nức sinh động, đáng yêu đầy màu sắc hƣơng vị của thế giới bên ngoài,
của thiên nhiên cây cỏ đƣợc đƣa vào trong thơ qua trí tƣởng tƣợng hồn nhiên
của trẻ thơ mang một màu sắc riêng ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Các tác phẩm thơ nói lên niềm vui, nỗi buồn của nhân vật làm cho trẻ hồi
hộp, cảm động nhƣ chính đó là niềm vui nỗi buồn của bản thân trẻ. Cùng với
những cảm xúc trong các tác phẩm thơ, trẻ cảm thấy cái cảm giác hồi hộp trong
những giây phút căng thẳng, cảm giác bằng lịng, khoan khối, gây cho trẻ niềm
vui và sự hứng thú.
Thế giới thơ luôn bắt đầu từ những cảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống
hàng ngày của trẻ. Đó là những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam,
các tác giả đã cảm nhận về những cảnh vật ấy không chỉ bằng tâm hồn của một
ngƣời nghệ sĩ mà còn bằng trái tim của những con ngƣời yêu thơ. Thiên nhiên
trong thơ mầm non là một thiên nhiên trong trẻo kì diệu và đầy chất thơ.
Có thể tìm thấy trong các tác phẩm văn chƣơng những từ ngữ chính xác biểu
cảm, những bài thơ có nhịp điệu uyển chuyển, những bức tranh thiên nhiên đầy
màu sắc.
Học thơ ca, trẻ sẽ làm quen với cách so sánh, nhân hóa đầy sức thu hút.
“Sân nhà em sáng quá
Nhờ ánh trăng sáng ngời
Trăng trịn nhƣ cái đĩa
Lơ lửng mà khơng rơi
Những đêm nào trăng khuyết
Trông giống con thuyền trôi
12
Em đi trăng theo buớc
Nhƣ muốn cùng đi chơi ....”
Hình ảnh vầng trăng đƣợc tác giả miêu tả với vẻ đẹp hồn nhiên, trong trẻo
rất đặc trƣng của những đêm trăng nơng thơn, những đêm trăng mới thực sự có ý
nghĩa, thực sự là đêm hội của trẻ thơ.
Du ngoạn trong thế giới thơ giúp trẻ phát triển trí tƣởng tƣợng, kích thích tƣ
duy sáng tạo, giáo dục tinh thần nhân đạo, tinh thần đấu tranh, bảo vệ ngƣời tốt
và trừng phạt kẻ xấu…Quả thật các tác phẩm thơ đến với tâm hồn trẻ nhƣ một
sự tự nhiên tất yếu, nó là những tình cảm trong trẻo hồn nhiên nhất, đồng thời
cũng rất chân thành và mãnh liệt.
Viết về thiên nhiên khơng chỉ là để nói về thiên nhiên. Dƣới cái nhìn của
tác giả, hầu nhƣ tất cả hình ảnh về giới tự nhiên đều là biểu trƣng cho tinh thần
đấu tranh, lao động sản xuất của con ngƣời nông thơn.
Các tác phẩm thơ cịn đem đến cho các em tình cảm nồng hậu đối với ơng
bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, thầy cô giáo, với những ngƣời lao động vất vả, với
những chú bộ đội…
1.1.1.2. Trẻ rất giàu trí tưởng tượng
Tƣởng tƣợng là một q trình tâm lí phản ánh những cái chƣa từng có trong
kinh nghiệm của mỗi cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ
sở những biểu tƣợng đã có.
Khơng bao giờ tác giả nhìn sự vật một cách đơn giản nhất, trần trụi mà luôn
luôn phát hiện ra những mối liên hệ của chúng hoặc liên tƣởng tới những hình
ảnh tƣơng đồng khác để từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn.
Nét nổi bật trong tâm lí trẻ lứa tuổi mẫu giáo là sự phong phú về trí tƣởng
tƣợng. Sức tƣởng tƣợng của các em dƣờng nhƣ vô bờ bến. Chúng dùng trí tƣởng
tƣợng để khám phá thế giới và thoả mãn nhu cầu nhận thức của mình. Trí tƣởng
tƣợng là một phần quan trọng của q trình tâm lí, nó góp phần tích cực vào
hoạt động tƣ duy và nhận thức của trẻ. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học,
tƣởng tƣợng của trẻ lứa tuổi mầm non mang tính chất sáng tạo, tƣởng tƣợng của
trẻ gắn chặt với xúc cảm, đó là quan hệ hai chiều. Tƣởng tƣợng phụ thuộc vào
13
sự phát triển của cảm xúc, cảm xúc càng sâu sắc thì tƣởng tƣợng càng phát triển
để phù hợp với cảm xúc đó và ngƣợc lại tƣởng tƣợng cũng giữ vai trò làm giàu
thêm những kinh nghiệm cảm xúc của trẻ. Việc hình thành và phát triển tƣởng
tƣợng của trẻ cũng gắn chặt với hình thành và phát triển ngơn ngữ. Nhờ có ngơn
ngữ mà trẻ có thể hình dung ra đƣợc những gì trẻ nhìn thấy (tƣởng tƣợng). Vì
thế, nếu một đứa trẻ mà ngôn ngữ kém phát triển thì trí tƣởng tƣợng cũng nghèo
nàn. Tƣởng tƣợng giúp cho trẻ có thể sâu chuỗi đƣợc những sự vật, hiện tƣợng
riêng lẻ vào một thể thống nhất, tƣởng tƣợng của trẻ có thể đƣợc phát hiện trong
hoạt động giáo dục, qua các hoạt động giáo dục trẻ sâu chuỗi đƣợc các sự vật,
hiện tƣợng bằng trí tƣởng tƣợng phong phú của mình và tích luỹ đƣợc vốn biểu
tƣợng trong từng hoạt động, sau đó trong những thời điểm hồn cảnh cụ thể, trẻ
sẽ có sự liên tƣởng cần thiết. Trẻ thơ cần có trí tƣởng tƣợng vì vậy việc ni
dƣỡng trí tƣởng cho trẻ là một trong những nhiệm vụ của giáo dục mầm non.
Có thể nói, tƣởng tƣợng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và sống
với những tác phẩm văn học. Trẻ đã sẵn có trong đầu trí tƣởng tƣợng phong phú,
bay bổng nên khi gặp những hình ảnh đẹp đẽ, kì ảo của tác phẩm văn học thì trí
tƣởng tƣợng của trẻ sẽ càng đƣợc thăng hoa. Nhƣ vậy trí tƣởng tƣợng phong phú
của trẻ chính là tiền đề để chúng ta đƣa những tác phẩm văn học đến với trẻ. Trẻ
dùng trí tƣởng tƣợng của mình để tiếp thu những sáng tạo nghệ thuật, và ngƣợc
lại, trí tƣởng tƣợng phong phú, bay bổng trong các tác phẩm văn học sẽ chắp
cánh cho những ƣớc mơ, những hoài bão và sự sáng tạo của trẻ.
1.1.2. Chức năng, vai trị của ngơn ngữ, đặc điểm phát triển ngôn ngữ của
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
1.1.2.1. Chức năng của ngôn ngữ
Một trong những chức năng quan trọng nhất của ngơn ngữ là nó đƣợc làm
phƣơng tiện chính cho sự tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch
sử xã hội của toàn nhân loại cũng nhƣ của từng cộng đồng ngƣời.
Những kinh nghiệm lịch sử của xã hội đƣợc đọng lại (chứa đựng) trong các
công cụ lao động, đối tƣợng lao động, trong các chuẩn mực hành vi của các mối
quan hệ qua lại giữa con ngƣời với nhau…Phần lớn đƣợc ghi lại để truyền bá
14
cho thế hệ sau nhờ ngôn ngữ. Thoạt tiên, đứa trẻ khơng thể tự nhận thức đƣợc
thế giới, nó thƣờng đặt ra nhiều câu hỏi cho bố mẹ và những ngƣời xung quanh.
Nhờ những câu trả lời, giải thích…của ngƣời lớn mà trẻ nhận thức đƣợc một
phần tri thức chung, trẻ tiếp tục sử dụng trong quá trình hoạt động của mình.
Những tri thức mà trẻ chiếm lĩnh đƣợc một phần tri thức chung, trẻ tiếp tục sử
dụng trong quá trình hoạt động của mình. Những tri thức mà trẻ chiếm lĩnh đƣợc
trong đời sống hàng ngày cũng nhƣ thông qua dạy học, giáo dục cũng đƣợc giữ
lại dƣới dạng ngơn ngữ. Nhƣ vậy, hoạt động ngơn ngữ có tác dụng xã hội hóa sự
phản ánh của mỗi cá nhân và làm cho nó trở thành có ý nghĩa.
Chức năng cơ bản thứ hai của ngơn ngữ là nó đƣợc dùng làm phƣơng tiện
chính để giao lƣu và điều chỉnh hành vi của con ngƣời.
Trong cuộc sống của con ngƣời nhiều khi con ngƣời trao đổi thông tin với
nhau không chỉ nhằm mục đích truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, lịch
sử và bản thân, thơng tin đó cũng không phải là đơn vị tri thức đƣợc đƣa vào nhà
trƣờng. Song những trao đổi nhƣ vậy lại rất cần cho sự định hƣớng hoạt động
của con ngƣời trong mỗi thời điểm hay một tình huống nhất định. Và chính
trong những điều kiện này, con ngƣời khơng có cách nào khác là phải dùng
phƣơng tiện ngôn ngữ. Ở đây cơ chế hoạt động diễn ra nhƣ sau:
- Khái quát hóa nội dung những điều phản ánh nhằm lập ra đƣợc “chƣơng
trình” của lời nói và tìm đƣợc các từ tƣơng ứng.
- Khớp nối chƣơng trình đó vào cơ cấu ngữ pháp tƣơng ứng làm thành các
đoạn, mệnh đề câu.
- Chuyển các câu đó vào hoạt động vận dụng tƣơng ứng nói ra hoặc viết ra
hoặc nghĩ thầm.
Chức năng cơ bản thứ ba của ngơn ngữ là nó đƣợc dùng làm cơng cụ của
hoạt động trí tuệ, có chức năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ hoạt động trí
tuệ của con ngƣời. Nó bao gồm cả việc kế hoạch hóa hoạt động, thực hiện hoạt
động và đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đặt ra.
Nhờ có ngơn ngữ mà con ngƣời có thể lập ra kế hoạch, định ra mục đích
cần đạt tới trƣớc khi tiến hành bất cứ một cơng việc gì và kể cả trong khi tiến
15
hành cơng việc, hoạt động nhận thức (cảm tính, lý tính). Nhờ có ngơn ngữ mà
con ngƣời có thể tổ chức, hƣớng dẫn, điều khiển, điều chỉnh đƣợc hoạt động lao
động chân tay của mình. Điều đó đem lại cho con ngƣời những thành tựu vĩ đại
khác xa về chất so với động vật: hành động có ý thức.
Ba chức năng cơ bản nói trên của ngơn ngữ có mỗi quan hệ khăng khít với
nhau. Dƣới một góc độ nào đó, chúng ra có thể quy chúng về một chức năng là
giao lƣu (giao tiếp). Hơn nữa, nếu xét vai trị của ngơn ngữ nhƣ một cơng cụ của
hoạt động trí tuệ thì chính cơng cụ này cũng biểu hiện nhƣ một hoạt động giao
lƣu với bản thân mà thôi (độc thoại). Mặt khác, cơng cụ đó cũng đƣợc bộc lộ
nhƣ một hoạt động điều chỉnh hành vi và hành động của con ngƣời.
1.1.2.2. Vai trị của ngơn ngữ
a. Ngơn ngữ là cơng cụ của giao tiếp
Có thể nói bản chất của con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì
vậy, muốn tồn tại đƣợc trong cộng đồng ngƣời phải giao tiếp với nhau.
Ngôn ngữ làm cho con ngƣời xích lại gần nhau hơn. Nhờ ngơn ngữ mà con
ngƣời có thể hiểu đƣợc nhau, trao đổi với nhau những tâm tƣ, tình cảm, nguyện
vọng, rồi có thể cùng nhau hành động vì lợi ích chung. Khơng có ngơn ngữ thì
khơng thể giao tiếp thậm chí là khơng thể phát triển đƣợc nhất là đối với trẻ em
– những sinh thể yếu ớt cần đƣợc chăm sóc, bảo vệ của ngƣời lớn. Muốn bảo vệ,
chăm sóc và phát triển trẻ phải thông qua hoạt động ngôn ngữ. Và ngƣợc lại, khi
trẻ lớn lên trẻ đã biết nói thì việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ là để bày tỏ nguyện
vọng, sự hiểu biết của mình. Nhƣ vậy, ngơn ngữ chính là một trong những
phƣơng tiện thúc đẩy trẻ để trẻ trở thành một thành viên của xã hội. Ngơn ngữ
cũng chính là một cơng cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ đƣợc những tình cảm,
nguyện vọng của mình từ khi cịn rất nhỏ để qua đó ngƣời lớn có thể chăm sóc,
giáo dục giúp trẻ tham gia vào các hoạt động hằng ngày, từ đó hình thành nhân
cách cho các cháu.
b. Vai trị của ngơn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ
U.Sinski đã nhận định nhƣ sau: “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển,
là vốn quý của mọi tri thức”. [T16- 15]
16
Ngôn ngữ là phƣơng tiện giúp trẻ nhận thức về thế giới xung quanh. Bởi vì,
sự phát triển trí tuệ ở trẻ chỉ diễn ra khi trẻ lĩnh hội đƣợc những tri thức về sự
vật, hiện tƣợng xung quanh. Tuy nhiên, sự lĩnh hội tri thức đó khổng thể thực
hiện đƣợc nếu khơng có ngơn ngữ.
Ngơn ngữ và tƣ duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngơn ngữ là kết quả
của tƣ duy cố định lại. Có thể nói khơng có tƣ duy thì ngơn ngữ chỉ là những âm
thanh vô nghĩa. Ngôn ngữ và tƣ duy thúc đẩy sự phát triển lẫn nhau. Ngôn ngữ
là sự hiện hữu của tƣ duy.
Khi trẻ đã lớn nhận thức của trẻ phát triển, trẻ không chỉ nhận biết về sự vật,
hiện tƣợng gần gũi với trẻ mà còn muốn biết những sự vật, hiện tƣợng khơng
nhìn thấy, trẻ dùng từ để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng, tên các chi tiết, các đặc
điểm, tính chất, cơng dụng để phân biệt sự vật, hiện tƣợng này với sự vật, hiện
tƣợng khác. Trẻ muốn biết về quá khứ, về tƣơng lai, về công việc của ngƣời lớn,
của bố mẹ, trẻ muốn biết về Bác Hồ, về chú bộ đội… Để đáp ứng đƣợc nhu cầu
nhận thức đó của trẻ, khơng có cách nào khác là thông qua lời kể của ngƣời lớn,
thơng qua các tác phẩm văn học… có kết hợp với hình ảnh trực quan.
Khi đã có một vốn ngơn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ nhƣ một
phƣơng tiện để biểu hiện nhận thực của bản thân mình. Trẻ có thể dùng lời kể để
diễn đạt chính xác những hiểu biết của mình, đặt ra câu hỏi, yêu cầu, nguyện
vọng, thể hiện thái độ, tình cảm yêu ghét, thƣơng cảm… Biểu hiện bằng ngôn
ngữ giúp cho nhận thức của trẻ đƣợc củng cố sâu hơn, tạo cho trẻ đƣợc sống
trong mơi trƣờng có các hoạt động giao tiếp, trên cơ sở đó tạo ra nhiều suy nghĩ,
sáng tạo mới. Vì vậy, trong các trƣờng mầm non, khi cho trẻ tiến hành các hoạt
động chơi vui, lao động, học tập… cần phải tạo điều kiện và kích thích trẻ nói.
Một trong những phƣơng pháp để kiểm tra nhận thức của trẻ là phải thông
qua ngôn ngữ. Nhƣ vậy ngôn ngữ đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc
giáo dục trí tuệ cho trẻ, thơng qua ngơn ngữ trẻ có thể nhận thức về thế giới
xung quanh một cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác. Ngơn ngữ giúp trẻ tích cực
sáng tạo trong hoạt động trí tuệ. Nhƣ vậy việc phát triển trí tuệ cho trẻ khơng thể
tách rời việc phát triển ngôn ngữ.
17
c. Vai trị của ngơn ngữ trong giáo dục đạo đức
Phát triển hồn thiện dần ngơn ngữ cho các cháu ở lứa tuổi mầm non có ý
nghĩa to lớn trong việc phát triển tình cảm đạo đức. Ở lứa tuổi mầm non, đặc
biệt là lứa tuổi mẫu giáo các cháu bắt đầu hiểu biết và lĩnh hội những khái niệm,
những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tuy mới chỉ là những khái
niệm ban đầu nhƣng lại vơ cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến việc
hình thành những nét tính cách riêng biệt của mỗi ngƣời trong tƣơng lai. Muốn
cho các cháu hiểu và lĩnh hội đƣợc những khái niệm đạo đức này, chúng ta
không thể chỉ thông qua những hoạt động cụ thể hoặc những sự vật, hiện tƣợng
trực quan đơn thuần mà phải có ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ mà các cháu có thể
thể hiện đầy đủ những nhu cầu, nguyện vọng và tình cảm của mình. Cũng nhờ
có ngơn ngữ mà các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ có điều kiện để hiểu con
cháu mình hơn, để từ đó có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho các cháu
những tình cảm, hành vi đạo đức trong sáng nhất.
d. Vai trị của ngơn ngữ trong việc giáo dục thẩm mỹ
Ngơn ngữ có vai trị quan trọng trong q trình tác động có mục đích, có hệ
thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng cái đẹp trong
tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái
đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp.
Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày, khi giao tiếp với ngƣời lớn, trẻ nhận
thức đƣợc cái đẹp ở xung quanh, từ đó trẻ có thái độ tơn trọng cái đẹp và tạo ra
cái đẹp. Đặc biệt khi tiếp xúc với bộ môn nghệ thuật nhƣ: Âm nhạc, tạo hình, trẻ
có thể cảm nhận đƣợc những cái đẹp tuyệt vời của cuộc sống qua âm thanh,
đƣờng nét… Từ đó giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về giá trị thẩm mỹ, tâm hồn trẻ sẽ
nhạy cảm hơn với cái đẹp, và khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trẻ có
thể tìm thấy ở đó những hình tƣợng, nhân vật điển hình, mỗi nhân vật mang một
sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng, từ đó trẻ biết mình nên sống thế nào.
1.1.2.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
Nhìn chung đến cuối tuổi mẫu giáo(5 – 6 tuổi) trẻ đã có khả năng nắm đƣợc
ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm gần đúng sự phát âm của ngƣời lớn,
18
biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc biệt là nắm đƣợc hệ
thống ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về
phƣơng tiện cú pháp và về phƣơng diện tu từ, trẻ nói năng mạch lạc và thoải
mái.
a. Phát triển vốn từ
Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) tăng lên đáng kể. Trẻ có khoảng
3000- 4000 từ vào cuối tuổi [35].
Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là cung cấp từ mới cho trẻ mà cần
giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết.
b. Rèn phát âm và sử dụng ngữ điệu thích hợp
Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp đƣợc
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trƣớc hết là trong giao tiếp
hàng ngày của trẻ với ngƣời lớn, với bạn bè.
Trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập và đặc biệt trong khi
kể chuyện cho trẻ nghe và khi trẻ kể chuyện cho ngƣời khác nghe chúng ta cần
dạy trẻ phát âm đúng và sử dụng những ngữ điệu thích hợp.
c. Rèn trẻ nói đúng ngữ pháp
Trong giao tiếp hàng ngày hay trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ
ngƣời lớn phải tập cho trẻ nói đúng cấu trúc câu: Có chủ ngữ, có vị ngữ, sử dụng
trạng từ, bổ ngữ phù hợp. Cần phải tạo nhiều tình huống, cơ hội để trẻ giao tiếp,
bộc lộ những ý muốn, hiểu biết của mình với ngƣời lớn, bạn bè bằng lời nói của
chính trẻ, quan sát trẻ nói với nhau qua đó sửa sai uốn nắn cho trẻ.
d. Phát triển ngôn ngữ mạc lạc
Trong quá trình giao tiếp và trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động để kích
thích trẻ nói năng mạch lạc ngƣời lớn cần tạo điều kiện để trẻ nói rõ ràng, sắp
xếp các ý theo một trình tự hợp lý, nêu bật đƣợc các ý cần nhấn mạnh để ngƣời
nghe hiểu một cách dễ dàng.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Tác phẩm thơ trong chƣơng trình “Chăm sóc – giáo dục trẻ Mầm
non” lứa tuổi 5 – 6
19
1.2.1.1. Đặc điểm các tác phẩm thơ trong chương trình “chăm sóc – giáo dục”
trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
Các tác phẩm thơ nói chung và những tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi nói
riêng đều thuộc nghệ thuật sáng tác văn học, vì vậy nó cũng mang đầy đủ đặc
điểm của sáng tác nghệ thuật ngơn từ. Nó thực hiện các chức năng chung của
văn học. Chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ, chức
năng giao tiếp, chức năng giải trí. Các chức năng này khơng tồn tại tách rời, mà
gắn bó chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ chuyển hoá lẫn nhau. Nhƣng do đối
tƣợng phục vụ chủ yếu là trẻ em nên nó có những đặc điểm đƣợc nhấn mạnh.
Trƣớc hết tính giáo dục đƣợc coi là một trong những đặc trƣng cơ bản nhất
của văn học thiếu nhi. Văn học thiếu nhi có vai trị vơ cùng to lớn trong việc
giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em, cả về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, bên cạnh
tính giáo dục thì khả năng khơi gợi, kích thích trí tƣởng tƣợng sáng tạo của trẻ
cũng là một đặc điểm không thể thiếu của văn học viết cho các em. Hơn bất cứ
loại hình nghệ thuật nào, sáng tác văn học thiếu nhi phải quan tâm tới đặc điểm
tâm lý của văn học thiếu nhi. Chính điều này cũng làm nên sự khác biệt giữa văn
học thiếu nhi và văn học ngƣời lớn. Tuổi thơ hồn nhiên, ngây thơ, tâm hồn trong
sáng dạt dào cảm xúc và trí tƣởng tƣợng tuyệt vời phong phú bay bổng. Các em
có thể nghe đƣợc mọi âm thanh của cỏ cây, hoa lá, trò chuyện đƣợc với mn
lồi, giao cảm hồ đồng với thiên nhiên... Có thể nói khả năng hồ đồng của các
em với thiên nhiên là vơ tận. Chính vì vậy, tƣởng tƣợng là một yếu tố không thể
thiếu trong các tác phẩm viết cho các em.
Các tác phẩm thơ viết cho lứa tuổi mầm non, đặc biệt là thơ dành cho đối
tƣợng là những "bạn đọc" chƣa biết đọc, biết viết nên ngoài những tiêu chí
chung của văn học thiếu nhi nó cịn có những đặc điểm đƣợc nhấn mạnh, phù
hợp với tâm, sinh lý đặc thù của lứa tuổi này. Có thể kể ra một số đặc trƣng cơ
bản sau đây:
a. Ngắn gọn, rõ ràng
Trƣớc tiên ta có thể thấy các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi đều rất ngắn
gọn, ý thơ rõ ràng, ngƣời tiếp nhận có thể dễ dàng đọc, hiểu tác phẩm, tiếp thu
20
tác phẩm một cách nhẹ nhàng khơng cảm giác gị bó, quá sức. Đặc biệt đối với
chúng ta là các em nhỏ, đang ở độ tuổi chơi, trẻ rất ham vui và chƣa muốn phải
học nhiều. Vì vậy sự ngắn gọn ở đây là rất cần thiết, các bé vừa đọc thơ mà
không phải chịu áp lực quá lớn.
Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lƣợng của tác phẩm mà còn thể hiện
cả trong câu thơ. Bài thơ có thể có dạng thơ ba chữ, bốn chữ, năm chữ, câu thơ
ngắn, vui nhộn.
“ Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đƣa sách ngƣợc
Ngỗng cứ tƣởng xuôi
Cứ giả đọc nhầm
Làm vịt phì cƣời
Vịt khuyên một hồi:
- Ngỗng ơi! Học! Học!”
(Ngỗng và Vịt – Phạm Hổ)
“Bé này, bé ơi!
Đừng chơi đất cát
Hãy vào bóng mát
Khi trời nắng to
Sau lúc ăn no,
Đừng cho chân chạy
Mỗi sớm ngủ dạy
Rửa mặt đánh răng
Sắp đến bữa ăn rửa tay đã nhé!
Bé ơi! Bé này...”
( Bé ơi! – Phong Thu)
21
Sự ngắn gọn của những bài thơ viết cho trẻ lứa tuổi mầm non còn đƣợc thể
hiện ở ý nghĩa của từ vựng. Với cách miêu tả trực tiếp, trẻ có thể dễ dàng hình
dung ra và hiểu rõ sự việc, hiện tƣợng đƣợc thể hiện trong các tác phẩm.
* Về thể thơ
Các tác phẩm trong chƣơng trình đều viết dƣới dạng câu thơ ngắn, cụ thể là:
Thơ ba chữ: Anh xe lu, Ấm và chảo, Mười ngón tay, Bập bênh.
Thơ bốn chữ: Bé ơi, Lời chào, Không vứt rác ra đường, Mẹ và con..
Thơ năm chữ: Ông mặt trời, Đi bừa, Con đường của bé, Cải chíp.
Thơ lục bát: Vườn cải, Em yêu nhà em, Cây cau, Ếch con học bài.
Với thể thơ ngắn gọn các tác phẩm thơ giúp trẻ dễ thuộc dễ nhớ qua đó tạo
hứng thú cho trẻ. Đây là điều kiện thuân lợi để giáo viên phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ.
* Về ngơn ngữ, nhịp điệu và vần điệu
Ngôn ngữ trong các tác phẩm đƣợc lựa chọn đƣa vào chƣơng trình đều rất
giản dị, trong sáng dễ hiểu, có nhiều từ ngữ nghệ thuật nhƣ tính từ chỉ màu sắc,
từ tƣợng hình, từ tƣợng thanh, từ láy hoặc những hình ảnh so sánh hết sức sinh
động.
VD: Bài “Tiếng gà trưa” cần đọc với tốc độ vừa phải, giọng vang khỏe thể
hiện niềm vui, náo nức, rộn ràng vui tƣơi của các chú bộ đội trên đƣờng hành
quân xa với âm hƣởng vui tƣơi bài thơ giúp trẻ dễ đọc dễ tiếp nhận. Phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ thơ. Dƣới ngòi bút miêu tả đặc sắc bức tranh thiên
nhiên thật sinh động giàu hình ảnh đã đƣợc các nhà thơ vẽ nên, thế giới xung
quanh nhƣ bừng sáng nên rực rỡ hơn, từ cỏ cây hoa lá, phản ánh cuộc sống sinh
động của con ngƣời nên thật sống động và tƣơi đẹp. Nhìn chung tác phẩm thơ
đƣợc lựa chọn đƣa vào “chƣơng trình chăm sóc – giáo dục mầm non” đều là
những tác phẩm có nội dung và hình thức nghệ thuật phù hợp với sự tiếp nhận
của trẻ. Tuy nhiên, do cơ cấu của chƣơng trình, số lƣợng tác phẩm đƣợc đƣa vào
có giới hạn do đó các cơ giáo mầm non có ý thức sƣu tầm, lựa chọn thêm những
tác phẩm phù hợp để trẻ luôn đƣợc tiếp xúc với những tác phẩm mới mọi lúc,
22
mọi nơi và phải rèn luyện nâng cao khả năng đọc diễn cảm thì mới có thể truyền
dạy đƣợc những cái hay, cái đẹp tới các cháu.
* Về nội dung
Văn học nghệ thuật, đặc biệt là các tác phẩm thơ có vai trị to lớn trong việc
hình thành phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Việc cho trẻ lứa tuổi mầm non
làm quen với các tác phẩm văn học nói chung và các tác phẩm thơ nói riêng từ lâu
đã đƣợc đặt ra nhƣ một nội dung, một phƣơng tiện vơ cùng quan trọng trong
chƣơng trình giáo dục trẻ. Là loại hình nghệ thuật ngơn từ, thơ văn có khả năng đi
vào lòng ngƣời một cách tự nhiên và sâu sắc. Có thể nói, đó là một trong những
phƣơng tiện hữu hiệu nhất để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ một cách
toàn diện. Thơ văn mang lại cho trẻ cái đẹp, cái cao quý, cái chân, cái thiện.
Phạm vi phản ánh của tác phẩm này rất phong phú, rộng rãi nhƣng là những
vấn đề rất cụ thể. Trƣớc hết lòng nhân ái đƣợc biểu hiện trong tình yêu thƣơng
giữa con ngƣời với con ngƣời.
Một trong những nội dung cơ bản của văn học thiếu nhi nói chung và thơ
nói riêng đều đề cập tới tình cảm gia đình với ơng bà, cha mẹ, anh chị em.
VD: Mời trầu, Bà và cháu, Mẹ ốm…
“Mẹ ốm” là câu chuyện cảm động thể hiện tình yêu của con cái đối với mẹ.
Hình ảnh ngƣời con hết lịng chăm sóc, lo lắng, quan tâm, động viên khi ngƣời
mẹ mình bị ốm.
“Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện, rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo”
Với tình cảm trong trẻo, ngây thơ, hồn nhiên của con ngƣời và niềm mong
mỏi luôn muốn cho mẹ khỏi ốm đƣợc thể hiện qua những vần thơ giản dị, mộc
mạc, chân thành.
“Con mong mẹ khỏe dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say”
23
Thật cảm động biết bao trƣớc tình cảm đẹp đẽ của ngƣời con – một cậu bé
chƣa đầy 10 tuổi, chỉ bằng một câu thơ:
“Mẹ là đất nƣớc tháng ngày của con”
Đã nói lên biết bao tình cảm của ngƣời con dành cho ngƣời mẹ. Tình cảm
đó thật thiêng liêng cao cả, ngƣời mẹ trong suy nghĩ của con luôn là hình tƣợng
vĩ đại nhất, giữ vị trí vơ cùng quan trọng, mẹ là nơi che chở, là cuộc sống của
con.
Tình cảm với thầy cơ, bạn bè và những ngƣời lao động, những nguời có
cơng với đất nƣớc cũng là một nội dung đƣợc nhắc đến trong thơ Trần Đăng
Khoa viết cho trẻ em lứa tuổi mầm non. Có thể kể tới Mưa, Hạt gạo làng ta,
Ảnh Bác, Gửi bạn Chi-Lê, Buổi sáng nhà em,…
Bài “Hạt gạo làng ta” giúp trẻ hiểu đƣợc sự vất vả, lam lũ của nguời dân
trong q trình làm ra hạt gạo. Hạt khơng chỉ là kết tinh của những giá trị vật
chất (phù sa, mƣa, bão…) và những giá trị tinh thần (hƣơng sen thơm, lời ru hát)
mà còn là kết quả của những vật lộn của ngƣời nông dân chống chọi với sự khắc
nghiệt của thời tiết và sự khốc liệt của chiến tranh. Vì thế, mỗi hạt thóc, hạt gạo
làm ra khơng chỉ mang nặng công ơn cô bác nông dân và cịn mang trong đó cả
niềm vui và lịng tự hào của cả dân tộc, vƣợt lên khó khăn để chiến thắng kẻ thù.
Bài “Chú giải phóng quân” thể hiện niềm vui đón chú giải phóng quân từ
tuyền tuyến về và ƣớc mơ của các bạn nhỏ trong thời kì đất nƣớc kháng chiến
chống Mỹ. Qua đó, bài thơ cũng khơi dậy trong em niềm yêu mến tự hào về các
chú bộ đội…
Có nhiều tác phẩm văn học (đặc biệt là sáng tác của thiếu nhi những năm
chống Mỹ) nói chung và tác phẩm thơ nói riêng cịn nói về tình cảm sâu nặng
của trẻ thơ Việt Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Tuy Bác đã đi xa nhƣng qua
những bài thơ này, có cảm giác nhƣ Bác vẫn rất gần gũi với các em:
“Em nghe nhƣ Bác dặn lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa…”
(Ảnh Bác – Trần Đăng Khoa)
24
* Các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi có thể giáo dục trẻ trên nhiều phương
diện: Thẩm mỹ, phát triển lời nói mạch lạc, lời nói nghệ thuật và phát triển
nhân cách
Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn thơ ngây, trong trắng, chƣa có nhiều những
trải nghiệm cá nhân, nhận thức về thế giới xung quanh ở mức cảm tính…,
nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngơn từ và trí tƣởng tƣợng phong
phú trong tác phẩm văn học sẽ là cơ sở để các em rung động và cảm nhận
đƣợc vẻ đẹp về một thế giới bao la đầy âm thanh, màu sắc và sự huyền bí.
VD:
Bài thơ: Con bướm vàng
Mở đầu bài thơ, tác giả viết một cách tự nhiên:
“Con bƣớm vàng!
Con bƣớm vàng!”
Lời thơ rất hồn nhiên nhƣ chính tiếng reo vui sƣớng của cậu học trò. Con
bƣớm nhƣ một nàng tiên “bay nhẹ nhàng” nổi bật lên “bên bờ có”. Gợi cho chú
bé tính tị mị thèm muốn đƣợc quan sát.
“Em thích quá
Em đuổi theo”.
Nhƣng tiếc thay:
“Con bƣớm vàng.
Có bộ cánh
Vút lên cao”
Để lại chú bé ngẩn ngơ bên đám cỏ xanh với bao nuối tiếc:
“Em nhìn theo.
Con bƣớm vàng!
Con bƣớm vàng.”
Hai câu thơ đầu và câu thơ cuối vẫn chỉ là ”Con bƣớm vàng” nhƣng diễn tả
hai tâm trạng khác nhau. Đó là tâm trạng của sự mời mọc thèm muốn và tâm
trạng của sự tiếc nuối, thất vọng. Lời thơ tự nhiên nhƣ lời kể chuyện, nhƣng lại
25