Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.86 KB, 35 trang )

Mở đầu.
Ngay từ những ngày đầu tiên khi nền công nghiệp ngân hàng ra đời và phát
triển, tín dụng đã là một phần không thể thiếu, một chức năng đặc trng, tiêu biểu
trong hoạt động của nó. Một tổ chức kinh tế không thể đợc gọi là một ngân hàng
nếu trong đó không phát sinh hoạt động tín dụng, nói cách khác là hoạt động đi
vay và cho vay. Có lẽ, quan hệ tín dụng trong nền kinh tế đã tồn tại trớc khi ngân
hàng đầu tiên xuất hiện, nó có mục đích lớn nhất là phân phối các nguồn vốn trong
nền kinh tế theo cách hiệu quả nhất, chuyển những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
đến những nơi thiếu hay cần vốn nhằm thu lợi cao hơn. Thế nhng, hoạt động tín
dụng sẽ mãi là nhỏ lẻ, không mang lại hiệu quả tối đa nếu nó cứ diễn ra giữa từng
cá nhân hay thậm chí từng tổ chức. Sự xuất hiện của ngân hàng đã giải quyết đợc
vấn đề này, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có khả năng huy động,
tập trung các nguồn vốn trong nền kinh tế với qui mô lớn, đa dạng về chủng loại.
Vì thế, giờ đây bên cạnh vay vốn dựa trên quan hệ cá nhân, trực tiếp giữa hai bên,
ngời ta có thể vay tín dụng thông qua ngân hàng với qui mô và loại hình không
hạn chế. Hơn thế nữa sự hình thành quan hệ tín dụng trong ngân hàng thơng mại
giúp giảm chi phí cho sự lu thông vốn, khiến cung và cầu vốn tiếp xúc với nhau
thuận tiện và dễ dàng hơn. Sự xuất hiện của ngân hàng chính là sự phát triển hoàn
thiện của quan hệ tín dụng, nó đã khiến hoạt động tín dụng phát huy tối đa hiệu
quả trong việc thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Và cũng vì lẽ đó, tín
dụng luôn gắn chặt với lịch sử phát triển của ngân hàng, nó là yếu tố quyết định sự
thành bại của một ngân hàng. Cùng với sự phát triển chung của ngành ngân hàng,
hoạt động tín dụng trong ngân hàng cũng có những tiến bộ đáng kể, ngày càng có
nhiều hình thức cho vay với qui mô và hình thức không hạn chế. Tuy không còn
chiếm vai trò độc tôn trong ngân hàng nh cách đây vài thập kỉ nhng ngày nay, cho
vay vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 trên tổng tài sản của một ngân hàng, và vẫn là một
nguồn thu nhập chủ yếu hết sức quan trọng đối với mọi ngân hàng. Không những
thế, đứng trớc những đòi hỏi mang tính thời đại, sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật,
công nghệ thông tin và sự phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu theo hớng mở
cửa hội nhập, việc quản lí hoạt động tín dụng, phát hiện và phòng chống rủi ro tín
dụng là một nhiệm vụ cấp thiết, sống còn đối với công tác quản lí cũng nh sự phát


triển chung của ngân hàng thơng mại.
Với những nhận thức cơ bản đó, em tiến hành đề tài này theo ba phần nh sau:
1
Phần A: Rủi ro tín dụng trong ngân hàng thơng mại: phần này nhằm mục
đích giới thiệu chung về hoạt động tín dụng của ngân hàng thơng mại, đặc biệt là
các hình thức cho vay mà ngân hàng thơng mại đang tiến hành
Phần B: Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng : phần này trình bày một số
biện pháp chủ yếu mà các ngân hàng hay sử dụng để phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Đó là các biện pháp nh phòng ngừa trớc và sau cho vay, công tác thẩm định dự án,
phân tích tín dụng v.v sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, nh quản lí khe hở, sử dụng
các công cụ tài chính phát sinh nh hợp đồng tơng lai, quyền chọn và giao dịch
hoán đổi và một số yếu tố khác.
Phần C: Đây là phần đợc dành để trình bày một số nhận định của bản thân về
thực trạng hoạt động và một số nguy cơ trong tơng lai của công tác tín dụng trong
NHTM. Một số giải pháp chung đợc nêu lên có tính chất tham khảo.
Trong quá trình trình bày đề án này, chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, có thể có những thiếu sót nghiêm trọng, song với tinh thần không ngại
khó, em mong các thầy cô đọc và góp ý cho em về vấn đề mà em nghiên cứu. Em
xin đợc cảm ơn các thầy cô.
2
Phần A.Rủi ro tín dụng trong ngân hàng th ơng mại.
I.Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thơng mại:
Tín dụng nhìn chung là để chỉ quan hệ vay mợn nói chung trong nền kinh tế,
trong đó có những đặc điểm mang tính đặc thù nh thời hạn, lãi suất, hình thức v.v
Trong quan hệ tín dụng, có sự xuất hiện của hai bên là bên đi vay và bên cho vay.
Tín dụng trong ngân hàng cũng vậy, chỉ có điều là ở đây có một bên đã đợc xác
định, đó là một ngân hàng thơng mại. Ngân hàng thơng mại(NHTM) với t cách là
một trung gian tài chính, một tổ chức kinh doanh độc lập, mục tiêu duy nhất và
cao nhất là lợi nhuận, điều này khiến NHTM khác với ngân hàng nhà nớc, khác
với các doanh nghiệp và các thể chế tài chính khác. Cũng vì thế mà hoạt động tín

dụng trong NHTM mang những đặc điểm riêng, một trong những đặc điểm đó
chính là mức độ và ảnh hởng của rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Có lẽ không một thể chế tài chính nào lại có rủi ro tín dụng đa dạng, phức
tạp và khó quản lí nh NHTM( chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn ở phần sau). Nhng
khó không có nghĩa là chúng ta không hay không thể làm đợc, và chúng ta nên bắt
đầu việc này bằng cách nhìn lại một cách tổng quát và có hệ thống về tín dụng
trong ngân hàng thơng mại. Nói đến quan hệ tín dụng nghĩa là nói đến đi vay và
cho vay, NHTM có thể là bên đi vay khi nó nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu(ở
một số nớc luật pháp không cho phép)v.v. Đó là một mảng hoạt động lớn của ngân
hàng vì nó tạo ra nguyên liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên trong phạm vi của đề tài này, chúng ta sẽ dành sự chú ý đặc biệt vào
ngân hàng khi họ đóng vai trò là ngời cho vay, vì đó chính là mặt chủ yếu thể hiện
rõ nhất, bản chất nhất quan hệ tín dụng trong ngân hàng thơng mại.
Có thể nói, hiện nay, một ngân hàng thơng mại có thể cung cấp rất nhiều hình
thức cho vay đối với khách hàng, nói cách khác là có rất nhiều tiêu trí để phân biệt
các loại hình cho vay khác nhau từ ngân hàng : theo đối tợng đợc vay vốn, theo
qui mô vay vốn, theo mục đích vay, thời hạn vay v.v Tuy nhiên, để thuận tiện cho
việc nghiên cứu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thơng mại, có thể nêu ra các loại
hình cho vay sau:

3
1.Cho vay thấu chi( Overdraft lending):
Nh chúng ta đã biết, thấu chi là chỉ hành động phát hành hay thanh toán quá
số d của tài khoản, đặc biệt là tài khoản vãng lai( curent account) mà khách hàng
đã mở tại một ngân hàng. Tất nhiên chúng ta có thể cho rằng, ngân hàng sẽ chỉ
cho phép khách hàng phát hành trong phạm vi số d trên tài khoản. Tuy nhiên để
làm đợc điều này không phải dễ dàng, việc khớp đúng số d trên tài khoản và quá
trình thanh toán đặc biệt là thanh toán séc có sự đảm bảo chi trả của ngân hàng
không phải là hai quá trình luôn luôn song song và đồng thời, việc rút số d của tài
khoản chỉ thờng đợc tiến hành định kì trong khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh

trên tài khoản thì biến động liên tục trong kì. Hơn thế nữa để tạo thuận lợi cho
khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngân hàng hoản toàn có thể đáp
ứng những nhu cầu cấp bách và chính đáng của doanh nghiệp về tiền mặt, tiền
thanh khoản, trong những khoảng thời gian thích hợp. Nghĩa là ngân hàng cũng
không nên tìm cách để ngăn ngừa mọi hành động thấu chi. Để bù đắp cho những
khoản thấu chi đó, ngân hàng có thể coi đó là một khoản vay đợc cung cấp cho
khách hàng, cho vay thấu chi. Loại cho vay thấu chi này có đặc điểm là không
tuân theo quá trình thẩm định cho vay thông thờng, thờng có thời hạn ngắn thậm
chí rất ngắn, và nó có thể tiềm ẩn nguy cơ rủi ro tín dụng rất cao nếu không có
biện pháp giám sát và quản lí chặt chẽ. Do vậy đây cũng thờng là món vay có lãi
suất tơng đối cao, có khi còn có những khoản phạt, hậu quả của việc thấu chi.
2. Cho vay đối với doanh nghiệp:
Thực sự đây là một hình thức cho vay vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung vì nó cung cấp vốn, nguồn lực không thể thiếu cho sự hoạt động của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp chính là những thành viên tích cực và hiệu quả nhất
trong việc đóng góp vào sự tăng trởng và phát triển kinh tế nói chung của một
quốc gia. Vì thế, việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp đồng nghĩa với việc tạo đà
phát triển cho cả nền kinh tế nói chung và khi món vay đó mang lại hiệu quả thì cả
ngân hàng, doanh nghiệp cũng nh nền kinh tế nói chung đều có lợi. Bình thờng,
doanh nghiệp có thể có rất nhiều nguồn vốn khác nhau, do tự có, tài trợ, còn nếu là
vay thì có thể vay từ ngân sách nhà nớc, ngân hàng trung ơng v.v Tuy nhiên do đối
tợng nghiên cứu của chúng ta ở đây là ngân hàng thơng mại(NHTM), nên với
những đặc điểm riêng của mình NHTM thờng cung cấp những khoản vay sau đối
với doanh nghiệp.
4
a, Cho vay dài hạn (term loans):
Những khoản vay này thờng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về máy móc
thiết bị, dây chuyền sản xuất hay nhà xởng cho doanh nghiệp. Do đây là những
khoản vay có kì hạn dài và qui mô lớn nên nguy cơ rủi ro tín dụng cũng tơng đối
cao, thời gian càng dài thì sắc xuất của việc khả năng tài chính của doanh nghiệp

xấu đi, và việc không thu hồi đợc vốn càng tăng. Để hạn chế bớt rủi ro này, ngân
hàng thờng có những chính sách cụ thể. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản thế
chấp, tuy nhiên đây có thể cha phải giải pháp hiệu quả nhất khi mà thông thờng
giá trị giữa tài sản thế chấp và khoản cho vay có sự chênh lệch, đặc biệt là tính
thanh khoản của nó. Ví dụ, sau khi vay ngân hàng, doanh nghiệp đã sớm nhận ra
nguy cơ thua lỗ của dự án, họ có thể bán phân xởng của mình để thanh toán toàn
bộ nợ cho ngân hàng nhng lại không thể đợc vì đây là tài sản thế chấp. Và để duy
trì sự tồn tại của doanh nghiệp, họ phải xoay sở để gánh chịu lãi suất của ngân
hàng, khi sự việc vỡ lở, cái phân xởng của họ không thể có giá trị nh trong điều
kiện bình thờng, mặt khác gánh nặng nợ nần lại chồng chất thêm rất nhiều. Vì thế,
để tránh cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng này, ngân hàng thờng áp dụng cho
vay từng phần, theo từng giai đoạn đầu t,cho vay theo hạng mục. Tài sản thế chấp
có thể chính là những tài sản mà doanh nghiệp muốn đầu t khoản vay của mình.
Ngân hàng cũng đa dạng các hình thức thanh toán các khoản vay theo hớng tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, có thể trả nhiều lần bao gồm cả gốc và lãi,
hoặc trả lãi nhiều lần và trả gốc một lầnv.v Với những cải tiến trong phơng thức và
hình thức cho vay, ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro tín dụng cho những khoản
vay này. Tuy nhiên để đạt đợc hiệu quả hơn nữa, ngân hàng cần thực hiện thật tốt
khâu đánh giá, giám sát và thẩm định công trình.
b, Cho vay hoạt động(factoring):
Đây là hình thức cho vay thờng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tiền mặt
hoặc vốn lu động cho doanh nghiệp. Loại vay này thờng dựa trên những hoá đơn
đã bán đợc hàng nhng cha thu đợc tiền của doanh nghiệp, từ đó ngân hàng có thể
chiết khấu một phần hay tính lãi cho khoản vay khi doanh nghiệp thu đợc tiền từ
hoạt động bán hàng của mình. Đôi khi ngân hàng có thể thu lãi trực tiếp từ các
khách hàng của doanh nghiệp. Đây là loại vay mà ngân hàng và doanh nghiệp gắn
bó chặt chẽ với nhau trong việc gánh chịu rủi ro, nếu không thu đợc tiền từ khách
hàng, mặt khác nó cũng có cơ sở là các khoản phải thu của doanh nghiệp nên mức
độ rủi ro tín dụng đợc hạn chế phần nào.
Ngoài hai hình thức cho vay chủ yếu trên, NHTM còn có thể cung cấp rất

nhiều loại hình cho vay khác đối với doanh nghiệp nh cho vay theo hình thức thẻ
5
tín dụng( credit card loans), cho vay luân chuyển, hạn mức tín dụng tuỳ thuộc
vào đặc tính và nhu cầu của từng doanh nghiệp. Và tất cả các loại hình cho vay đó
đều nhằm mục đích là tối đa hoá lợi nhuận cho ngành ngân hàng và tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp.
3. Cho vay tiêu dùng(consumer loans):
Đây là hình thức cho vay chủ yếu dành cho cá nhân hay các hộ cá thể. Tiền
cho vay đợc nhằm vào mục đích mua sắm thiết bị đồ đạc nh xe cộ đồ gia dụng, đi
du lịch v.v Việc cho vay dựa vào khả năng thu nhập thờng xuyên của cá nhân. Nó
tạo điều kiện cho con ngời có khả năng tiêu thụ trớc khi sản xuất, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng mang tính thời điểm của mỗi cá nhân, do đó có tác động tích cực trong
việc kích cầu, tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá cho nền kinh tế. Hình thức cho vay
này ở một số nớc đang phát triển còn rất hạn chế lí do là thiếu những bằng chứng
pháp lí về thu nhập thờng xuyên của cá nhân, không đủ điều kiện trình độ để tiến
hành công khai và hợp pháp hoá thu nhập.
4. Vay mua bất động sản ( housing loans):
Đối tợng của loại vay này thờng là các cá nhân có thu nhập ổn định. Đây là
loại vay dết hợp giữa cho vay tiêu dùng và cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp.
Lí do vay thờng là để mua tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của cá nhân nhng giá
trị tài sản thờng lớn( nhà ở) và thời hạn thanh toán dài. Tuy nhiên, loại vay này th-
ờng có tỉ lệ rủi ro tơng đối thấp vì ngân hàng thờng cho vay dới dạng tài sản, ngời
vay không hoàn toàn có quyền sử dụng số tiền vay, thêm vào đó là khi đã quyết
định vay những khoản vay loại này, ngời vay thờng muốn có sự ổn định trong cuộc
sống, và có đầy đủ các điều kiện về mặt quản lí hành chính nh hộ khẩu cũng nh
khả năng tài chính.
5. Quan hệ tín dụng quốc tế :
Đây là một mảng khá quan trọng và có những điểm khác với quan hệ tín
dụng thông thờng, nó liên quan đến sự vận chuyển vốn giữa các nền kinh tế và liên
quan đến luật pháp quốc tế. Hình thức cho vay quốc tế khá đa dạng cho vay dới

dạng viện trợ, nh IMF hay Wold Bank tiến hành và cũng có thể cho vay nhằm mục
đích đầu t kiểm lời. Do một số điều kiện nhất định, các công ti hay ngân hàng nớc
ngoài thờng thờng cho vay trong nớc thông qua một ngân hàng thơng mại trong n-
ớc. Ngân hàng trong nớc đó chịu trách nhiệm quản lí thu hồi vốn cho phía nớc
ngoài, chịu trách nhiệm vời phía nớc ngoài về món vay và hởng chi phí hoa hồng
nhất định. Đây là loại cho vay thờng có khối lợng rất lớn, ảnh hởng đến nhiều biến
6
số kinh tế vĩ mô nh lãi suất, tỉ giá, vì thế nó ảnh hởng trực tiếp và gián tiếp đến rủi
ro lãi suất và rủi ro tỉ giá.
Ngoài ra, với mục đích chia sẻ và hạn chế rủi ro, các ngân hàng thơng mại
cũng tiến hành các nghiệp vụ cho vay khác nh hợp tác cho vay, cho vay tập
đoàn(syndication) hay cho vay tham dự (participation). Cho vay tập đoàn là khi
nhiều ngân hàng kết hợp với nhau để cung cấp cho khách hàng một khoản vay th-
ờng là có qui mô rất lớn mà một ngân hàng đơn lẻ không thể đáp ứng đợc. Cho
vay tham gia là việc các ngân hàng mua lại toàn bộ hay một phần khoản vay từ
một ngân hàng khác, thu lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá mua và lãi suất thu đợc.
Các nghiệp vụ trên không những giúp các ngân hàng cho vay đợc vốn, tránh tình
trạng ứ đọng vốn cho vay mà còn giúp các ngân hàng chia sẻ rủi ro, tạo lập các
mối quan hệ chặt chẽ trong nội bộ ngân hàng, từ đó mà hoạt động hiêu quả hơn.
II. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thơng mại:
Rủi ro là một thực tế khách quan trong hoạt động của một ngân hàng, nó biểu
hiện ở mọi hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thơng mại. Hơn thế nữa rủi
ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ đem lại thiệt hại cho bản thân ngân hàng
đó, mà nó còn có thể gây ra những cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ gây hậu quả
rất xấu cho toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng nh nền kinh tế nói chung. Rủi ro tín
dụng chỉ là một bộ phận trong những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, tuy nhiên
do tầm quan trọng đặc biệt của tín dụng đối với một ngân hàng thơng mại, với
mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, việc nhận biết và phòng ngừa rủi ro tín dụng là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu và mang tính chiến lợc của ngân hàng. Xét về
tổng thể, rủi ro tín dụng phát sinh do những khoản lỗ trong tr ờng hợp ngân hàng

không thể thu đ ợc cả gốc và lãi theo đúng kì hạn của khoản cho vay(nếu ngân
hàng là ng ời cho vay), hoặc không thể thanh toán đầy đủ đúng hạn những khoản
nợ đến hạn(khi ngân hàng là ng ời đi vay ). Từ xuất phát điểm đó, rủi ro tín dụng
trong ngân hàng thơng mại bao gồm các loại sau:
- Rủi ro cơ bản: do sự phá sản của đối tác, khách hàng của ngân hàng
- Rủi ro lãi suất: do sự biến động lãi suất trên thị trờng
- Rủi ro tỉ giá: do biến động trên thị trờng ngoại hối
- Rủi ro cấu trúc: do sự bất cập trong cơ cấu các tài sản nợ, tài sản có, giữa
tài sản nợ và tài sản có về thời hạn, lãi suất,..
7
- Rủi ro nghiệp vụ: do ngân hàng không thể hoặc không tiến hành có hiệu
quả các nghiệp vụ tín dụng
- Rủi ro do yếu tố môi trờng, thể chế: do luật pháp, tình hình chính trị, xã hội
trong nớc v.v có biến động.
Trên đây là những rủi ro cơ bản mà chúng ta thờng thấy ở một ngân
hàng, tuy về mặt hình thức chúng đợc phân thành nhiều loại khác nhau nhng bản
chất, chúng có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời, yếu tố này ảnh hởng
đến yếu tố khác và ngợc lại. Vì thế, để công tác quản lí và kiểm soát rủi ro đợc
hiệu quả ngân hàng cần phải có một chiến lợc tổng thể trong việc nghiên cứu, dự
đoán và phòng ngừa rủi ro. Sau đây chúng ta cùng điểm qua các loại rủi ro để hiểu
phần nào những đặc tính riêng của từng loại cũng nh xây dựng một cách nhìn bao
quát tổng thể về chúng.
1.Rủi ro cơ bản(principal risk):
Đây là loại rủi ro trực tiếp và dễ nhận thấy nhất, nó là do sự phá sản, mất khả
năng thanh toán từ phía đối tác, do đó ngân hàng không thể thu hồi vốn và lãi của
khoản vay. Để giảm thiểu rủi ro này ngân hàng cần đặc biệt chú trọng khâu thẩm
định tín dụng (creditworthy)đối với khách hàng, nói cách khách là xem xét tình
trạng tài chính cũng nh khả năng trả nợ của khách hàng. Thêm vào đó là các biện
pháp nh thế chấp, các điều khoản bồi thờng ràng buộc v.v
2.Rủi ro lãi suất :

Lãi suất là một biến số kinh tế vĩ mô, nó ảnh hởng đến giá trị đồng tiền, lạm
phát,phản ánh mức độ sinh lời của nền kinh tế... do đó nó cũng tác động không
nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trực tiếp nhất là sự ảnh hởng của lãi
suất đến giá trị thu nhập và thu nhập dự tính của khoản tín dụng. Ví dụ, lãi suất
huy động vốn là 7%/năm, lãi suất đầu t là 8%/năm nh vậy lãi suất dự tính của hoạt
động cho vay sẽ là 1%/năm, ngân hàng tiến hành cho vay 2 năm, năm đầu mọi
việc diễn ra suôn sẻ, tuy nhiên sang năm thứ hai, lãi suất huy động vốn là 8%năm,
do lãi suất đầu t đã là 9,5%, tuy nhiên do hợp đồng đã kí nên ngân hàng vẫn phải
cho khách hàng vay với lãi suất 8% mặc dù lúc này để cung cấp khoản cho vay đó
ngân hàng cũng phải trả lãi ở mức 8%. Nh vậy thu nhập mà ngân hàng thu đợc ở
năm thứ 2 bằng 0, đấy là thu nhập ròng còn so sánh một cách tơng đối ngân hàng
đã chịu một khoản lỗ tơng đối là 1,5%(so với các ngân hàng khác) vì ngân hàng
chỉ đợc hởng lãi 8% trong khi nó có thể cho vay với lãi suất 9,5% ở năm thứ 2.
Trên một khía cạnh khác, nh chúng ta đã biết, giá trị thị trờng của tài sản có hay
tài sản nợ là dựa trên giá trị hiện tại của chúng, nếu lãi suất tăng giá trị hiện tại của
8
tài sản có và nợ giảm, ngợc lại, nếu lãi suất giảm, giá trị hiện tại của tài sản tăng.
Khi đó, nếu kì hạn của tài sản có và nợ không tơng xứng thì sự biến đổi giá trị của
tài sản có và nợ là không nh nhau, do đó ẩn chứa những rủi ro mà ngân hàng phải
gánh chịu(phần này liên quan đến rủi ro cấu trúc, mà ta sẽ xem xét ở phần sau).
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua ví dụ trên, ngân hàng sẽ yên tâm nếu ngay từ
đầu họ cũng kí hợp đồng huy động vốn từ năm thứ nhất với thời hạn là 2 năm, khi
đó sang năm thứ 2 họ cũng chỉ trả lãi là 7% năm. Nhng vấn đề ở chỗ, điều gì sẽ
xảy ra nếu năm thứ hai lãi suất huy động sẽ chỉ là 6,5%? Nh vậy, do những giá trị
tơng lai chỉ mang tính dự đoán nên nó ẩn chứa những sai lầm, đó là một phần rất
thú vị và hấp dẫn khi ngời ta tham gia thị trờng tiền tệ. Một ngân hàng, cũng nh
bất kì một chủ thể khác tham gia vào thị trờng tiền tệ cũng đều phải chấp nhận
những rủi ro này, vấn đề là ở chỗ ai là ngời có chiến lợc và cách nhìn đúng đắn
hơn. Nói tóm lại, rủi ro lãi suất đối với hoạt động tín dụng xuất phát từ sự biến đổi
của lãi suất chung trên thị trờng tiền tệ, tác động đến bảng cân đối tài sản nợ(đi

vay) và có (cho vay)của một ngân hàng khi cấu trúc thời hạn của các tài sản này
không tơng xứng và phù hợp.
3.Rủi ro ngoại hối:
Khi đa phần nền kinh tế các nớc đã phát triển theo hớng mở cửa hội nhập,
toàn cầu hoá, hợp tác hóa thì thị trờng tài chính giữa các nớc nhất thiết phải có sự
thông thơng liên hệ với nhau. Các dòng vốn ra vào một quốc gia không tránh khỏi
sự tác động của yếu tố tỉ giá. Do đó, khi ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ tín
dụng dựa trên nhiều đồng tiền khác nhau thì đó là lúc rủi ro ngoại hối xuất hiện.
Rủi ro ngoại hối là do sự biến động của tỉ giá qua từng thời kì tác động lên bảng
cân đối tài sản của ngân hàng trong hoạt động tín dụng khi kết cấu các tài sản có
(cho vay) và nợ (đi vay) không tơng thích ( cả về kì hạn và mệnh giá ). Nh vậy
cách ảnh hởng của rủi ro tỉ giá đến hoạt động tín dụng cũng tơng tự nh rủi ro lãi
suất nhng nó liên quan trực tiếp đến thị trờng tài chính quốc tế. Nhng cần chú ý
rằng rủi ro tỉ giá không chỉ xuất hiện khi ngân hàng tiến hành cho vay ra nớc
ngoài mà điều quan trọng nhất ở đây là ngân hàng có thể tiến hành hoạt động tín
dụng bằng nhiều đồng tiền khác nhau( ví dụ cho vay bằng USD cho một doanh
nghiệp trong nớc). Để phòng ngừa loại rủi ro này, bên cạnh các giải pháp tơng tự
nh đối với rủi ro lãi suất nh cơ cấu lại, hợp đồng, thế chấp v.v thì trình độ công
nghệ là yếu tố đợc quan tâm nhất. Thật vậy để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng
trên nhiều loại tiền khác nhau trong khi tỉ giá giữa các đồng tiền là một biến số
kinh tế vô cùng nhạy cảm, lên xuống liên tục từng ngày từng giờ thì yếu tố công
nghệ và trình độ
9
4.Rủi ro cấu trúc :
Đây là loại rủi ro xuất phát từ những yếu kém trong khâu quản lí tài sản của
các ngân hàng, đó là những bất cập trong bảng kết cấu tài sản của một ngân hàng,
trong tài sản nợ, trong tài sản có, giữa tài sản nợ và tài sản có. Do khả năng cập
nhật thông tin về các luồng vốn trong ngân hàng có hạn cộng với sự yếu kém trong
khâu quản lí, phân tích các yếu tố kinh tế, mặt khác, khi nền kinh tế phát triển
mạnh, các điều kiện lại luôn luôn thay đổi, nếu các cán bộ tín dụng không kịp thời

nhận ra những xu hớng mới của thời đại thì sẽ rất dễ khiến các ngân hàng lâm vào
rủi ro mất vốn. Ví dụ, ở cuối một thời kì hng thịnh, khi tốc độ đầu t bắt đầu giảm,
nhng cha giảm thực sự, lúc này tỉ lệ tăng trởng bình quân của một số ngành bắt
đầu chững lại và có chiều hớng đi xuống, do cha nắm bắt kịp thời tình hình, ngân
hàng vẫn tiếp tục cho vay dài hạn với khối lợng lớn đối với các ngành đó. Điều
này sẽ làm tăng mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng, đó là do tài sản có của
ngân hàng tăng lên ở qui mô lớn nhng chủ yếu là dài hạn, trong khi tỉ suất đầu t
bình quân đang giảm, khả năng trả nợ của các con nợ cũng giảm theo, đây là
những tín hiệu đáng lo mà chỉ trong những giai đoạn tiếp theo ngân hàng mới có
thể thấy hết tác hại của nó.Hay nh trong cuộc khủng hoảng nợ ở một số nớc Nam
Mĩ vừa qua, việc vay nợ nớc ngoài với qui mô khổng lồ bằng ngoại tệ sau đó lại
tiến hành cho vay trong nớc bằng đồng nội tệ đã khiến cho cán cân vay giữa ngoại
tệ và nội tệ mất cân bằng nghiêm trọng, kết quả là khi ngoại tệ lên giá, các ngân
hàng này mất khả năng thanh toán, phá sản và đa nền kinh tế các nớc này lâm vào
tình trạng khủng hoảng. Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến một cuộc
khủng hoảng toàn diện nh ở Nam mĩ và đông nam á nh vừa qua, nhng qua những
nét khái quát trên em chỉ muốn minh chứng cho tầm quan trọng của việc cơ cấu tài
sản ngân hàng sao cho hợp lí. Nh vậy, nhìn chung rủi ro cấu trúc là loại rủi ro
không trực tiếp hiện hữu trên từng hợp đồng tín dụng, nó chỉ bộc lộ khi nghiên cứu
tổng thể cơ cấu vay và cho vay của ngân hàng, để phòng ngừa loại rủi ro này yêu
cầu ngân hàng phải có những chiến lợc ở tầm vĩ mô, và nâng cao khả năng phân
tích kinh tế cũng nh quản lí tài sản của mình.
5.Rủi ro ngiệp vụ hay rủi ro hoạt động:
Loại rủi ro này là do ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ thu lãi nh
dự tính hoặc thực hiện các nghiệp vụ có sai sótv.v, ví dụ nh rủi ro do ứ đọng vốn.
Cụ thể hơn, ở thời kì trớc, ngân hàng đã huy động đợc một lợng vốn với lãi suất là
7% nhng không cho vay ngay đợc, đến thời kì sau, khi lãi suất cho vay chỉ là 6,7%
nh vậy ngân hàng chỉ có thể không cho vay hoặc cho vay thì chịu lỗ. Trong cả hai
10
trờng hợp ngân hàng đều phải gánh chịu những nguy cơ thua lỗ nhất định. Loại rủi

ro này đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao trình độ cho nhân viên, phải có một
đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn thành thạo, có khả năng nhận biết và
sử lí các nghiệp vụ nhanh gọn chính xác. 6. Rủi ro từ môi trờng và các yếu tố thể
chế khác:
Đây là loại rủi ro mà không chỉ tác động lên hoạt động tín dụng mà nó còn
tác động lên mọi mặt hoạt động của ngân hàng. Đó là do sự biến đổi trong những
qui định của pháp luật, do những thay đổi lớn về khoa học công nghệ. Đôi khi đó
là do lạm phát, khủng hoảng kinh tế v.v. Nh vậy, khả năng phòng chống các rủi ro
này của một ngân hàng là khá hạn chế, để làm đợc việc đó, các ngân hàng phải có
quan hệ hợp tác mật thiết lẫn nhau, cùng nhau tiến hành phân tích và đa ra các
biện pháp phòng ngừa thích hợp.
11
Phần B. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng:
Nh trên đã đề cập, việc phân loại rủi ro tín dụng chỉ mang ý nghĩa tơng đối vì
giữa chúng có những mối liên hệ rất mật thiết, loại này tác động lên loại kia và ng-
ợc lại. Vì vậy, để công tác phòng ngừa rủi ro thực sự đạt hiệu quả chúng ta phải
tiến hành các biện pháp một cách tổng hợp, khoa học và mang tính hệ thống cao.
Việc phòng ngừa RRTD phải đợc tiến hành thờng xuyên liên tục và triệt để, từ trớc
đến sau khi quan hệ tín dụng đợc phát sinh, từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô, phải xác
định đó là nhiệm vụ của mỗi nhân viên trong ngân hàng mà phòng tín dụng chỉ là
biểu hiện tập trung của công tác đó. Để đạt đợc những yêu cầu đó, một ngân hàng
thờng tổ chức thực hiện các nghiệp vụ một cách có hệ thống có chiến lợc và kế
hoạch cụ thể bao gồm các nội dung sau:
I. Phòng ngừa trớc khi cho vay:
I
Đây là một cách phòng ngừa rủi ro thực sự hiệu quả và cần đợc đề cao vì
phòng bệnh bao giờ cũng hơn là chữa bệnh. Khi một quan hệ tín dụng cha phát
sinh, việc lờng trớc và đánh giá đúng rủi ro tiềm năng là một công việc rất có ích
nhng cũng đòi hỏi ngời làm công tác tín dụng phải có những nỗ lực đi đôi với
những biện pháp và điều kiện khác nh cơ sở kĩ thuật, trình độ ...ỏ mức độ

cao.Phòng ngừa trớc cho vay có thể bao gồm các nội dung sau:
1. Phân tích tín dụng:
Đây là một công tác nghiệp vụ mang tính bắt buộc mà mọi ngân hàng phải
thực hiện trớc khi kí kết bất kì một hợp đồng tín dụng nào, nó giúp ngân hàng
trong quá trình cho điểm tín dụng và đo lờng rủi ro tín dụng trớc cho vay. Việc
phân tích tín dụng nhằm giải đáp những vấn đề sau:
- Ngời xin vay có đáng tin cậy hay không? Vì sao?
- Hợp đồng tín dụng có đợc cấu trúc hoàn chỉnh không
- Quyền đối với tài sản thế chấp và các quyền khác của phía ngân hàng.
12
1.1.Múc độ tin cậy đối với khách hàng :
Đây là vấn đề đánh giá khả năng thanh toán khoản vay đầy đủ, cả gốc và lãi,
và đúng hạn của khách hàng, nó có tính quyết định trong việc phòng ngừa các rủi
ro cơ bản khi quan hẹ tín dụng phát sinh. Để giải đáp vấn đề này ngân hàng cần
căn cứ vào các yếu tố sau:
- Tính cách( character) : Trách nhiệm, tính trung thực, mục đich vay vốn
đúng đắn nghiêm túc, kế họch trả nợ cụ thể và hợp lí là những cơ sở để tạo nên
tính cách hay uy tín của khách hàng trong mắt ngân hàng. Ngân hàng sẽ không
khi nào cho vay khi họ nhận thấy những yếu tố thiếu trung thực, thiếu trách nhiêm
trong việc quản lí sử dụng vốn cũng nh tính khả thi của khoản vay vì nó sẽ dễ
khiến ngân hàng phải gánh chịu những món nợ khó đòi. Tính cách và uy tín của
khách hàng đợc ngân hàng đánh giá qua những tiêu trí sau quan hệ lâu nay giữa
ngân hàng và khách hàng, tham khảo chủ nợ khác của khách hàng, bạn hàng, mục
đích vay, tính khả thi của dự án
- Năng lực (capacity): năng lực ở đây có thể đợc hiểu là khả năng vay vốn,
khả năng hoàn trả cũng nh t cách pháp lí của khách hàng trong việc kí kết hợp
đồng tín dụng. Để hiểu về những vấn đề này, ngân hàng cũng có một hệ thống các
chỉ tiêu cụ thể bao gồm: qui định pháp luật, năng lực ngời bảo lãnh, tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh
- Dòng tiền mặt (cash flow): đây là yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản

của khách hàng, nghĩa là khả năng trả nợ trong những thời kì khác nhau, đặc biệt
là trong ngắn hạn. Việc đánh giá chỉ tiêu này tập trung vào một số chỉ tiêu sau :
dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng, thu nhập, dòng tiền mặt từ việc bán tài sản,
huy động từ các công cụ nợ, chứng khoán v.v. đây cũng là nhân tố bộc lộ những
khía cạnh khác của doanh nghiệp nh sức mạnh thị trờng, chất lợng hoạt động sản
xuất kinh doanh, trình độ quản lí, tiềm năng phát triển
- Tài sản thế chấp (collateral): Đây là vật đảm bảo cho sự vay nợ của khách
hàng, giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro mất vốn. Công tác thẩm định giá trị tài sản
thế chấp do đó trở nên hết sức quan trọng. Trong việc đánh giá tài sản thế chấp,
cán bộ tín dụng thờng đặt câu hỏi: ngời vay có sở hữu một tài sản nào có giá trị t-
ơng xứng với khoản vay hay không? đồng thời các cán bộ tín dụng phải đặc biệt
nhạy cảm với những đặc điểm nh: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ
chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Trong đó, yếu tố công nghệ
đóng một vai trò quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng qua lỗi thời thì giá trị thế
13
chấp của nó sẽ giảm xuống, lí do là vì ngân hàng sẻ gặp nhiều khó khăn trong việc
bán lại tài sản đó nếu khoản vay không đợc hoàn trả( ta sẽ đề cập kĩ hơn ở phần
sau ).
- Các điều kiện về môi trờng: ngân hàng phải luôn luôn nhận biết đợc những
xu hớng tiến triển gần đây của hãng cũng nh của ngành mà hãng hoạt động, hiểu
đợc mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay.
Một khoản cho vay có thể rất hiệu quả trên giấy tờ nhng có thể giá trị của nó sẽ bị
sụt giảm khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc lãi suất tăng cao do sức ép của
lạm phát. Để làm tốt công tác này, ngân hàng phải có một hệ thống thu thập và lu
trữ thông tin thờng xuyên liên tục với khối lợng lớn và phải tiến hành các nghiên
cứu định kì về ngành và ngân hàng phục vụ.
- Sự kiểm soát : Nhân tố cuối cùng để đánh giá độ đáng tin cậy của một
khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các cây hỏi nh : những thay đổi về
qui định có ảnh hởng bất lợi đến ngời vay không và liệu khách hàng có đáp ứng đ-
ợc tiêu chuẩn chất lợng tín dụng mà các cơ quan quản lí của ngân hàng đặt ra

không?v.v.
1.2. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh:
Khi niềm tin mà ngân hàng dành cho khách hàng đã đợc xác định, vấn đề
tiếp theo là tạo nên một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh để có thể đáp ứng yêu của
cả ngân hàng và khách hàng. Vấn đề này đợc thể hiện trên các điều khoản của một
hợp đồng tín dụng về thời gian cấp phát, kế hoạch hoàn trả, lãi suất, tài sản thế
chấp, sự cam đoan bảo lãnh, và những điều khoản bảo đảm khác. Cấu trúc của một
hợp đồng tín dụng không những phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngân
hàng và khách hàng mà nó còn phải hạn chế đến mức tối đa những nguy cơ rủi ro
mà cả hai bên phải gánh chịu. Nếu khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán
nợ do cấu trúc của một món vay bắt bí hoặc không phù hợp thì chính ngân hàng
cũng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tín dụng do không thu hồi đợc nợ. Nh vậy,
cấu trúc một khoản vay hoàn chỉnh khiến cho quan hệ gia ngời vay và ngời cho
vay là quan hệ hợp tác cùng có lợi, hoàn toàn không phải là quan hệ chèn ép triệt
tiêu lợi ích lẫn nhau, do đó giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.3.Xác định quyền của ngân hàng đối với thu nhập hay tài sản hay thu
nhập của khách hàng:
Nói chung, trừ một số hình thức tín dụng đặc biệt, đa phần các khoản tín
dụng khác đều đòi hỏi khách hàng có tài sản thế chấp. Hình thức thế chấp có thể
rất đa dạng, thông thờng gồm các loại nh: các khoản phải thu ( đối với cho vay
hoạt động ( factoring) ), mua nợ ( cho vay thẻ tín dụng ( credit card loans) ), hàng
14

×