MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một tỉnh miền núi, nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên (TN), có diện tích
tự nhiên vào loại lớn nhất cả nước, Đắk Lắk có vị trí chiến lược quan trọng đối với
phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH), đảm bảo an ninh quốc phịng và bảo vệ mơi
trường sinh thái với tiềm năng to lớn về quỹ đất cho phát triển nông, lâm nghiệp và
công nghiệp chế biến nông- lâm sản, dự trữ thủy năng cho công nghiệp điện, phát
triển thương mại và dịch vụ... Trong quá trình đổi mới kinh tế và cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH), nền kinh tế của tỉnh đã có những thay đổi cơ bản về cả
phương diện ngành và lãnh thổ. GDP năm 2010 tăng gấp 3,8 lần năm 2004 (năm
chia tách tỉnh Đắk Lắk thành Đắk Lắk và Đắk Nông), đạt 25.353,8 tỉ đồng, đứng
đầu vùng TN và thứ 7/63 tỉnh, thành phố (TP); tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) giai đoạn 2004 - 2010 là 11,3%/năm, cao hơn mức trung bình của
cả nước và vùng Tây Nguyên. Bình quân GDP/người/năm liên tục tăng, từ 4,1 triệu
đồng lên 14,5 triệu đồng. Cơ cấu GDP có sự chuyển dịch nhưng khu vực I vẫn
chiếm ưu thế với 53,1%. Cơ cấu kinh tế (CCKT) theo lãnh thổ cũng có sự chuyển
biến tích cực, đã xuất hiện các hình thức tổ chức lãnh thổ gắn với CNH, HĐH như
vùng chuyên canh cà phê lớn nhất Tây Nguyên và cả nước, vùng ngô quy mô lớn;
các Cụm và Khu công nghiệp; các Khu du lịch quốc gia (Yok Đôn) và Điểm du lịch
quốc gia (Hồ Lắk), Cụm du lịch (Buôn Ma Thuột và phụ cận),....
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả khả quan, nhưng kinh tế Đắk Lắk đang đối
mặt với nhiều thách thức: nền kinh tế vẫn trông cậy nhiều vào nông, lâm nghiệp (tỉ
trọng cao thứ 2 ở vùng TN và thứ 3 cả nước), khu vực công nghiệp còn nhỏ bé
(18,5% năm 2010), chuyển dịch CCKT còn chậm, cơ sở hạ tầng (CSHT) và cơ sở
vật chất (CSVC) kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH; GDP/người còn
thấp (đứng thứ 4/5 tỉnh ở vùng TN và thứ 47/63 tỉnh, TP cả nước. Tỉ lệ hộ nghèo,
nhất là hộ dân tộc ít người cịn cao (chiếm 21,9% năm 2010, cao hơn mức trung
bình cả nước 14,2%).
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, nhiệm kỳ
2010- 2015 đã xác định phương hướng chung: “…Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự
nghiệp CNH, HĐH; chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp, dịch vụ gắn với
sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái; thực
1
hiện tốt an sinh xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững trật tự - an toàn xã
hội. Xây dựng Đắk Lắk trở thành trung tâm vùng Tây Ngun và đóng vai trị quan
trọng đưa Tây Ngun trở thành vùng kinh tế động lực của cả nước”.[80]
Để thực hiện thành cơng những mục tiêu trên ngồi sự nỗ lực to lớn của
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk, việc phân tích, đánh giá đầy đủ và
tồn diện các nguồn lực sẵn có trên lãnh thổ và xác định CCKT hợp lý là rất quan
trọng và cần thiết.
Với mong muốn được vận dụng những lý luận vào thực tiễn nghiên cứu khoa
học, và góp một phần nhỏ bé vào thành công chung của sự phát triển bền vững nền
kinh tế của tỉnh, nơi đang sinh sống và công tác, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài:
“Phát triển kinh tế tỉnh Đắk Lắk trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố”.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
Phát triển kinh tế (PTKT) là một vấn đề được các quốc gia trên thế giới quan
tâm. Các vấn đề về PTKT và CCKT nhất là trong thời kỳ cơng nghiệp hóa khơng
cịn là mới. Nhiều nước trên thế giới nhờ nắm bắt được thời cơ, khai thác các thế
mạnh và có chính sách phát triển đúng đắn đã nền kinh tế có mức tăng trưởng cao
và trở thành nước công nghiệp phát triển. Về PTKT trên thế giới từ trước tới nay đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu.
Học thuyết kinh tế của C. Mác khẳng định PTKT do bốn yếu tố nguồn lực
quyết định là tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động và công nghệ. Đồng thời, ơng
cịn nhấn mạnh về sở hữu các nguồn lực, động lực khai thác các nguồn lực và vấn
đề sử dụng các lợi thế để PTKT [103, tr 28]. C. Mác (1818- 1883) khơng chỉ là nhà
chính trị học, xã hội học, lịch sử và triết học, mà còn là nhà kinh tế học xuất sắc. C.
Mác đăng quyển I bộ Tư Bản [dẫn theo 50, trang 73, 74] đã chi hoạt động xã hội ra
hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi sản xuất. Theo ông, chỉ có sản xuất vật chất
mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội. C. Mác cũng là người đưa ra khái niệm Tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để đánh giá kết quả hoạt động của nền kinh tế.
Trong hệ thống lý thuyết PTKT, lý luận về giai đoạn PTKT [50] là cơ sở lí
thuyết quan trọng, do nhà lịch sử kinh tế người Mỹ, Walter W. Rostow đưa ra.
Trong cuốn “Các giai đoạn PTKT”, ông đã nêu lên một cách tổng hợp theo lịch sử
về những bước khởi đầu về q trình PTKT hiện đại. Theo mơ hình Rostow, quá
trình PTKT của mỗi quốc gia được chia thành 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, giai
2
đoạn tạo tiền đề để cất cánh, giai đoạn cất cánh, giai đoạn trưởng thành và mức
tiêu dùng cao, giai đoạn theo đuổi chất lượng sống và ứng với mỗi giai đoạn là một
CCKT đặc trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Trong đó, then chốt
nhất là giai đoạn “cất cánh”. Để chuẩn bị điều kiện cất cánh kinh tế, theo Rostow
phải có một hoặc nhiều ngành làm chủ đạo cho “cất cánh”. Sự chuyển giai đoạn
PTKT biểu hiện ở sự thay đổi tuần tự các ngành chủ đạo. Mơ hình W. Rostow mặc
dù cịn có hạn chế về cơ sở của sự phân đoạn trong PTKT cũng như sự nhất quán về
đặc trưng của mỗi giai đoạn so với thực tế; tuy nhiên mơ hình này đã chỉ ra một sự
lựa chọn hợp lí về cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định ở
mỗi quốc gia, địa phương và cũng là những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sinh
phân tích về CCKT và sự chuyển dịch CCKT ở tỉnh Đắk Lắk.
Học thuyết Keynes: do John Maynard Keynes (1883- 1946), nhà kinh tế học
người Anh trình bày trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền
tệ”, xuất bản năm 1936, trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng nền kinh tế thế giới
1929- 1933. Keynes cho rằng nền kinh tế của một quốc gia có thể đạt tới và duy trì
một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới mức cơng ăn việc làm đầy đủ cho
mọi người, tại nơi mà những khoản chi tiêu mới cho đầu tư được hình thành từ các
khoản tiết kiệm đang được đưa vào hệ thống. Ông cũng đánh giá cao vai trò của tiêu
dùng trong việc xác định sản lượng. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho cầu
tiêu dùng giảm và đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì
trệ trong hoạt động kinh tế. Trong tác phẩm của mình, Keynes cũng cho rằng, đầu
tư đóng vai trị quyết định đến quy mơ việc làm. Ơng sử dụng lí luận về việc làm và
sản lượng do cầu quyết định để giải thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp cao
kéo dài trong những năm 30 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây. Lý thuyết
này gọi là thuyết trọng cầu. Học thuyết Keynes có ảnh hưởng rất lớn đến đường lối
kinh tế của nhiều nước TBCN phát triển, đặc biệt là nước Mỹ. Các nước đang phát
triển trong thời kì CNH, HĐH cũng đã vận dụng học thuyết Keynes ở những lí luận
về đảm bảo sự cân bằng cho nền kinh tế, ở những khuyến cáo phát triển nhiều hình
thức hoạt động để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội, ở vai trị của Chính
phủ đối với quá trình tăng trưởng kinh tế như sử dụng ngân sách của Nhà nước để
kích thích đầu tư, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp…nhờ đó có thể hạn chế mức độ
lạm phát và thất nghiệp, tăng mức sản lượng tiềm năng…( J. M Keynes: Lý thuyết
tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ, 1995, Viện Nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương).
3
Lý thuyết phát triển các điểm trung tâm của W. Christaller [dẫn theo 101]
Vào đầu những năm 1930, W. Christaller (Mỹ) đưa ra lí thuyết phát triển các
điểm trung tâm (1933). Ơng đã góp phần to lớn vào việc tìm ra quy luật phát triển
của toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và phi sản xuất theo không gian, là ý tưởng
cho việc nghiên cứu tổ chức không gian kinh tế - xã hội (KT – XH) sau này.
W. Christaller cho rằng, khơng có nơng thơn nào lại khơng chịu sự tác động
của một cực hút, đó là TP. TP là trung tâm đối với tất cả các điểm dân cư còn lại
trong vùng, đảm bảo cung cấp hàng hóa cho chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều
cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch
vụ. Ơng cho rằng, TP có vai trị như những cực phát triển và là hạt nhân cho sự phát
triển. Nó trở thành đối tượng để đầu tư, trên cơ sở sức hút và mức độ ảnh hưởng đến
các vùng xung quanh thông qua bán kính tiêu thụ các sản phẩm.
Lý thuyết trung tâm của W. Christaller đã được A. Losch bổ sung và phát
triển. Công lao của W. Christaller và A. Losch ở chỗ đã khám phá ra quy luật phân
bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính
tốn trong sự phân bố các TP và nơng thơn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch
các điểm dân cư trên những lãnh thổ mới khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống
không gian, hay làm cơ sở xác định các nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất
định. Về mặt thực tiễn, lý thuyết này là cơ sở để bố trí các điểm đơ thị mới cho
những vùng cịn trống vắng đơ thị.
Lý thuyết phát triển các cực [101] của nhà kinh tế học người Pháp FranÇoi
Perroux được đưa ra vào những năm 1950. Ơng phát hiện ra rằng, một vùng khơng thể
PTKT đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian. Xu hướng chung là
có một hoặc một vài điểm phát triển mạnh nhất, trong khi đó các điểm khác lại chậm phát
triển hay bị trì trệ. Tất nhiên, các điểm phát triển nhanh là các điểm có lợi thế so với tồn
vùng. Ơng đã đưa ra khái niệm về cực tăng trưởng. Đó là các trung tâm mới hình thành và
đang phát triển; nó là một hệ thống hay một phức hợp những hoạt động mang nhiều tính
thụ động; chịu ảnh hưởng thúc đẩy từ bên ngoài. Nhịp độ phát triển cực tăng trưởng
thường là mạnh, bởi chúng phản ứng mạnh và nhanh đối với những sức thúc đẩy, sức lôi
cuốn từ các cực phát triển. Trên cơ sở lực hút và lực đẩy của mỗi trung tâm mà hình thành
nên vùng ảnh hưởng của nó tới xung quanh. Từ triển vọng phạm vi ảnh hưởng của mỗi
trung tâm người ta có thể xác định được khu vực lãnh thổ để xây dựng điểm đô thị mới,
4
làm cho tất cả các lãnh thổ đều có đơ thị hạt nhân, hay nói cách khác khơng để lãnh thổ
nào trống vắng đô thị.
Lý thuyết cực tăng trưởng được áp dụng tương đối rộng rãi ở châu Á, nhất là
các nước ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy và có giá trị đối với các
quốc gia cần huy động vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là lý thuyết giải thích sự
cần thiết của việc PTKT theo lãnh thổ theo hướng phát triển có trọng điểm.
Lý thuyết phát triển phi cân đối: vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
người Trung Quốc đề xướng chủ trương phát triển vùng ven biển để tạo động lực.
Đó là ý tưởng của lý thuyết phát triển phi cân đối để lựa chọn khơng chỉ các ngành
mũi nhọn, mà cịn nhằm lựa chọn những lãnh thổ có vai trị động lực để tập trung
đầu tư phát triển đối với chúng. Lý thuyết này cho rằng, đối với mỗi nền KT quốc
dân sẽ có những ngành, lĩnh vực có lợi thế phát triển thành những ngành, lĩnh vực
mũi nhọn; có những lãnh thổ do hội tụ được nhiều điều kiện thuận lợi, nếu tập trung
đầu tư sẽ trở thành lãnh thổ động lực làm đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung. Theo
quan điểm đầu tư tập trung có trọng tâm, trọng điểm trước hết tập trung sức lực phát
triển những ngành, lĩnh vực, lãnh thổ có ý nghĩa động lực để tạo đột phá cho sự phát
triển chung [26, tr26].
Về hội nhập kinh tế quốc tế: trên thế giới ngày nay, tồn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế đã mở ra một thời kì mới cho sự phát triển. Các hoạt động KT khơng
cịn đóng khung trong phạm vi một quốc gia, mà đã vượt ra khỏi những ranh giới
cứng nhắc, để lan tỏa thâm nhập vào nhau, chi phối ràng buộc lẫn nhau thông qua
các thể chế KT quốc tế song phương và đa phương. Hội nhập là xu thế tất yếu đã
được dự đoán và khái niệm hội nhập xuất phát từ phương Tây, được sử dụng nhiều
từ giữa thập niên 90 trở lại đây.
Hội nhập KT được hiểu là sự gắn kết nền KT của một nước vào các tổ chức
hợp tác KT khu vực và tồn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo
những quy định chung. Hiện nay, nội dung của hội nhập KT quốc tế gồm nhiều khía
cạnh khác nhau với nhiều hình thức đa dạng. Quá trình hội nhập diễn ra ở nhiều cấp
độ và một nước có thể đồng thời tham gia nhiều hình thức từ tổ chức hợp tác song
phương giữa hai nước đến hợp tác đa phương để hình thành các tổ chức tiểu vùng,
các tổ chức khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu.
5
Vì thế, khi nghiên cứu về PTKT của một nước, một tỉnh phải nghiên cứu sự
tác động của xu thế trên. Để PTKT, bên cạnh phát huy nội lực, tranh thủ nguồn
ngoại lực từ bên ngoài là điều hết sức cần thiết.
2.2. Ở Việt Nam
Vấn đề PTKT trong giai đoạn hiện nay rất được quan tâm. Trong các văn
kiện của Đại hội Đảng toàn quốc, chiến lược phát triển KT - XH của Chính phủ và
hội nghị chuyên đề của Ban chấp hành Trung ương Đảng, các hội thảo khoa học,
nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học được nhắc đến với nhiều khía cạnh khác
nhau của PTKT.
Trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X, XI, đều coi trọng việc PTKT, CCKT hiện đại và hợp lý ở mỗi địa phương và
trong cả nước phù hợp với tiến trình CNH, HĐH là nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược PTKT của Việt Nam.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về PTKT đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học Việt Nam. Cho đến nay, hàng loạt các công trình nghiên cứu lý thuyết
và thực tiễn về PTKT đã được công bố.
Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ trong cuốn “Chuyển dịch CCKT trong
điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” [49] ngồi việc phân tích thực trạng
CCKT theo một số vùng và thành phần kinh tế thời kỳ 1991- 1997, đã làm rõ luận
cứ khoa học của PTKT và CCKT theo hướng hội nhập.
Tăng trưởng và phát triển là vấn đề hàng đầu, luôn được các nhà lãnh đạo đất
nước, các nhà quản lý, các nhà khoa học ở trong nước cũng như trên thế giới quan
tâm, nghiên cứu, tìm hiểu. Tìm được con đường phát triển đúng đắn sẽ làm đất nước
hưng thịnh, giàu mạnh và ngược lại, sẽ dẫn đất nước đến nghèo khổ, yếu kém nếu
con đường phát triển sai trái, không phù hợp quy luật. Trong q trình phát triển của
lồi người, nhất là trong hai thế kỷ gần đây, các nhà khoa học đã khơng ngừng
nghiên cứu, hồn thiện và đưa ra các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển.
Giáo trình Kinh tế phát triển do GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng chủ biên [50] đã làm
rõ những vấn đề lí luận đã được áp dụng cho hoạt động kinh tế ở Việt Nam, những sáng
tạo của Việt Nam trong việc lựa chọn đường lối PTKT phù hợp với điều kiện thực tế của
đất nước và môi trường kinh tế quốc tế. Đặc biệt trong giáo trình này, các tác giả đã phân
tích các mơ hình, lí thuyết tăng trưởng và PTKT. Đây là cơ sở quan trọng giúp tác giả
nắm vững và vận dụng vào nghiên cứu PTKT ở tỉnh Đắk Lắk.
6
Nhóm tác giả PGS. TS Ngơ Dỗn Vịnh (chủ biên), TS. Nguyễn Xuân Thu,
TS. Nguyễn Văn Thành trong cuốn sách "Bàn về PTKT (Nghiên cứu con đường dẫn
tới giàu sang)" [103] đã đề cập đến các tư tưởng, lý thuyết, quan điểm cơ bản về
TTKT, những vấn đề cốt lõi trong nghiên cứu TTKT của nước ta, mối quan hệ giữa
TTKT với phát triển bền vững và cơ cấu của nền kinh tế. Ngồi ra, cuốn sách cịn
đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển con người và nguồn nhân
lực để phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, giới thiệu các vấn đề cơ
bản về tổ chức không gian KT - XH nhằm phát triển đất nước một cách có hiệu quả,
bền vững cho Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI.
Cùng tác giả, cuốn “Phát triển: điều kỳ diệu và bí ẩn” [102] đã tuyển chọn
các cơng trình nghiên cứu về phát triển KT - XH ở nước ta, với những vấn đề mang
tính tổng quan, lý luận như chiến lược phát triển, chủ thuyết phát triển, tư duy chiến
lược... và những vấn đề gắn với mơ hình phát triển, phát triển chất lượng, quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển... Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến một số định
hướng phát triển cụ thể của đất nước như phát triển đội ngũ trí thức, PTKT biển...
Cuốn “Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược
2011-2020’’ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư [6] đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện
các mục tiêu của hai thời kỳ Chiến lược (1991- 2000 và 2001- 2010) đã qua; nhận
định, phân tích, dự báo tình hình trong nước và quốc tế trong thời kỳ thực hiện
chiến lược tới. Đây cũng là cơ sở để nhận diện những cơ hội, thách thức, từ đó xác
định nội dung và những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng chiến lược phát triển KT
- XH của đất nước.
“Phát triển bền vững ở Việt Nam. Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển
vọng” của Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi (2007) [58], tập trung phân tích
những tiềm năng để PTKT, thành tựu PTKT sau hơn 20 năm đổi mới nền KT - XH
của Việt Nam; thời cơ phát triển cũng như nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Từ đó đề ra
một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế.
Một số cơng trình khác như: “Các mơ hình cơng nghiệp hóa trên thế giới và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”[62] Ngô Đăng Thành (chủ biên), Trần Quang
Tuyến, Mai Thị Thanh Xuân, 2010, NXB Chính trị quốc gia, “Việt Nam đổi mới và
phát triển”, [92] Tuyển tập các tác giả, 2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội... đề
cập đến những vấn đề mang tính thực tiễn PTKT ở Việt Nam và đưa ra những chiến
7
lược phát triển cụ thể, những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình
PTKT, thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước.
* Dưới góc độ địa lý học, cũng có nhiều cơng trình, giáo trình về địa lí KT –
XH có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đó là: “Địa lý KT - XH đại cương”, (2005),
Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) [89]
Giáo trình “Địa lý KT - XH Việt Nam”, (2011), tái bản lần thứ 5; Lê Thơng
(chủ biên) cùng nhóm tác giả [72] đề cập đến cơ sở lí luận và thực tiễn của Việt
Nam về các lĩnh vực kinh tế (nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch
vụ), và 8 vùng kinh tế. Ngồi ra, giáo trình cịn chú trọng các khía cạnh xã hội của
Địa lí học.
Một số vấn đề như lao động, việc làm, tình trạng thất nghiệp và chất lượng
cuộc sống của nhân dân xét dưới góc độ một số tiêu chí chủ yếu (GDP bình qn
đầu người; giáo dục; y tế và chăm sóc sức khỏe; nhà ở...). Vấn đề TCLT của các
ngành và các vùng cũng được đề cập đến...
“Việt Nam, các tỉnh và TP”, (2010), Lê Thông (chủ biên) [71], đã phác họa
bức tranh tương đối hệ thống về thiên nhiên, con người và các hoạt động kinh tế ở
mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cuốn sách có giá trị thực tiễn rất lớn trong việc
nghiên cứu sự PTKT xã hội của các vùng và các ngành của nước ta.
“Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam”, (2009), Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên)
[86] và “Việt Nam- các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm” do Lê Thông và
Nguyễn Quý Thao (đồng chủ biên) (2012) [74], đã cụ thể hóa thực tế PTKT theo 7
vùng và 4 vùng kinh tế trọng điểm của nước ta. Các vùng này được trình bày theo
một cấu trúc thống nhất với các chủ đề về nguồn lực, thực trạng phát triển KT - XH
và định hướng phát triển. Cuốn sách này đã đem lại nhiều thông tin khoa học hữu
ích và cập nhật về các vùng kinh tế của nước nhà và là tư liệu hữu ích cho nghiên
cứu sinh khi nghiên cứu về Tây Nguyên.
“Địa lí kinh tế- xã hội Việt Nam thời kì hội nhập”, năm 2006, của Đặng Văn
Phan và Nguyễn Kim Hồng [45] trình bày các nguồn lực phát triển KT - XH Việt
Nam; Địa lí một số ngành kinh tế của Việt Nam cũng như các vấn đề phát triển KT
- XH của các vùng,... giúp tác giả có cách nhìn nhận về cách tổ chức không gian
kinh tế, nghiên cứu chiến lược PTKT vùng trong xu thế hội nhập hiện nay.
Đối với vùng Tây Ngun (TN), cũng có một số cơng trình khoa học nghiên
cứu các khía cạnh khác nhau của vùng, như: “Quy hoạch tổng thể phát triển KT -
8
XH vùng TN đến năm 2010 (1995) và đến năm 2020” ( 2012) của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư [3],[8], của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 1996’’.
“PTKT và vấn đề bảo vệ môi trường vùng TN trong tình hình mới” đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ (2006) [88]. Trong nội
dung nghiên cứu, tác giả tổng quan cơ sở lý luận về PTKT và môi trường để vận
dụng vào vùng TN; phân tích, đánh giá thực trạng PTKT Tây Nguyên và tác động
của nó đến mơi trường tồn vùng. Ngồi ra, một số cơng trình nghiên cứu khác:
Nghiên cứu sự biến động và chuyển đổi diện tích các cây cơng nghiệp lâu năm chủ yếu ở
tỉnh Lâm Đồng, [52] Luận án Tiến sĩ địa lí, Trường ĐHSP Hà Nội của tác giả Mai Hà
Phương; Nghiên cứu nội dung hợp lý tài nguyên đất và nước để phát triển nông nghiệp
bền vững ở Tây Nguyên, [84] Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, ĐH Nông nghiệp Hà Nôi của
tác giả Đào Trọng Tứ…
2.3. Nghiên cứu về Đắk Lắk
Nghiên cứu về Đắk Lắk có một số tài liệu và luận án tiến sĩ đã bảo vệ về các
điều kiện và sự PTKT nói chung và các ngành kinh tế nói riêng, tiêu biểu là:
Nguyễn Xuân Độ,(2003)[18] Nghiên cứu, đánh giá các điều kiện địa lý phục
vụ phát triển cây công nghiệp dài ngày tỉnh Đắk Lắk. Luận án Tiến sĩ địa lí, Viện
Địa lí, Hà Nội; hoặc tác giả Nguyễn Thị Bích Hà [23] Phân tích thực trạng di dân
đến Đắk Lắk và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội, Luận án Tiến sĩ
địa lí, trường ĐHSP Hà Nội;
UBND tỉnh Đắk Lắk, trong “Kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm giai
đoạn 2006-2010 tỉnh Đắk Lắk'' và “Quy hoạch tổng thể KT - XH tỉnh Đắk
Lắk đến năm 2020” (2008)[95] đã đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát
triển KT - XH 5 năm 2001-2005 và đưa ra kế hoạch phát triển KT - XH giai
đoạn 2006-2010 và đến năm 2020 nhằm tiếp tục đường lối đổi mới của
Đảng, đưa kinh tế Đắk Lắk phát triển toàn diện với nhịp độ nhanh hơn trong
các lĩnh vực KT - XH, xây dựng vững chắc quốc phòng tồn dân, củng cố hệ
thống chính trị, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển cơng nghiệp Đắk Lắk đến năm
2010, có tính đến năm 2020 của UBND tỉnh Đắk Lắk (2005) [96]. Các dự án quy
hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp cũng như quy hoạch tổng thể
phát triển KT - XH của tỉnh được thực hiện theo các giai đoạn nhất định.
9
Các tài liệu trên đây có ý nghĩa rất lớn để tác giả tham khảo trong quá trình
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn PTKT của Việt Nam cũng như vùng TN và của
tỉnh Đắk Lắk.
Dưới góc độ địa lí, việc nghiên cứu về “PTKT tỉnh Đắk Lắk trong thời kỳ CNH,
HĐH” là khá mới mẻ. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài này với mong muốn nghiên cứu
hiện trạng sự PTKT theo ngành và theo lãnh thổ một cách đầy đủ nhất, toàn diện nhất.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn về PTKT để làm căn cứ khoa học cho
việc đánh giá tiềm năng, phân tích thực trạng PTKT trong q trình CNH, HĐH,
cũng như các định hướng và giải pháp PTKT ở tỉnh Đắk Lắk dưới góc độ địa lí học.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan có cơ sở lý luận và thực tiễn PTKT, CNH, HĐH và vận dụng
nghiên cứu vào tỉnh Đắk Lắk.
- Đánh giá các nhân tố tác động đến PTKT ở tỉnh Đắk Lắk trong q trình
CNH, HĐH.
- Phân tích thực trạng PTKT ở Đắk Lắk giai đoạn 2004- 2011 dưới góc độ
địa lí học.
- Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển ổn định, bền vững nền kinh tế
tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng 2030.
3.3. Giới hạn nghiên cứu
3.3.1. Về nội dung:
- Tập trung đánh giá các nhân tố tác động đến PTKT ở tỉnh Đắk Lắk
- Đề tài giới hạn nghiên cứu PTKT theo ngành và theo lãnh thổ ở tỉnh Đắk Lắk
dưới góc độ địa lí học:
+ Về PTKT theo ngành, tập trung phân tích theo 3 nhóm ngành (Nơng – Lâm
- Thủy sản; Cơng nghiệp - Xây dựng; Dịch vụ), trong đó đi sâu vào 2 ngành thế
mạnh là nông nghiệp và lâm nghiệp (của nhóm ngành Nơng – Lâm - Thủy sản);
cơng nghiệp (của nhóm ngành Cơng nghiệp - Xây dựng) và thương mại, du lịch
(của nhóm ngành Dịch vụ)
+ Về PTKT theo lãnh thổ, đề tài tập trung nghiên cứu một số hình thức của
TCLT theo ngành: trang trại, vùng chuyên canh (Nông- Lâm- Thủy sản); cụm công
10
nghiệp, khu công nghiệp (công nghiệp); điểm du lịch, tuyến du lịch (Dịch vụ) và
các tiểu vùng kinh tế.
3.3.2. Về phạm vi lãnh thổ:
Luận án nghiên cứu trên toàn bộ lãnh thổ tỉnh Đắk Lắk, có đi sâu tới các TP
(TP Buôn Ma Thuột ), thị xã (thị xã Buôn Hồ) và 13 huyện. Luận án còn chú ý so
sánh với các tỉnh trong vùng TN và cả nước.
3.3.3. Về thời gian:
Luận án nghiên cứu từ năm 2004 (năm Đắk Lắk tách tỉnh) đến năm 2011 và
định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.
4. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Các quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm tổng hợp-lãnh thổ
Đây là quan điểm quan trọng trong nghiên cứu địa lý nói chung. Tính tổng
hợp được xem là tiêu chuẩn hàng đầu trong đánh giá giá trị khoa học của các cơng
trình nghiên cứu về các địa tổng thể. Trong nghiên cứu địa lý, tính tổng hợp được
hiểu như sau:
Tổng hợp là nghiên cứu đồng bộ, toàn diện các hợp phần của tổng thể địa lý
trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng để tạo ra sự phân dị lãnh thổ.
Tổng hợp là sự kết hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ
và tồn diện các hợp phần của các địa tổng thể, đồng thời phát hiện và xác định
những đặc điểm đặc thù của chúng.
Vận dụng quan điểm tổng hợp, luận án đã chú trọng phân tích đồng bộ các
yếu tố tự nhiên và KT - XH trong mối quan hệ lẫn nhau, ảnh hưởng đồng thời đến
tăng trưởng và PTKT của Đắk Lắk.
4.1.2. Quan điểm hệ thống
Tính hệ thống làm cho quá trình nghiên cứu đề tài trở nên logic, thông suốt
và sâu sắc. Trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân, mỗi một ngành kinh tế là
một bộ phận của hệ thống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ mật thiết với các
phân hệ còn lại trong hệ thống và với những yếu tố khác bên ngoài hệ thống
(ĐKTN, thị trường,…)
Bản thân các ngành kinh tế cũng là một hệ thống ở cấp thấp hơn của hệ
thống kinh tế quốc dân, được hình thành bởi các phần tử khác nhau (theo ngành,
lãnh thổ hoặc thành phần kinh tế,…). Các phần tử cấu thành nên hệ thống này
11
khơng hoạt động đơn lẻ mà có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau và có quan hệ
với các hệ thống khác và ngày càng được mở rộng trong q trình phân cơng và hợp
tác lao động. Bất cứ một thành tố nào của hệ thống thay đổi đều ảnh hưởng đến các
thành tố còn lại và làm thay đổi cả hệ thống. Khi một ngành, một lĩnh vực thay đổi,
nó sẽ kéo theo sự thay đổi của hệ thống các ngành kinh tế khác.
Như vậy, mặc dù luận án nghiên cứu về sự PTKT của tỉnh Đắk Lắk chủ yếu
tập trung vào việc phân tích thực trạng PTKT theo ngành và theo lãnh thổ, nhưng
căn cứ vào quan điểm hệ thống, nó lại được đặt trong quan hệ hệ thống với các
ngành kinh tế và với các lãnh thổ xung quanh.
Bởi vì nếu xét trên hệ thống lớn hơn, thì tỉnh Đắk Lắk được coi là một bộ
phận của vùng TN và không gian kinh tế TN- DHNTB. Nếu xét cấp thấp hơn thì
Đắk Lắk là một tập hợp bao gồm các hệ thống con (các huyện, thị xã TP) có mối
quan hệ tương tác mật thiết với nhau. Vì vậy, luận án đã nghiên cứu, tìm hiểu các
mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh hưởng giữa các yếu tố trong một hệ thống và
giữa các hệ thống để đánh giá chính xác vấn đề cần nghiên cứu đó là những tiềm
năng và thực trạng PTKT của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
4.1.3. Quan điểm lịch sử- viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lý dù lớn, nhỏ đều có sự phát sinh, phát triển riêng
của nó. Sự PTKT ln ln thay đổi trong các thời kỳ và luôn luôn ở trạng thái vận
động, biến động không ngừng theo sự phát triển của LLSX và quan hệ sản xuất.
Vận dụng quan điểm lịch sử vào nghiên cứu luận án để thấy được những biến đổi
của các yếu tố kinh tế qua từng giai đoạn phát triển kinh tế của tỉnh, từ đó đánh giá
chính xác các triển vọng phát triển của các ngành kinh tế cũng như sự phân hóa lãnh
thổ sản xuất. Vận dụng quan điểm này cho ta thấy được quá trình hình thành và
phát triển của các ngành kinh tế trong quá khứ, hiện tại cũng như đề xuất những giải
pháp mới nhằm mục đích PTKT bền vững và khai thác lãnh thổ có hiệu quả hơn
trong tương lai.
4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Quan điểm phát triển bền vững hiện nay đang là một quan điểm bao trùm
PTKT, đặc biệt trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ và tồn cầu hóa.
Vận dụng vào luận án thì việc PTKT của tỉnh Đắk Lắk phải mang lại hiệu quả cao,
hài hòa và bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
12
Những giải pháp cho sự phát triển KT - XH phải dựa trên quan điểm phát
triển bền vững. Phát triển nền KT - XH phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo tài
nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hịa PTKT với tiến bộ
và cơng bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư. Việc phát triển
hôm nay không làm ảnh hưởng đến tương lai.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu
Vấn đề PTKT trên phạm vi cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng
là một vấn đề lớn, phức tạp. Vì vậy việc thu thập tài liệu phải thông qua nhiều
nguồn, từ đó phân tích, tổng hợp, chọn lọc để có những tài liệu cần thiết nhằm đáp
ứng yêu cầu của luận án. Trong quá trình triển khai nghiên cứu, tác giả đã thu thập,
sử dụng các nguồn số liệu thứ cấp từ các báo cáo có liên quan của Nhà nước (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Đắk Lắk), các kết quả đã công
bố tại các hội nghị, hội thảo, các cuộc điều tra, các đề tài nghiên cứu khoa học,…
Các nguồn số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc điều tra, khảo sát thực địa và
của các chuyên gia, người dân địa phương.
4.2.2. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp truyền thống của khoa học Địa lý, thơng qua đó sẽ kiểm
tra được độ tin cậy của lượng thông tin thu được. Phương pháp này giúp người
nghiên cứu tiếp cận vấn đề một cách chủ động. Để hoàn thành luận án, tác giả đã
tiến hành khảo sát thực địa tại hầu hết các huyện, thị xã Buôn Hồ và TP Buôn Ma
Thuột trong nhiều đợt. Nội dung các hoạt động thực địa của tác giả đã thực hiện bao
gồm: quan sát, điều tra, ghi chép, mơ tả, chụp ảnh, ghi hình, gặp gỡ trao đổi với
lãnh đạo các Sở, ban ngành, các chuyên gia, cán bộ quản lí về các vấn đề liên quan.
Trên cơ sở đó, tác giả đã thu thập và xử lí được nhiều thơng tin về quan điểm, chủ
trương, chính sách liên quan đến PTKT trong thời kỳ CNH, HĐH định hướng đến
năm 2020.
4.2.3. Phương pháp bản đồ và GIS
Sử dụng phần mềm Map Info để thành lập cơ sở dữ liệu địa lý và xây dựng
các bản đồ chuyên đề để mô tả các nhân tố ảnh hưởng đến PTKT, phân tích thực
trạng PTKT, sự phân bố các hiện tượng kinh tế, mối liên quan đến không gian lãnh
thổ và xu hướng PTKT trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hóa; định hướng
đến năm 2020 và tầm nhìn sau 2020. Một số bản đồ được biên vẽ :
13
Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến PTKT tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ đất tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ các nhân tố KT – XH ảnh hưởng đến PTKT tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ phát triển và phân bố nông- lâm- thủy sản tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ phát triển và phân bố công nghiệp tỉnh Đắk Lắk
Bản đồ phát triển và phân bố dịch vụ tỉnh Đắk Lắk
4.2.4. Phương pháp phân tích thống kê
Tác giả đã dùng phương pháp này thông qua các bảng số liệu để phân tích các
dãy số biến động theo thời gian và không gian; các loại biểu đồ, đồ thị…nhằm nêu lên
một cách tổng hợp bản chất và tính quy luật của các hiện tượng và quá trình KT- XH
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập được tác giả đã tính
tốn các chỉ tiêu cần thiết, so sánh và rút ra những nhận định và kết luận đáp ứng mục
đích nghiên cứu và từ đó đề xuất một số biện pháp giải quyết.
4.2.5. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành gặp gỡ, trao đổi ý kiến
với các nhà khoa học trong các lĩnh vực địa lí học, kinh tế học, lãnh đạo các Sở, ban
ngành của tỉnh Đắk Lắk, các chuyên gia của Sở Khoa học Công nghệ, Sở Công
thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư. Từ đó có
thêm sự hiểu biết và đánh giá về thực tiễn PTKT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trên cơ
sở đó củng cố những nhận định, đề xuất về giải pháp trong luận án.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
- Luận án đã kế thừa, bổ sung và làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về PTKT
trong thời kỳ CNH, HĐH và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Đắk Lắk
- Đánh giá được các nhân tố tác động đến PTKT, các lợi thế so sánh và khó
khăn thách thức đối với PTKT ở tỉnh Đắk Lắk
- Nhận diện và làm rõ được thực trạng PTKT của Đắk Lắk theo khía cạnh
ngành và lãnh thổ trong q trình CNH, HĐH có căn cứ khoa học.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị PTKT ổn định và bền vững nền kinh tế
của tỉnh trong tương lai.
14
6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, các bản
đồ, tranh ảnh, luận án được cấu trúc làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về PTKT trong thời kì CNH, HĐH.
Chương 2: Các nhân tố tác động và thực trạng PTKT tỉnh Đắk Lắk trong thời
kì CNH, HĐH.
Chương 3: Định hướng và giải pháp PTKT tỉnh Đắk Lắk.
15
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Về phát triển kinh tế
1.1.1.1. Các khái niệm
a. Tăng trưởng kinh tế (TTKT)
TTKT là một trong những nội dung cơ bản của PTKT và là một trong những
vấn đề hấp dẫn nhất trong nghiên cứu kinh tế phát triển nói chung và Địa lí học
(KT-XH) nói riêng.
TTKT là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô
tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, cịn tốc độ tăng trưởng được sử dụng
với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của các thời
kỳ [50, tr21].
Nếu sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một quốc gia năm sau tăng hơn so
với năm trước thì quốc gia đó được coi là có sự TTKT.
Bản chất của TTKT là sự thay đổi về lượng của nền KT. Ngày nay, yêu cầu
TTKT gắn liền với tính bền vững hay đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao,
tăng trưởng kinh tế xanh, nghĩa là mô hình tăng trưởng biến những hạn chế về nguồn lực
và ảnh hưởng của thảm họa thiên nhiên thành những cơ hội kinh tế giúp nâng cao tăng
trưởng và giảm tác động xấu tới môi trường thông qua sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên và tăng đầu tư vào vốn tự nhiên.
b. Phát triển kinh tế (PTKT)
PTKT là quá trình chuyển đổi kinh tế có liên quan đến việc chuyển biến
cơ cấu của nền kinh tế thơng qua q trình CNH, tổng sản phẩm trong nước
và thu nhập bình quân đầu người. Nói chung, các nước đang phát triển được
đặc trưng bởi nền sản xuất tự cấp tự túc là chính, chủ yếu là nơng nghiệp và
mức thu nhập bình qn đầu người thấp. Các nước phát triển được đặc trưng
bởi các ngành chế biến và dịch vụ lớn, mức thu nhập đầu người cao[42].
Theo[106] hiểu theo nghĩa chung nhất thì PTKT là một quá trình được
bao hàm trong sự tăng trưởng và sự cải thiện một hệ thống kinh tế dưới bất kỳ
hình thức nào. Trong Địa lí kinh tế và trong nghiên cứu về phát triển, thuật
16
ngữ này có ý nghĩa đặc thù hơn và áp dụng cho các hệ thống kinh tế vùng và các
thuộc tính riêng của chúng và các hệ thống này tương tác ở tầm mức độ tồn cầu.
Có nhiều cách để nêu đặc trưng sự PTKT ở một nước hoặc một vùng. Một số
trong những cách này là đo lường nền sản xuất quốc dân, thu nhập bình quân đầu
người, đặc trưng của lực lượng lao động và mức tiêu dùng năng lượng. Thêm vào
đó, mức độ phát triển của vùng, sự đa dạng của CCKT và trình độ cơng nghệ ở bên
trong hệ thống có thể xác định sức mạnh của nền kinh tế. Những khía cạnh khác,
gồm: tỉ lệ lao động làm trong ngành nông nghiệp, mức độ đô thị hóa và trình độ
CNH của vùng…Những đặc trưng này và một số đặc trưng khác khi được tích tụ lại
trong một đất nước sẽ xác định trình độ PTKT của nước đó.
PTKT được hiểu là q trình tăng tiến về mọi mặt của nền KT. PTKT được
xem là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt
chẽ q trình hồn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia [50].
Cụ thể hơn, PTKT là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền KT. Nó bao
gồm sự TTKT và đồng thời có sự hồn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế KT và chất
lượng cuộc sống [108].
Nội dung của PTKT bao gồm 3 tiêu thức: (1) là, sự gia tăng tổng mức thu
nhập của nền KT và gia tăng GDP/người hoặc thu nhập bình quân đầu người (thể
hiện quá trình biến đổi về lượng); (2) là, chuyển dịch CCKT theo đúng xu thế
(phản ánh sự biến đổi về chất của nền KT một quốc gia, một địa phương); (3) là,
sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề XH.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án chuyên ngành Địa lí học tác giả tập
trung phân tích, “PTKT là q trình tăng tiến mọi mặt của nền KT, quá trình biến
đổi cả về lượng và chất, bao gồm sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền KT và mức
thu nhập bình quân đầu người, sự biến đổi về CCKT”. Hai nội dung cơ bản được
phản ánh trong PTKT của đề tài là sự tăng lên về quy mô của nền KT và GDP/người
và sự chuyển dịch CCKT theo đúng xu thế và hợp lí.
Cũng như TTKT xanh, PTKT xanh cũng được nhiều nước áp dụng và được
coi là một xu hướng toàn cầu hiện nay. PTKT xanh là quá trình nâng cao đời sống
con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro
môi trường, và những thiếu hụt sinh thái.
17
c. PTKT bền vững: từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, khi tăng trưởng
kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được một tốc độ khá cao, người ta bắt
đầu có những lo nghĩ đến ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh đó đến
tương lai con người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra.
Năm 1987, trong Báo cáo “tương lai của chúng ta” lần đầu tiên đã đưa ra
định nghĩa “PTBV là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Sau đó, Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về mơi trường và phát triển họp tại
Rio de Janeiro (Braxin, 1992) đã đưa ra bản tuyên ngôn “về môi trường và phát
triển” đã tái khẳng định khái niệm trên và cùng thỏa thuận một chương trình nghị sự
PTBV, gọi là Agenda 21.
Năm 2002, tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV tổ chức ở
Johanensburg (Cộng hòa Nam Phi) đã xác định: PTBV là q trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hịa giữa ba mặt của sự phát triển, đó là PTKT, phát
triển xã hội và bảo vệ mơi trường.
PTBV về mặt kinh tế, địi hỏi phải có CCKT hợp lí, phải sử dụng tối ưu các
nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài, ổn định và phải có chiến lược
PTKT phù hợp trong từng giai đoạn cụ thể.
d. CCKT và sự chuyển dịch CCKT
- CCKT là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ
phận cấu thành nền kinh tế trong một thời gian và trong những điều kiện KT - XH nhất định.
Theo C. Mác [dẫn theo 89] “CCKT của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản
xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của LLSX vật chất. Cơ cấu là một sự
phân chia về chất và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội". Còn
theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), "CCKT là tổng các ngành, lĩnh vực, bộ phận
kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành".
- Chuyển dịch CCKT
CCKT luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tổ hợp thành
CCKT không phải là cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các nhóm ngành (và
các ngành), các vùng, các thành phần kinh tế.
" Sự thay đổi của CCKT từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp
với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch CCKT" [22].
18
Thường thì trong quá trình phát triển, nhất là với những nền kinh tế trong
thời kỳ CNH, HĐH, quá trình PTKT bao giờ cũng song hành cùng quá trình chuyển
dịch CCKT.
1.1.1.2. Các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế
a. Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ: tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn trong việc
trao đổi, tiếp cận hay cùng phát triển giữa các vùng, tỉnh trong một quốc gia và giữa các
quốc gia với nhau. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, vị trí địa lý là nhân tố
góp phần định hướng phát triển có lợi nhất trong phân cơng lao động quốc tế, xây dựng
các mối quan hệ song phương hay đa phương của mỗi quốc gia.
Vị trí địa lí bao gồm vị trí tự nhiên, kinh tế - chính trị, giao thương.
b. ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên: bao gồm các thành phần của tự nhiên mà
con người có thể sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, mỗi địa phương bao gồm
đất, địa hình, khí hậu, rừng, biển, sơng ngịi, khống sản trong lịng đất, khống vật
dưới đáy biển, nhiệt năng trong lịng đất. Nói cách khác tất cả của cải vật chất hình
thành và tồn tại trên mặt đất, dưới đáy biển, trong lịng đất và khơng gian vũ trụ
thuộc chủ quyền của một quốc gia đều là ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên của quốc
gia đó.
ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá
trình sản xuất, là đối tượng lao động. Nếu khơng có ĐKTN và tài ngun thiên
nhiên, thì khơng có sản xuất và cũng khơng có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên,
đối với việc PTKT, ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa đủ, chúng chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử
dụng một cách hợp lý và hiệu quả. Thực tế trên thế giới, có nhiều quốc gia rất giàu
tài nguyên thiên nhiên (ví dụ: nhiều nước ở châu Phi) nhưng vẫn là các nước nghèo,
chậm phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia như Nhật Bản, các nước Tây Âu, không
nhiều tài nguyên, nhưng lại trở thành những nước công nghiệp phát triển hàng đầu
thế giới.
ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, là nhân tố khơng thể
thiếu được trong q trình sản xuất, tạo ra của cải phục vụ đời sống con người. Tài
nguyên thiên nhiên có giới hạn, mà nhu cầu của con người thì vơ hạn với số dân
ngày càng tăng. Do đó, để đảm bảo phát triển bền vững thì cần bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường sinh thái.
19
c. Kinh tế- xã hội: có vai trị hết sức quan trọng trong việc lựa chọn chiến
lược phát triển và phân bố các ngành kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của đất
nước trong từng giai đoạn.
- Dân cư và nguồn lao động là nhân tố quan trọng, quyết định việc sử dụng
các nguồn lực khác trong quá trình PTKT. Vai trị của dân cư, nguồn lao động đối
với việc PTKT và phân bố sản xuất thể hiện ở hai mặt. Một mặt, đó là yếu tố đầu
vào của hoạt động kinh tế, là LLSX trực tiếp tạo ra sản phẩm, tạo ra sự tăng trưởng
cho các ngành kinh tế. Mặt khác, dân cư và nguồn lao động là lực lượng tiêu thụ các
sản phẩm, dịch vụ tham gia tạo cầu cho nền kinh tế. Quy mô và cơ cấu tiêu dùng
góp phần quan trọng thúc đẩy TTKT. Sự tác động của dân cư, nguồn lao động thể
hiện ở quy mô, tốc độ gia tăng dân số và lao động, cơ cấu dân số, chất lượng nguồn
lao động về mặt thể chất, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, khả năng tiếp thu khoa học
kỹ thuật mới, thói quen và thái độ lao động.
Trong thời hiện đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành bộ phận trực
tiếp của LLSX thì nguồn lao động, dù là lao động giản đơn cũng địi hỏi phải có
trình độ kiến thức đủ mức cần thiết. Trình độ kỹ thuật cơng nghệ của sản xuất càng
cao, ứng dụng của khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống càng nhiều thì
vai trị của nguồn lao động có chun mơn kỹ thuật càng phải tăng cường.
- Vốn đầu tư: là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất, là nhân tố
quyết định để mở rộng và tăng cường đầu tư cho các ngành kinh tế, nâng cao trình
độ kỹ thuật công nghệ theo yêu cầu của CNH, HĐH. Đối với các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam, nhu cầu về vốn đối với quá trình PTKT xã hội là rất
lớn. Sự gia tăng nhanh các nguồn vốn, việc phân bố và sử dụng chúng một cách có
hiệu quả sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng, tạo nhiều việc làm, tăng tích lũy vốn
cho nền kinh tế.
Trong quá trình PTKT, bất kỳ quốc gia nào cũng đều coi nguồn vốn đầu tư
trong nước là chính, cịn nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài chỉ là tạm thời.
- Thị trường: là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là nhân tố đảm bảo khâu tiêu
dùng, xuất nhập khẩu, giá cả… và tạo ra nhu cầu mới, giúp cho q trình tái sản xuất
diễn ra khơng ngừng. Thị trường là nhân tố hướng dẫn và điều tiết sản xuất cho các
ngành, lĩnh vực kinh tế. Trong nền kinh tế, nhu cầu thị trường ln có sự thay đổi do sự
thay đổi thị hiếu người tiêu dùng và từ đó làm thay đổi nhiệm vụ sản xuất để thích ứng
tiêu dùng và làm thúc đẩy sự PTKT.
20
- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật:
+ CSHT bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, hệ
thống cấp điện, nước… có vai trị to lớn trong PTKT. CSHT đảm bảo cho sự hoạt động
thuận lợi và có hiệu quả nền sản xuất; hệ thống CSHT hiện đại, đồng bộ sẽ tạo điều kiện
rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thơng, giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao
chất lượng sản phẩm. Vì vậy, trong quá trình PTKT, CSHT là hệ thống huyết mạch của
nền kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ giữa các bộ phận và giữa các vùng.
Sự phát triển của CSHT là một trong những nhân tố quan trọng cho PTKT và
phúc lợi xã hội.
+ CSVC kỹ thuật là nền tảng cho PTKT. Nơi nào có hệ thống CSVC kỹ thuật tốt
(như hệ thống thủy nông, các trạm giống thú y, các xí nghiệp chế biến sản phẩm nơng
nghiệp đối với nơng nghiệp,…) thì nền kinh tế sẽ đạt hiệu quả cao, và ngược lại.
- Khoa học và công nghệ là những thành tựu được chuyển giao ứng dụng vào
các lĩnh vực sản xuất, trở thành LLSX quan trọng có tính quyết định tới năng suất,
chất lượng và hiệu quả của các ngành và nền kinh tế. Nhân tố khoa học cơng nghệ
góp phần mở rộng khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nhân tố khác. Tạo ra
những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế. Sự
phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học và cơng nghệ cịn làm cho sự phân
công xã hội trở nên sâu sắc, phân hóa thành nhiều ngành hơn, xuất hiện thêm nhiều
ngành mới, dẫn tới sự thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành. Sự thay đổi này dẫn
đến kết quả là làm chuyển dịch CCKT theo hướng giảm tỷ trọng ngành cơng nghiệp,
tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và PTKT.
- Đường lối chính sách: bao gồm thể chế chính trị, cơ chế chính sách, đường
lối xây dựng kinh tế, xu thế hội nhập và phát triển của khu vực và thế giới… là
những nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và PTKT.
Đường lối chính sách là nhân tố mang tính quyết định đến sự thành cơng hay
khơng của chiến lược, mục đích PTKT của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Thực tế
trên thế giới, ở mỗi quốc gia, mỗi thời điểm đều có đường lối chính sách phát triển
KT - XH khác nhau.
Tăng trưởng và PTKT địi hỏi phải có một thể chế chính trị xã hội ổn định
thể hiện qua đường lối phát triển KT- XH đúng đắn phù hợp với các quy luật khách
quan, có khả năng thu hút mọi nguồn lực ở trong và ngoài nước. Ngược lại sự
khủng hoảng về chính trị tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái.
21
- Các mối quan hệ liên tỉnh, liên vùng: mỗi tỉnh hoặc vùng tuy là đơn vị độc
lập về hành chính nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với tỉnh khác, vùng khác. Các
hoạt động kinh tế thường phải gắn với các mối liên kết kinh tế, kỹ thuật và liên kết
không gian sâu sắc. Việc liên kết giữa các tỉnh,vùng là hợp tác bổ sung cho nhau
giữa các địa phương nhằm mục đích tăng cường sức hút và tiềm lực phát triển KTXH, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các tỉnh trong vùng và giữa vùng
này với vùng khác.
- Xu thế hội nhập và cạnh tranh: xu thế hội nhập quốc tế và khu vực (như
WTO, APEC, ASEAN) có tác động quan trọng đến PTKT, vừa tạo ra nhiều cơ hội
đồng thời cũng gặp nhiều thách thức của Việt Nam nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói
riêng. Xu thế hội nhập tạo những điều kiện đầu vào (vốn, nguyên liệu, trang thiết bị,
máy móc, kinh nghiệm quản lí, khoa học- cơng nghệ…) và đầu ra (thị trường tiêu
thụ). Sự hợp tác quốc tế, liên vùng, liên tỉnh ngày càng sâu rộng tạo cơ hội mở rộng
sản xuất nhưng đồng thời gây sức ép sạnh tranh.
Tóm lại: các tỉnh, vùng, các quốc gia, muốn có tăng trưởng và PTKT cần
phải huy động, khai thác tổng hợp các nguồn lực. Đối tượng và vai trò của chúng
tùy theo điều kiện của mỗi lãnh thổ có thể khác nhau, trong đó dân cư và nguồn lao
động, nguồn vốn, khoa học và công nghệ, ĐKTN và tài nguyên thiên nhiên là
những nhân tố quan trọng nhất, các nhân tố khác có thể có những tác động tích cực,
song được thể hiện qua khả năng huy động thêm của các nhân tố nêu trên.
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá sự PTKT
PTKT vừa có các tiêu chí chung, vừa có các tiêu chí riêng cho cấp tỉnh theo
ngành và lãnh thổ dựa trên các tiêu chí đánh giá của Chính phủ, Tổng cụ thống kê…
1.1.2.1. Nhóm tiêu chí chung
a. Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP
- Tổng phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product):
GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh quy mô, thực lực và sức mạnh của
nền kinh tế, là căn cứ để quản lý, điều hành và cân đối, tính tốn nhiều chỉ tiêu KT XH quan trọng khác cho cấp quốc gia và tỉnh, TP tương đương của nước ta hiện nay.
Nguồn số liệu về GDP qua các năm ở tỉnh dựa vào NGTK hàng năm của Cục
Thống kê tỉnh.
- Tốc độ tăng trưởng GDP:
22
Tốc độ tăng trưởng GDP là chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng, được dùng để
đánh giá tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, là cơ sở để xây dựng mục tiêu, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH cấp quốc gia nói chung và từng tỉnh,
TP tương đương cấp tỉnh nói riêng.
Nguồn số liệu về tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm ở tỉnh dựa vào NGTK
của Việt Nam và của tỉnh các năm.
b. GDP/người
- GDP/người được tính bằng GDP chia cho dân số trung bình cùng thời kỳ
nghiên cứu. Chỉ tiêu này thường được tính hàng năm trên phạm vi cả nước và từng
tỉnh, TP. GDP/người tính theo giá thực tế, tính theo nội tệ hoặc ngoại tệ.
GDP/người là chỉ tiêu quan trọng dùng để so sánh, đánh giá trình độ PTKT
và mức sống dân cư giữa các quốc gia, hoặc giữa các tỉnh, TP và các vùng.
c. Cơ cấu GDP và xu hướng chuyển dịch CCKT theo nhóm ngành:
- Cơ cấu GDP:
Trong đánh giá sự PTKT thì cơ cấu GDP theo nhóm ngành và ngành là một
trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành cơng
của chính sách và chiến lược CNH, HĐH. Cơ cấu GDP là tỷ trọng của các bộ phận
cấu thành so với GDP, tính theo giá thực tế.
Cơ cấu GDP theo 3 khu vực (nhóm ngành) kinh tế: Khu vực I (nông- lâmthủy sản); khu vực II (công nghiệp – xây dựng); khu vực III (dịch vụ). Đây là một
trong những tiêu chí hàng đầu được dùng để đánh giá cơ cấu và quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.
- Tốc độ và xu hướng chuyển dịch cơ cấu GDP theo nhóm ngành và ngành
theo hướng các ngành kinh tế truyền thống (Nông- lâm- thủy sản), khai khoáng và
một bộ phận của lĩnh vực dịch vụ phục vụ nhu cầu dân sinh thông thường sẽ ngày
càng giảm tỷ trọng trong GDP; đồng thời tỷ trọng của các ngành kinh tế dựa trên
công nghệ - kỹ thuật hiện đại, năng suất cao, trước hết là các ngành công nghiệp chế
biến và dịch vụ ngày càng cao.
Đây là chỉ tiêu quan trọng, phản ánh vị trí, vai trị của từng bộ phận cấu thành
GDP (theo nhóm ngành và ngành); là cơ sở quan trọng để phân tích, đánh giá cơ
cấu, sự chuyển dịch cơ cấu và mức độ đóng góp của các bộ phận đối với nền kinh
tế. Qua đó, sẽ thấy được nền kinh tế đang phát triển và chuyển dịch theo xu hướng nào.
d. Giá trị sản xuất (GTSX) và cơ cấu GTSX
23
- GTSX (GO - Gross output):
Khi nghiên cứu PTKT theo ngành và theo lãnh thổ cấp tỉnh và dưới cấp tỉnh
(huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh) người ta thường tính GTSX. Đây là chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra trong
một thời kì nhất định (thường là một năm). GTSX được tính theo giá thực tế và giá
so sánh.
GTSX là chỉ tiêu được tổng hợp từ các cơ sở, vì vậy nó phản ánh kết quả sản
xuất chung của toàn nền kinh tế, của từng ngành, từng lĩnh vực. Nó cũng là căn cứ
để tính toán nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác phục vụ cho đánh giá TTKT và
PTKT. Nguồn số liệu được dựa trên NGTK của tỉnh, huyện,...
- Cơ cấu GSTX:
Trong nội bộ từng nhóm ngành và ngành cụ thể, cơ cấu GTSX là tương quan
giữa GTSX của từng ngành so với nhóm ngành hoặc từng phân ngành so với tồn
bộ ngành, trong một thời kì nhất định đơn vị tính là %.
1.1.2.2. Nhóm tiêu chí PTKT cho riêng cấp tỉnh
a. Theo ngành
* Nông, lâm, thủy sản (N,L,TS):
- GTSX nông, lâm, thủy sản (GO): bao gồm GTSX (thành phẩm, bán thành
phẩm, sản phẩm dở dang) và dịch vụ sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định,
thường là một năm. GTSX được tính theo giá thực tế và giá so sánh.
GTSX được tính cho các phân ngành nơng nghiệp (bao gồm trồng trọt, chăn
nuôi, dịch vụ nông nghiệp); GTSX lâm nghiệp (khai thác, trồng rừng và dịch vụ
lâm nghiệp) và GTSX thủy sản (khai thác, nuôi trồng và dịch vụ thủy sản).
- Tốc độ tăng trưởng GTSX nông, lâm, thủy sản: là chỉ tiêu tương đối phản
ánh nhịp điệu tăng hoặc giảm của GTSX nông, lâm, thủy sản qua thời gian, đơn vị
tính là % hay là số lần tăng. Từ chỉ tiêu này có thể thấy được mức độ phát triển về
NSLĐ, giá trị tăng thêm, cơng nghiệp hóa trong nơng nghiệp và chất lượng lao
động cũng như là việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cách thức tính tương
tự như tính tốc độ tăng trưởng GDP và sử dụng giá so sánh.
- Cơ cấu GTSX nông, lâm, thủy sản: là chỉ tiêu trực tiếp và chủ yếu phản ánh
mối tương quan về GTSX giữa các ngành sản xuất, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và
tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận với nhau, được tính
theo giá thực tế.
24
GTSX của từng ngành/GTSX của toàn ngành N- L- TS và trong nội bộ từng
phân ngành.
* Công nghiệp
- Giá trị sản xuất (GOcn): là chỉ tiêu kinh tế phản ánh kết quả của các hoạt
động sản xuất, kinh doanh do công nghiệp được tạo ra trên địa bàn tỉnh trong một
thời kỳ nhất định. Bao gồm các ngành công nghiệp khai thác; công nghiệp chế biến
và sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước. Chỉ tiêu này thể hiện quy mô sản xuất,
mức độ đầu tư và là căn cứ để tính tốn các chỉ tiêu quan trọng khác như tốc độ phát
triển công nghiệp và cơ cấu nội bộ ngành cơng nghiệp ...
GTSX cơng nghiệp được tính theo giá thực tế và giá so sánh.
- Tốc độ tăng trưởng GTSX công nghiệp: là chỉ tiêu tương đối phản ánh nhịp
điệu tăng hoặc giảm của GTSX công nghiệp qua thời gian. Nó là chỉ tiêu quan trọng
hàng đầu đánh giá mặt lượng của sự phát triển công nghiệp, tốc độ tăng trưởng phản
ánh sự gia tăng về quy mô GTSX công nghiệp năm sau so với năm trước và giữa
các thời kỳ với nhau của ngành công nghiệp.
- Cơ cấu GTSX công nghiệp: được xác định bằng tỷ trọng GTSX của từng
bộ phận trong tổng GTSX của toàn bộ ngành cơng nghiệp. Tỷ trọng này phụ thuộc
vào vị trí của mỗi bộ phận ( nhóm ngành và từng ngành) trong hệ thống các ngành công nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu này có thể thấy được mức độ khai thác tài nguyên của
lãnh thổ, trình độ và xu hướng phát triển công nghiệp… Sự chuyển dịch cơ cấu
ngành công nghiệp cũng phản ánh sự phát triển của ngành công nghiệp trên địa bàn
của tỉnh.
* Dịch vụ
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng: là chỉ tiêu tổng
hợp phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động bán lẻ hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng cá
nhân và hộ gia đình của các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế trong khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Chỉ tiêu này
phản ánh quy mơ hán lẻ hàng hóa và "sức mua" của người dân. Nguồn số liệu dựa
vào báo cáo NGTK tỉnh hàng năm.
- Doanh thu du lịch: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ số tiền thu được do kết quả
hoạt động kinh doanh của các cơ sở kinh doanh phục vụ các nhu cầu khách du lịch
trong một thời gian nhất định (bao gồm cả khách du lịch trong nước và khách du
25