Đề tài:” em hãy nêu các phương thức phát hành cổ phiếu. Liên hệ thực tiễn
tại Việt Nam. Hãy bình luận , nhận định : doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa tận
dụng được lợi ích của việc phát hành cổ phiếu”.
Mục lục.
Chương I. Lý luận chung về phát hành cổ phiếu.
I.
Khái niệm và phương thức phát hành cổ phiếu.
II.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
III.
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra cơng chúng(IPO).
IV.
Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khốn,
giao dịch trên sàn OTC.
TRANG
3
4
6
9
1
Chương II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu ở Việt Nam.
I.
Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn TP. HỒ CHÍ MINH
(sàn HOSE; chỉ số VN-INDEX).
II.
Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn HÀ NỘI
(sàn HNX; chỉ số HNX-INDEX).
III.
Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn UPCOM
(thị trường phi tập trung OTC; chỉ số UPCOM-INDEX).
Chương III. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được
lợi ích của việc phát hành cổ phiếu.
I.
Quy mơ của thị trường chứng khốn Việt Nam.
II.
Việc huy động vốn kém và tính thanh khoản thấp
của các cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
III.
Đầu tư chứng khoán theo đám đơng, đầu tư kiểu
“lướt sóng” của các nhà đầu tư Việt Nam.
IV.
Sự tan vỡ của các doanh nghiệp cổ phần.
13
13
20
21
24
25
27
29
30
2
Chương I: Lý luận chung về phát hành cổ phiếu.
I.
Khái niệm và phương thức phát hành chứng khoán.
1. Khái niệm về phát hành chứng khoán
Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng
khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức
lần đầu tiên ra cơng chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc
phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khốn cùng loại lưu
thơng trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khốn bổ sung. Tuy nhiên,
không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể
phát hành mới có được quyền này.
2. Phương thức phát hành chứng khốn
Có 2 phương thức phát hành chứng khốn trên thị trường sơ cấp. Đó là
phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
2.1. Phát hành riêng lẻ (Private Placement)
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khốn của
mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có
tổ chức có ý định nắm giữ chứng khốn một cách lâu dài) như cơng ty bảo hiểm,
quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công
chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với
tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu
đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường cổ phiếu phổ thơng ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật chứng khoán: Chào bán
chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khốn cho dưới một trăm nhà
đầu tư, khơng kể nhà đầu tư chứng khốn chun nghiệp và khơng sử dụng phương
tiện thơng tin đại chúng hoặc Internet. Trong đó, Nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp là ngân hàng thương mại, cơng ty tài chính, cơng ty cho th tài chính, tổ
chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khốn.
2.2. Phát hành chứng khốn ra cơng chúng
Phát hành chứng khốn ra cơng chúng là việc phát hành trong đó chứng
khốn có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn
người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và
khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Theo luật chứng khoán Việt Nam khoản 12 điều 6: Chào bán chứng khốn
ra cơng chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau
đây:
a) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
b) Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
c) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
2.3. Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát
hành ra công chúng
3
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác
định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất
lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho cơng chúng đầu tư
nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là
điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khốn an tồn, cơng khai và có hiệu
quả.
Việc phát hành chứng khốn riêng lẻ thơng thường chịu sự điều chỉnh
của Luật Cơng ty. Chứng khốn phát hành dưới hình thức này khơng phải là đối
tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
II.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1. Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khốn, tổ chức việc phân phối
chứng khốn và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát
hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo
lãnh phát hành.
Theo luật chứng khoán và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật chứng
khoán: “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay tồn
bộ chứng khốn của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khốn cịn lại
chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành phân
phối chứng khốn ra cơng chúng.” Tổ chức bảo lãnh phát hành là cơng ty chứng
khốn được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và ngân hàng thương
mại được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu
theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định. Như vậy so sánh 2 khái niệm trên ta thấy,
việc bảo lãnh phát hành chứng khoán là một hoạt động rủi ro cao và đòi hỏi tổ chức
bảo lãnh cần có nghiệp vụ chun mơn riêng và phải là những nhà đầu tư mạo hiểm.
Nhưng hiện tại ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại đang phải gánh cho mình
quá nhiều chức năng, nhiệm vụ, khi một hoạt động mạo hiểm như bảo lãnh phát
hành chứng khoán cũng có sự tham gia của ngân hàng thương mại mà hoạt động
chính của nó là tạo tiền với rất ít rủi ro.
Theo luật , một công ty muốn phát hành chứng khốn ra cơng chúng
cần đi tìm một tổ chức bảo lãnh phát hành và thảo luận với họ về các điều khoản.
Đối với các công ty nhỏ, công ty cần đi tìm ngân hàng bảo lãnh để thảo luận; nhưng
với các cơng ty lớn thì các ngân hàng đầu tư tranh nhau bảo lãnh phát hành. Tại sao
lại có sự phân biệt của một tổ chức phát hành với quy mô của công ty? Rất đơn
giản,Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khốn
của một cơng ty phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khốn để hưởng
hoa hồng(Phí bảo lãnh hoặc hoa hồng bảo lãnh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào tính
chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn)).
Như vậy đối với các cơng ty lớn việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng
là một món “hời” cho các tổ chức bảo lãnh khi rủi ro phát hành thấp nhưng hưởng
4
hoa hồng lại lớn( chi phí phát hành thơng thường bằng 10% quy mô phát hành) và
các công ty nhỏ thì ngược lại. Do đó đối với các cơng ty nhỏ có được một tổ chức
đứng ra bảo lãnh phát hành là một điều may mắn, còn đối với các cơng ty lớn số
lượng chứng khốn phát hành có thể vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh
thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một tổ chức bảo
lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
2. Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các
phương thức sau:
•
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó
tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua tồn bộ số chứng khốn phát hành cho dù có phân
phối được hết chứng khốn hay khơng. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam
kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua
chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra cơng
chúng (POP) và bán lại các chứng khốn đó ra công chúng theo giá POP. Chênh
lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra cơng
chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
•
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường
được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở
các nước phát triển. Trong trường hợp đó, cơng ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho
các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các
cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngồi. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ
đơng không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, cơng ty cần có một tổ
chức bảo lãnh dự phịng sẵn sàng mua những quyền mua khơng được thực hiện và
chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngồi cơng chúng. Có thể nói, bảo
lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số
chứng khốn cịn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra
công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh cịn non trẻ và
chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phịng lại là phương
thức bảo lãnh thơng dụng nhất.
•
Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó
tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ
chức bảo lãnh khơng cam kết bán tồn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng
hết sức để bán chứng khốn ra thị trường, nhưng nếu khơng phân phối hết sẽ trả lại
cho tổ chức phát hành phần cịn lại.
•
Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương
thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng
khoán nhất định, nếu khơng phân phối được hết sẽ huỷ tồn bộ đợt phát hành.
•
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung
gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán
tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo
lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ
5
chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức
trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì tồn bộ
đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
III.
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng(IPO).
1. Điều kiện phát hành chứng khốn lần đầu ra cơng chúng
Mỗi nước có những qui định riêng cho việc phát hành chứng khốn lần đầu
ra cơng chúng. Tuy nhiên, để phát hành chứng khốn ra cơng chúng thơng thường
tổ chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau:
•
Về qui mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn
điều lệ tối thiểu ban đầu, và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm
nhất định về vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng cơng chúng tham gia.
•
Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: công ty được
thành lập và hoạt động trong vòng một thời gian nhất định (thường khoảng từ 3 đến
5 năm).
•
Về đội ngũ quản lý cơng ty: cơng ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có
đủ năng lực và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơng ty.
•
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: cơng ty phải làm ăn có lãi với
mức lợi nhuận khơng thấp hơn mức qui định và trong một số năm liên tục nhất định
(thường từ 2-3 năm).
•
Về tính khả thi của dự án: cơng ty phải có dự án khả thi trong việc
sử dụng nguồn vốn huy động được.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp
ngoại lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu
trên, ví dụ: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cơng ích, hạ tầng cơ sở có thể
được miễn giảm điều kiện về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo qui định của Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán
và thị trường chứng khốn và Thơng tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định
48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra cơng chúng phải
đáp ứng được các điều kiện sau:
•
Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam;
•
Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất;
•
Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh
nghiệm quản lý kinh doanh.
•
Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành
cổ phiếu.
•
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho
trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức
phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ
chức phát hành.
6
•
Cổ đơng sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức
phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát
hành.
•
Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10
tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.
2. Q trình phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đơng về
việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy
động vốn; số lượng vốn cần huy động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định
phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng
quản trị, cổ động hiện tại, người lao động trong doanh nghiệp, người bên ngoài
doanh nghiệp, người nước ngoài…
+ Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép
phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là
chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu
cần), cơng ty kiểm tốn và tổ chức tư vấn và cùng với các tổ chức này xây dựng
phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu tư.
+ Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong
phần lớn các trường hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo
sự thành công của đợt phát hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ
chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng
lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành diễn ra
một cách sn sẻ. Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành chứng khốn ra cơng chúng
thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan trọng, và mang tính
quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành.
+ Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác
của tổ hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt
quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành
chính (tổ chức bảo lãnh đã được lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác
để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt phát hành.
+ Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, cơng ty kiểm tốn và tổ
chức tư vấn tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là
khâu khó khăn nhất và phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khốn ra cơng
chúng. Nếu định giá chứng khốn q cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng
khốn, cịn nếu định giá chứng khốn q thấp thì sẽ làm thiệt hại cho tổ chức phát
hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho người mua và
người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp của
tổ chức bảo lãnh, cơng ty kiểm tốn và tổ chức tư vấn của cơng ty.
+ Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh
phát
hành
với
tổ
chức
phát
hành.
+Cơng ty kiểm tốn xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành.
7
+ Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khốn. Thơng thường tổ
chức phát hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời
hạn nhất định kể từ ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời
gian chờ Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử
dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị trường.
+ Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra thông báo phát
hành trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời cơng bố ra cơng chúng bản
cáo bạch chính thức và việc thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời
gian nhất định kể từ khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được qui định
khác nhau đối với mỗi nước. ở Việt nam, theo qui định tại Nghị định 48/Chính phủ
về chứng khốn và thị trường chứng khốn thì thời hạn này là 90 ngày, trong trường
hợp xét thấy hợp lý và cần thiết, Uỷ ban chứng khoán nhà nước có thể gia hạn thêm.
+ Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau
khi kết thúc đợt phân phối chứng khoán.
+ Sau khi hồn thành việc phân phối chứng khốn, tổ chức phát hành cùng
với tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho Uỷ ban
chứng khoán và tiến hành đăng ký vốn với cơ quan có thẩm quyền.
+ Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn
xin niêm yết gửi lên Uỷ ban chứng khoán và Sở giao dịch chứng khốn nơi cơng ty
niêm yết.
3. Những điểm thuận lợi và bất lợi khi phát hành cổ phiếu ra cơng
chúng
Những điểm thuận lợi
•
Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi
tiếng của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc
huy động vốn qua phát hành cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và
nhà cung ứng của cơng ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy
cơng ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
•
Phát hành cổ phiếu ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản rịng, giúp
cơng ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi
hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ
phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các
khoản vay ngân hàng. Ngồi ra, việc phát hành chứng khốn ra công chúng cũng
giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngồi
với tư cách làm đối tác liên doanh.
•
Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng giúp cơng ty có thể thu hút và duy
trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khốn ra cơng chúng, cơng ty
bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình.
Với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đơng, và được
hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên
của cơng ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là
thành bại của mình.
8
•
Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng, cơng ty có cơ hội tốt để xây dựng
một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát
triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà
tạo ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên
quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra
và cân đối trong quản lý và điều hành cơng ty.
•
Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng làm tăng chất lượng và độ chính
xác của các báo cáo của cơng ty bởi vì các báo cáo của cơng ty phải được lập theo
các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc
đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính
xác hơn.
Những điểm bất lợi
•
Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng làm phân tán quyền sở hữu và có
thể làm mất quyền kiểm sốt cơng ty của các cổ đơng sáng lập do hoạt động thơn tín
cơng ty. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động
do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
•
Chi phí phát hành chứng khốn ra cơng chúng cao, thường chiếm từ
8-10% khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn
pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm tốn, chi phí niêm yết… Ngồi ra, hàng năm cơng
ty cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm tốn các báo cáo tài
chính, chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng
khốn và chi phí cơng bố thơng tin định kỳ.
•
Cơng ty phát hành cổ phiếu ra cơng chúng phải tuân thủ một chế độ
công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các
công ty khác. Hơn nữa, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí
cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng ngun liệu, cũng như nguy cơ bị
rị rỉ thơng tin mật ra ngồi có thể đưa cơng ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
•
Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước
công chúng. Ngoài ra, do qui định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần
của họ thường bị hạn chế.
IV. Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, sàn OTC.
Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chỉ được gọi là thành cơng khi cổ
phiếu đó được giao dịch trên thị trường một cách suôn sẻ cũng giống như việc
chúng ta tạo ra một sản phẩm mới trên thị trường chỉ được gọi là thành cơng khi nó
bán được trên thị trường. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về thị trường giao
dịch chứng khoán.
1. Bốn thị trường giao dịch chứng khoán.
Khái niệm "thị trường" là để một không gian giao dịch hay một hệ thống
giao dịch, theo đó nó làm "hạ tầng" cho việc mua bán CK diễn ra. Tuy vậy, việc
mua bán trong TTCK chỉ là động tác thấy được kết thúc một hành vi. Tất cả giao
dịch CK đều có sự tham gia của dân chúng, các cơng ty, tổ chức và Chính phủ,
được diễn ra tại một trong bốn thị trường sau.
9
1.1. Thị trường sàn giao dịch.
Thị trường sàn giao dịch (exchange market) là một thị trường được tổ chức
tập trung, có địa điểm giao dịch cố định. CK được mua bán là loại đã được niêm yết
tại sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều
(từ hai phía), giữa đại diện (mơi giới) người mua và đại diện người bán. Cơ chế thị
trường này được minh hoạ và chúng ta đã được biết đến khá nhiều khi tìm hiểu về
các sở giao dịch, đặc biệt là NYSE (Sở giao dịch chứng khoán New York).
1.2. Thị trường phi tập trung.
Thị trường phi tập trung (over-the-counter - OTC market) là thị trường
được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn
giao dịch, mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và
thương lượng, giữa các công ty CK với nhau, thông qua một sự trợ giúp quyết định
nhiều đến hiệu quả hoạt động, đó là phương tiện thơng tin. Tại Mỹ, thị trường OTC
là định chế của một thị trường liên công ty CK (interdealer market), trong đó hệ
thống máy tính và điện thoại kết nối khoảng 600 nhà kinh doanh CK toàn quốc với
nhau, giúp họ dễ dàng làm ăn với nhau và cho khách hàng của họ (các nhà đầu tư).
Có hơn 15.000 loại CK khác nhau được đăng ký giao dịch trên thị trường OTC của
Hoa Kỳ. Trong khi đó cộng hết số lượng CK niêm yết tại 6 sở giao dịch của nước
này thì cũng chỉ có trên dưới 4.500 loại CK.
1.3. Thị trường thứ ba.
Thị trường thứ ba (third market - OTC-listed) là thị trường giao dịch các
CK đã niêm yết tại sở giao dịch nhưng theo cơ chế OTC. Thị trường này được lập
ra do yêu cầu của các nhà đầu tư là tổ chức cần mua bán với số lượng lớn, có thể
gọi là "mua sỉ" CK niêm yết (exchange-listed), thông qua thương lượng. Các
thương vụ được thu xếp bởi các công ty CK là nhà tạo giá của thị trường OTC, các
công ty này phải đăng ký và được phép mua bán lô lớn CK niêm yết. Thơng thường
thì tất cả các CK niêm yết đều có thể được mua bán theo phương thức này, nhưng
luôn luôn bị ràng buộc phải thông tin công khai trên hệ thống thơng tin chính thức
trong thời gian rất ngắn, ở Mỹ là trong vòng 90 giây sau khi thực hiện.
1.4. Thị trường thứ tư.
Để tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính chun nghiệp có điều kiện trực
tiếp mua bán CK cho tổ chức của mình, các thị trường lớn có lập ra một mạng giao
dịch nội bộ gọi là "instinet" phục vụ cho việc giao dịch các khối lượng lớn CK giữa
họ với nhau. Cả loại CK niêm yết trên sàn hoặc loại mua bán OTC đều có thể đem
ra giao dịch. Các tổ chức tham gia vào mạng này thường là các ngân hàng, các quỹ
hỗ tương đầu tư, các đại diện quản lý quỹ hưu trí, và nhiều tổ chức khác tuỳ theo
quy định... vì họ liên hệ với nhau trực tiếp mua bán qua lại nên không cần đến các
nhà môi giới. Tuy nhiên, bản thân hệ thống instinet sẽ đăng ký với UBCKNN để
được đóng vai trị như một cơng ty môi giới và kinh doanh CK (Broker - Dealer).
Các điều kiện về mua bán, xác nhận và thông tin sẽ được quy định cụ thể bởi luật lệ
CK và công ty CK đóng vai trị điều phối này.
Việt nam một thị trường chứng khốn mới được hình thành việc chưa phát
triển đầy đủ các thị trường giao dịch cũng là điều dễ hiểu. Hiện tại, chúng ta mới
10
đang manh nha phát triển 2 thị trường giao dịch chính là thị trường sàn giao dịch và
thị trường phi tập trung.
2. Sàn giao dịch chứng khoán..
2.1. niêm yết chứng khốn.
Để một chứng khốn có thể được giao dịch trên sàn chứng khốn, nó phải
được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khốn đó. Niêm yết chứng khốn là việc
đưa các chứng khốn có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại thị trường giao
dịch tập trung (Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán).
Hay nói cách khác, để có thể được niêm yết tại một Sở giao dịch chứng khốn nào
đó thì cơng ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Mỗi Sở
giao dịch chứng khốn có những điều kiện đặt ra khác nhau để đảm bảo cho sự hoạt
động an toàn đồng thời phù hợp với mục đích hoạt động của Sở giao dịch đó.
mục tiêu của việc niêm yết:
- Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức phát hành có chứng
khóan niêm yết, từ đó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ cua tổ chức phát hành trong
việc bổ sung thông tin, đảm bảo tính trung thực, cơng khai và cơng bằng.
- Nhằm mục định hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lịng tin của
cơng chúng đối với thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng khốn có
chất lượng cao để giao dịch.
- Cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin về tổ chức phát hành.
- giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công bằng trên thị trường đấu
giá.
2.2. phân loại niêm yết chứng khoán.
- niêm yết lần đầu: là việc cho phép chứng khoán của tổ chúc phát hành được
đắng kỳ niêm yết giao dịch lần đầu tiên sau khi phát hành ra cơng chúng(IPO) khi tổ
chức đó đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết.
- niêm yết bổ sung: là quá trình chấp thuận SGDCK cho một cơng ty niêm
yết có niêm yết các cổ phiếu mới phát hành với mục định tăng vay hoặc mục đích
khác như sáp nhập, chi trả cổ tức…………
- thay đổi niêm yết: phát sinh khi công ty niêm yết hay đổi tên chứng khoán
giao dịch, khối lượng, mệnh giá hay tổng giá trị chứng khoán được niêm yết của
minh.
- niêm yết lại: là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết
lại chứng khoán trước đây đã bị hủy bỏ niêm yết vì các lý do khơng đáp ứng.
- niêm yết cửa sau: là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thực sáp nhập
liên kết hay tham gia vào hiệp hội với một tổ chức, nhóm khơng niêm yết và kết quả
là các tổ chức khơng niêm yết đó lấy được quyền kiểm sốt tổ chức niêm yết.
- niêm yết tồn phần và niêm yết từng phần:
+ niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các cố phiếu sau khi đã phát
hành ra công chúng trên một SGDCK trong nước hay nước ngoài.
11
+ niêm yết tứng phần là việc niêm yết một phần trong tổng số chứng khốn
đã phát hành ra cơng chúng của lần phát hành đó, phần cịn lại chưa hay khơng
được niêm yết.
2.3. Quy trình niêm yết chứng khốn.
Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký niêm yết lên SGDCK.
Bước 2: SGDCK tiến hành thẩm định sơ bộ hồ sơ.
Bước 3: Nộp đơn xin phép niêm yết chính thức lên SGDCK.
Bước 4: SGDCK tiến hành kiểm tra niêm yết.
Bước 5: SGDCK phê chuẩn niêm yết.
Bước 6: Khai trương niêm yết.
2.4. đặc điểm giao dịch trên sàn.
- Cơ chế giá cả: thị trường niêm yết hoạt động trên cơ sở đấu giá từ hai phía
(double-auction).
- Vai trị chủ đạo thị trường: đối với sàn giao dịch đó là các chuyên gia trên
sàn, họ chịu trách nhiệm phải duy trì thị trường ổn định và phải liên tục chào giá các
chứng khoán mà họ đảm nhận.
- Giao dịch bên ngoài thị trường chính: theo quy luật, các nhà kinh doanh
chứng khốn khơng được mua dự trữ riêng cho mình, hoặc kinh doanh như tư cách
chủ nhân (principal) đối với các chứng khoán đã được niêm yết, ngoại trừ khi họ đã
tham gia vào cơ chế giao dịch của thị trường thứ 3.
3. Thị trường phi tập trung OTC.
3.1. Khái niệm.
Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là loại TTCK xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của TTCK. thị trường được mang tên
OTC co nghĩa là thị trường qua quầy. điều này xuất phát từ đặc thù của thị trường là
các giao dịch mua bán trên thị trường được thực hiện trực tiếp tại các quầy của các
ngân hàng hoặc các cơng ty chứng khốn mà khơng phải thông qua các trung gian
môi giới để đưa vào đấu giá tập trung.
Như vậy, có thể hiểu, thị truong OTC là TTCK khơng có trung tâm giao dịch
tập trung, đó là một mạng lưới các nhà mơi giới và tự doanh CK mua bán với nhau
và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại
các quầy(sàn giao dịch) của các ngân hàng và cơng ty chứng khốn.
3.2. Những đặc điểm cơ bản của thị trường OTC
•
Hình thức tổ chức: về cơ bản thị trường OTC khơng có địa điểm giao
dịch tập trung giữa bên mua và bên bán như đối với thị trường chứng khoán tập
trung (Sở Giao dịch Chứng khốn). Tuy nhiên, vì kỹ thuật tin học phát triển và việc
sử dụng mạng thông tin dữ liệu trên diện rộng đã làm cho việc giao dịch trên thị
trường OTC có tính tập trung cao hơn.
•
Chứng khốn giao dịch trên thị trường là chứng khoán chưa đủ tiêu
chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khốn, trong đó chủ yếu là của cơng ty
nhỏ và vừa; chính vì thế, chứng khốn trên thị trường này có độ rủi ro cao hơn so
với chứng khoán trên Sở Giao dịch Chứng khoán. Tiêu chuẩn để chứng khoán được
12
giao dịch trên thị trường OTC thấp hơn, linh hoạt hơn so với tiêu chuẩn niêm yết ở
Sở Giao dịch Chứng khốn.
•
Thị trường chứng khốn phi tập trung hiện đại là thị trường được tổ
chức chặt chẽ, sử dụng hệ thống mạng tin học diện rộng liên kết với tất cả các đối
tượng tham gia thị trường.
•
Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu dựa trên cơ sở thương
lượng, thỏa thuận giá giữa bên mua và bên bán.
•
Hệ thống các nhà tạo lập thị trường: các nhà tạo giá (Market makers)
là những người đưa ra giá rao mua và chào bán cho thị trường. Giá tốt nhất từ đó
khách đầu tư có thể mua (best ask) và giá tốt nhất mà họ có thể bán (best bid) được
chọn lọc tối ưu trong một tập hợp chào giá trên hệ thống chung, gọi là giá thị trường
nội bộ (inside market).
•
Cơ chế thanh tốn trên thị trường OTC là linh hoạt, đa dạng hơn so
với phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất ở Sở Giao dịch Chứng
khốn.
•
Quản lý thị trường OTC được thực hiện theo hai cấp: cấp quản lý nhà
nước và cấp tự quản.
mua bán và phương thức tạo giá trên thị trường OTC.
Mua bán trên thị trường OTC:Thị trường sàn giao dịch có thuận lợi cơ
bản là thông tin về giá cả và CK đã có một nề nếp phổ biến trên nhiều phương tiện,
tạo dễ dàng khi cần truy cập. Điều này lại chẳng dễ dàng chút nào đối với các giao
dịch trên thị trường OTC. Đây là vấn đề lớn và chỉ hố giải được bằng chính khả
năng tổ chức và qn xuyến, thậm chí bằng tất cả uy tín của tổ chức chủ quản điều
hành (ở Mỹ là NASD). Kế đến phải cần sự trợ giúp hiệu quả của các thành tựu về
thông tin với các phương tiện trang bị càng hiện đại càng tốt. Thị trường OTC, do
vậy sẽ cho hiệu quả hoạt động tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và đóng góp của hệ
thống thơng tin. Đối với người đầu tư, việc giao dịch cũng gần giống như ở thị
trường sàn giao dịch.
phương thức tạo giá trên thị trường OTC: Nhà tạo giá, nói chung, là một
cơng ty có hoạt động kinh doanh chứng khốn cho riêng mình (tự doanh) và được
công nhận tư cách tạo giá đối với một số lượng chứng khốn nào đó. ở thị trường
sàn giao dịch đó là các chuyên gia trên sàn (specialist) còn trên thị trường OTC, nhà
tạo giá là các nhà bn chứng khốn (dealers) tham gia cung cấp giá rao mua (bid)
và chào bán (offer) liên tục cho một chứng khốn đặc thù nào đó. Việc này được gọi
là tạo ra một giá thị trường (thuật ngữ: to make a market) cho chứng khoán. Khi đã
chào giá như vậy, họ sẽ sẵn sàng thực hiện mua hoặc bán với số lượng được nêu
bằng chính tài khoản của cơng ty họ. Không giống như thị trường sàn giao dịch,
nơi mà mỗi chứng khốn chỉ độc có một chun gia tạo giá, trong thị trường OTC
số lượng nhà tạo giá cho một chứng khốn có thể khơng hạn chế và tối thiểu phải là
hai.
Chương II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu ở Việt Nam.
I. Thực tiễn phát hành cổ phiếu trên sàn HOSE(SGDCK TP.HCM).
13
1. lịch sử SGDCK TP.Hồ Chí Minh.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận
hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ
phiếu niêm yết.
Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế
giới, Trung tâm giao dịch chứng khốn Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký
Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng
khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai
trương.
SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất đáng khích lệ. Tính đến
ngày 31/12/2007, tồn thị trường đã có 507 loại chứng khốn được niêm yết, trong
đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng, đặc biệt có 6
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tham gia niêm yết; 03 chứng chỉ quỹ đầu tư
với khối lượng 171,4 triệu đơn vị và 366 trái phiếu các loại.
Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng cơng ty chứng khốn thành
viên của SGDCK TP.HCM cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mơ và chất
lượng dịch vụ. Tính đến hết ngày 31/12/2007, tồn thị trường đã có 62 cơng ty
chứng khoán đăng ký làm thành viên của Sở với tổng số vốn đăng ký là 9.960 tỷ
đồng. Các thành viên hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với các
nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư.
Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã
thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngồi nước, cá nhân cũng như
có tổ chức. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các cơng
ty chứng khốn thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản, thì cho đến hết năm 2007
số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới gần 298 ngàn tài
khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
1. Hoạt động niêm yết và hoạt động giao dịch trên sàn Hồ Chí Minh.
Theo số liệu chính thức tính chung cả thị trường đến 31/12/2009 có 196
cổ phiếu, 4 chứng chỉ quỹ, 61 trái phiếu đang được niêm yết và giao dịch trên
HOSE với tổng giá trị niêm yết đạt 120 ngàn tỷ đồng.
Tình hình kinh tế năm 2010 nói chung chưa thật sự hồi phục mạnh mẽ song
thị trường chứng khoán VN đã đạt được một số kết quả đáng kể, như đạt kỷ lục về
cổ phiếu niêm yết mới, kỷ lục về số công ty phát hành thêm cổ phiếu... Tuy nhiên,
bên cạnh việc gia tăng số lượng, chất lượng của cổ phiếu niêm yết trên sàn chưa
thật sự đồng đều vẫn là vấn đề nhà đầu tư quan ngại.
14
Đến thời điểm cuối năm 2010, tuy có nhiều phiên khối lượng và giá trị
giao dịch khổng lồ (giá trị giao dịch của 2 sàn lên 4.000 tỉ - 5.000 tỉ đồng) nhưng
vẫn khơng ít cổ phiếu thường xun khơng có giao dịch hoặc giao dịch cầm chừng
dù giá trị vốn hóa rất cao... Với một số quy định mới về niêm yết cổ phiếu có hiệu
lực trong năm 2011, hy vọng thị trường sẽ có thêm nhiều cổ phiếu chất lượng hơn.
Dù thị trường không mấy thuận lợi song năm 2010, trên cả hai sàn
chứng khốn đã có khoảng 180 cổ phiếu niêm yết mới. Trong đó, tại Sở Giao dịch
Chứng khốn TPHCM (HoSE) có gần 80 doanh nghiệp (DN) niêm yết, vượt kỷ lục
74 DN niêm yết mới của năm 2006.
Ngồi ra, hiện có khoảng 15 DN đã nộp hồ sơ xin niêm yết trên HoSE,
trong đó có những đơn vị vốn khá lớn như Ngân hàng Quân đội, Cơng ty CP Ơ tơ
Trường Hải...
Tính đến thời điểm hiện tại(3/2011) thì sàn GDCK đã khoảng 283 DN
niêm yết và từ 19/4/2010 đến nay đã có 20 cơng ty cổ phần nộp hồ sơ niêm yết,
trong đó có 7 công ty được chấp nhận.
Từ ngày 26/3/2010 đến ngày 26/3/2011 khối lượng cổ phiếu niêm yết
mới là hơn 2 tỉ cổ phiếu. khối lượng cổ phiếu niêm yết mới trong các năm qua là:
năm 2007(1.723.437,5 nghìn CK), năm 2008(1.723.437,5 nghìn CK), năm
2009(3.523.292,81 nghìn CK) và số lượng hủy niêm yết qua các là tương đối nhỏ
so với niêm yết mới. từ đó ta thấy qui mơ cổ phiết niêm yết trên thị trường Việt
Nam ngày càng phát triển không ngừng.
Và qua bảng trên ta thấy qui mô niêm yết cổ phiếu chiếm tỉ trọng rất lớn
trên thị trường hiện nay, cụ thể: số công ty cổ phần niêm yết chiếm 83,98%, khối
lượng niêm yết chiếm 97,18%, giá trị niêm yết chiếm 90,7%.
15
chỉ số VN-Index, và qui mô vốn trên sàn HOSE.
A, chỉ số VNIndex.
Biểu dồ trên biểu diễn những biến động của chỉ số VNIndex từ năm
10/2009- 24/3/2011.
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy được chỉ số VNIndex dao động rất mạnh
và biên độ dao động giảm dần, và chỉ số cũng giảm so với trước.
Cuối năm 2006, đầu 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa.
Vn-Index tăng liên tục, liên tục như diều gặp gió, đạt 1.170 điểm (ngày 12/3/2007).
SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất đáng khích lệ. Tính đến ngày
31/12/2007, tồn thị trường đã có 507 loại chứng khốn được niêm yết, trong đó có
138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng.
Tuy nhiên sau đó chúng ta gặp vơ vàn khó khăn trước sự biến động của thị
trường, chỉ số Vnindex giảm điểm liên tục trong năm 2008 và 2009 và chạm đáy
235,5 điểm vào ngày 24/02/2009. Sau khi chạm đáy, Vn index tăng trở lại và đạt
mức đỉnh 624,10 điểm vào ngày 22/10/2009, rồi điều chỉnh mạnh trở về mức
434,87 điểm trước khi kết thúc năm ở mức 494,77 điểm(tăng 56,76% so với cuối
năm 2008). 31/12/2009 phiên giao dịch cuối cùng của năm 2009, giới đầu tư đã rất
lạc quan tin tưởng màu xanh sẽ ở lại với VN-Index. Hầu hết thời gian của phiên
giao dịch ngày 31/12, chỉ số trên cả hai sàn Nam-Bắc đều mang sắc xanh.Tuy nhiên,
về cuối phiên, sức mua dần suy giảm khiến cho chỉ số VN-Index đã trở lại với sắc
đỏ khi mất 0,59 điểm và xuống 494,77 điểm.
TTCK đầu năm 2010 khơng có sự bứt phá nào đáng chú ý. Xu hướng
chủ đạo vẫn là đi ngang và giảm điểm. Mở màn phiên giao dịch đầu năm chỉ số
VN-Index đã tiếp đà đi lên của cuối năm 2009. Tuy nhiên chỉ số VN-Index chỉ đạt
đỉnh vào ngày 7-1-2010 với 540 điểm là đuối sức, kết phiên VN-Index đóng cửa ở
mức 533,34 điểm, giảm 1,12 điểm. Những ngày sau đó, chỉ số VN-Index liên tục tụt
dốc thậm chí xuống dưới mức 480 điểm và giao dịch quanh biên độ 480 - 500 điểm
trong vòng 3 tháng liên tiếp. Ngày 3-4-2010, chỉ số VN-Index vượt ngưỡng 510
điểm và đi lên chạm ngưỡng kháng cự 538 điểm, sau đó tiếp tục tụt dốc và đi ngang
ở ngưỡng 510 - 520 điểm. Đỉnh cao của chỉ số VN-Index đạt 550 điểm vào ngày 65-2010 sau đó quay đầu giảm điểm xuống 421,3 điểm vào ngày 25-8-2010.
16
Trong tháng 9/2010, tình hình giao dịch trên thị trường có vẻ khả quan
hơn và chỉ số VN-Index đã tăng trước sự ngỡ ngàng của các NĐT khi từ 421,3 điểm
vượt lên 470 điểm trong vòng 7 ngày giao dịch. Tuy nhiên đà tăng đã bị hãm lại
những phiên sau đó, chỉ số VN-Index giao dịch quanh mốc 450 điểm. Kết thúc
phiên giao dịch tháng 9-2010, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mốc 454,52 điểm, tăng
0,34%, khối lượng giao dịch (KLGD) đạt 40,6 điểm ứng với giá trị giao dịch đạt
1.208 tỷ đồng. Như vậy so với phiên giao dịch đầu năm 2010, chỉ số VN-Index
giảm 63 điểm, ứng với 12%.
Tiếp đó vào đầu năm 2011 chỉ số VNIndex tăng nhẹ và đạt đỉnh tại
9/2/2011 với 522,59 điểm, rồi lại giảm nhẹ đến ngày 25/3/2011 xuống còn 457,74
điểm.
Qua bảng ở dưới đây ta thấy chỉ số VNIndex thay đổi như thế nào từ ngày
25/2-25/3/2011.
Qua số liệu gần đây ta có biểu đồ % thay đổi VNIndex và giá cổ phiếu:
Qui mô giao dịch cổ phiếu gần đây:
17
Từ bảng trên và biểu đồ trên ta thấy qui mô giao dịch từ tháng 4/2010
đến nay giảm rõ dệt.
Tốc độ tăng trưởng bình quân về mức giao dịch trong 8 năm đầu của
HOSE là 2,34 lần. Thanh khoản sàn TP HCM cải thiện qua các năm và giai đoạn sơi
động của thị trường chứng khốn vừa qua khiến khối lượng chuyển nhượng gia tăng
18
mạnh, hiện đã vượt hơn 70% cả năm ngoái.7/2009. Giá trị vốn hóa đạt hơn 350
nghìn tỷ đồng, chiếm gần 30% GDP năm 2008.
Kết thúc phiên giao dịch chứng khoán 10-12/2010, Vn-Index tăng 12,61
điểm, dễ dàng vọt qua 470 điểm khi đạt 473,06 điểm (tăng tương đương 2,74%)
cùng 233 mã chứng khoán tăng giá, 14 mã đứng giá và 29 mã giảm giá. Tổng khối
lượng giao dịch toàn sàn HOSE đạt 94.106.570 đơn vị chứng khoán, tổng giá trị
giao dịch tương ứng đạt trên 3.369,470 tỷ đồng, là mức thanh khoản tồn cao nhất
trong vịng 6 tháng trở lại của sàn HOSE.
Nhưng sang đầu năm 2011 thì các phiên giao dịch chứng khốn giảm
hơn rất nhiều thơng qua bảng trên ta thấy rất rõ.
3. hoạt động của thành viên.
Hiện nay trên sở giao dịch chứng khốn thành phố Hồ Chí Minh có 102 cơng
ty chứng khốn thành viên. Trong đó thị phần giá trị giao dịch mô giới cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ được xếp hạng của các thành viên được xếp hạng như sau.
thị phần giá trị giao dịch mô giới trái phiếu được xếp hạng như sau:
19
II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu tại Sở GDCK Hà Nội.
1. Lịch sử phát triển.
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập
theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên
cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
TTGDCK Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg
ngày 11/7/1998, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2005 với các hoạt động chính
là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu
trái phiếu. Sau 4 năm hoạt động, TTGDCK Hà Nội đã có những bước trưởng thành
nhanh và mạnh, thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và công chúng đầu tư.
TTGDCK Hà Nội đã có thành tích xuất sắc trong việc thúc đẩy sự phát triển có hiệu
quả của thị trường chứng khốn.
2. giá trị niêm yết và giá trị giao dịch.
Tính tơi 25/3 trên sàn HNX đã có 379 cơng ty cổ phần niêm yết. số lượng
CK niêm yết trên sàn tăng rất nhanh qua các năm, giêng từ đầu năm đến giờ đã có
12 CK niêm yết mới,năm 2010 có khoảng 113CK niêm yết mới… qui mô niêm yết
tại sàn HNX rất phát triển.
Từ bảng trên ta thấy quy mô niêm yết trên thị trường hiện nay ở sàn
HNX với số CK là 379 cổ phiếu tương ứng với tổng khối lượng niêm yết là
6,840,711,080, tổng giá trị niêm yêt là 68,407,110,800,000. so với 26/9/2010 đã
tăng 42 cổ phiếu tương ứng tăng 12,46%; tổng khối lượng niêm yết tăng
913,548,982 cổ phiếu(tăng 13,35%); tổng giá trị niêm yết tăng 9,135,489,802,000
đồng(tăng 15,4%).
Cũng từ bảng trên ta thấy tỉ trọng cổ phiếu chiếm tỉ trọng khơng cao
trong tổng số chứng khốn ở sàn Hnx, cụ thể: số cổ phiếu niêm yết chiếm 37,56%;
tổng khối lượng niêm yết chiếm 68,78%, tổng giá trị niêm yết chiếm 27,18%. Đây
là tỷ lệ tương đối nhỏ về quy mô giá trị của cổ phiếu so với trái phiếu trên sở
GDCK Hà Nội.
•
về quy mơ giao dịch và chỉ số HNX Index. Dưới đây là biểu đồ số
liệu từ 21/01/2011 đến 05/04/2011. trong đó chỉ số HNX Index cao nhất là 108, 39
điểm vào ngày 09/02/2011 và thấp nhất là 88,45 điểm vào ngày 09/03/2011, hiện tại
đang là 90,56 điểm. Như vây hiện tại chỉ số giá HNX Index đã giảm với chỉ số lúc
ban đầu năm 2005 khi mở cửa thị trường lần đầu tiên. Tính về mặt giá trị trên mặt
20
bằng chung các nhà đầu tư đang thua lỗ tức là nếu nhà đầu tư bỏ ra 100 đồng vào
năm 2005 thì hiện tại họ chỉ nhận được 90,56 đồng( chưa tính đến lạm phát và giá
trị quy đổi dịng tiền theo thời gian). Rõ ràng đây là một khoản đầu tư không hấp
dẫn chút nào đối với tất cả nhà đầu tư.
.
Tính về khối lượng quy mơ giao dịch trên ngày, thấp nhất là 15190 đơn vị và
cao nhất là 63358 đơn vị là rất nhỏ so với sàn HCM. Tính trên khối lượng giao dịch
tháng ta có quy mô giao dịch trong 12 tháng gần đây nhất như sau:
Hiện tại ở SGDCK Hà Nội có 102 cơng ty chứng khốn thành viên nhưng
chưa có thống kê chi tiết về vốn điều lệ và thị phần môi giới của từng cơng ty chứng
khốn thành viên.
III. Phát hành,giao dịch cổ phiếu trên sàn UPCOM.
1.
Sự ra đời của sàn UPCOM, mối quan hệ với sàn OTC.
Vào ngày 24/06/2009, Sở giao dịch Chứng khốn Hà Nội chính thức đưa thị
trường giao dịch các công ty đại chúng chưa niêm yết (thị trường UPCoM) vào hoạt
động. Cùng với thị trường UPCoM, HNX đưa ra chỉ số thị trường có tên gọi
21
UPCoM - Index. Như vậy, bên cạnh chỉ số VN-Index của Sở GDCK Hồ Chí Minh
và HNX index của Sở GDCK Hà Nội , thị trường chứng khoán Việt nam sẽ có thêm
1 chỉ số mới dành riêng cho thị trường UPCoM.
Thực chất UpCoM là sơ khai của thị trường OTC đúng nghĩa. Thị trường
OTC là thị trường phân tán, giao dịch nằm ở các CTCK và sau đó chuyển về một hệ
thống thống nhất. Chính vì vậy, vai trị của các CTCK rất quan trọng trong việc
hướng tới là những nhà tạo lập thị trường. Nhiều chuyên gia nhận định thị trường cổ
phiếu chưa niêm yết rất tiềm năng, chỉ cần khoảng 50 doanh nghiệp có thanh khoản
tốt lên UpCoM sẽ tạo cơ hội rất lớn cho CTCK. Hiện tại, sàn OTC có 1750 cơng ty
đăng ký cổ phiếu giao dịch trên sàn, trong khi sàn UpCoM có 77 công ty đăng ký cổ
phiếu.
Sự khác biệt giữa sàn UpCoM và sàn OTC là UpCoM là thị trường có sự
giám sát, quản lý rõ ràng, cịn OTC thì khơng. Sàn UPCoM đi vào hoạt động sẽ
phần nào gỡ rối cho thị trường OTC hiện nay, góp phần hạn chế rủi ro, thông tin
minh bạch và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Về lâu dài, thị trường UPCoM sẽ đi vào
ổn định và hoàn thiện hơn, đưa các hoạt động mua bán cổ phiếu chưa niêm yết đi
vào quy củ, xây dựng một thị trường OTC hiện đại và đa dạng hơn.
Tuy nhiên đối với nhà mô giới và các cơng ty chứng khốn, sàn OTC có
nhiều ưu điểm. Điểm hấp dẫn nhất của thị trường OTC là giao dịch khơng có biên
độ, tiền - chứng khốn có thể thanh tốn trao tay và có thể mua bán một loại cổ
phiếu trong cùng một phiên. Trong khi sàn UPCoM phải chờ thời gian thanh tốn
T+3 mới có thể bán.
2.
UPCoM: một sàn giao dich giảm điểm mạnh mẽ.
Sự ra đời của thị trường UPCoM được kỳ vọng sẽ đem lại một sự phát triển
mạnh mẽ cho những cổ phiếu không niêm yết trên sàn. Nhưng trên thực tế sau gần 2
năm hoạt động sàn UPCoM là một sự thất vọng lớn với nhà đâu tư. Việc chỉ số
UPCoM Index giảm điểm liên tục được thể hiện dưới bảng sau. Số liệu được lấy từ
21/01/2011 đến 05/04/2011. Sự mất điểm liên tục của UPCoM Index đã xuống mức
báo động 37 điểm. như vậy tại thời thời điểm gốc ngày 24/06/2009 nhà đầu tư bỏ ra
100 đồng để đầu tư thì hiện tại họ chỉ còn giữ được 37 đồng , một con số rất tệ đối
với các nhà đầu tư. Nếu đà sụt giảm này tiếp tục, trong tương lai gần việc thị trường
UPCoM phải đóng cửa là một điều có thể dự đốn được. Chúng ta sẽ phân tích sâu
hơn dưới các khía cạnh sau:
22
2.1. Về khối lượng cổ phiếu đang lưu hành:
Sau khi tiến hành khảo sát 77 cổ phiếu niêm yết trên sàn UPCOM (gọi là
nhóm cổ phiếu UPCOM), thu được kết quả về khối lượng cổ phiếu đang lưu
hành (KLCPLH) như sau:
Trong nhóm cổ phiếu UPCOM: cổ phiếu có KLCPLH cao nhất là NT2
với
256 triệu CP, cổ phiếu có KLCPLH thấp nhất là VNX với 1.05 triệu CP.
Bảng phân loại số lượng cổ phiếu đang lưu hành:
KLCPLH( triệu)
Số lượng
Tỷ lệ
<3
35
45.45%
3-5
11
14.29%
5-8
13
16.88%
8-11
9
11.69%
11-20
3
3.90%
>=20
6
7.79%
Tổng
77
100%
Từ bảng trên ta thấy, nhóm cổ phiếu cổ phiếu có KLCPLH nhỏ hơn 3 triệu
chiếm tỷ trọng lớn nhất (45.45%) trong nhóm cổ phiếu UPCOM.
Số lượng cổ phiếu lưu hành trung bình của nhóm cổ phiếu UPCOM là 10.07
2.2. Giá trị vốn hố thị trường
Cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất vẫn là NT2 với 3,276.8 tỷ
đồng, và DXL là cổ phiếu có giá trị vốn hóa nhỏ nhất với 13.45 tỷ đồng.
Bảng phân loại giá trị vốn hoá thị trường:
23
Giá trị vốn hoá
(tỷ đồng)
<40
40-60
60-100
100-200
200-400
>=400
tổng
số lượng CP
tỷ lệ
26
13
9
13
8
8
77
33.77%
16.88%
11.69%
16.88%
10.39%
10.39%
100%
Nguồn : HBSE research
Giá trị vốn hóa trung bình của nhóm cổ phiếu UPCOM là 194 tỷ đồng (bằng
1/7 giá trị vốn hóa trung bình của thị trường niêm yết).
2.3. Tỷ lệ tăng vốn
Bảng phân loại tỷ lệ tăng vốn:
tỷ lệ tăng vốn
số lượng
tỷ lệ
0%
66
85.71%
0-50%
6
7.79
50-100%
3
3.90%
>=100%
2
2.60%
tổng
77
100%
Chỉ có 11 cổ phiếu trong nhóm UPCOM (chiếm 14%) tiến hành tăng vốn
điều lệ trong năm 2010. Trong đó, API có tỷ lệ tăng vốn cao nhất là 355%, tiếp theo
là CT3 (106%), KMT đứng thứ ba với 63%.
Trong số cổ phiếu khơng tăng vốn thì NT2 có vốn điều lệ hiện tại là 2,560 tỷ
đồng (cao nhất trong nhóm cổ phiếu UPCOM).
Chương III: doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được lợi ích của
việc phát hành cổ phiếu.
Chúng ta biết được các ích lợi của việc các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
ra công chúng như doanh nghiệp có thể tận dụng được một nguồn huy động vốn
lớn, tập trung cho dài hạn để theo đuổi các mục tiêu chiến lược của công ty. Doanh
nghiệp khi phát hành cổ phiếu sẽ có được uy tín, thương hiệu và có được sự tin
tưởng hơn từ cả các nhà đầu tư lẫn ngân hàng cũng như của người tiêu dùng vì có
chiến lược phát triển , cung cấp thơng tin rõ ràng. Đặc biệt khi chúng ta phát hành
cổ phiếu ra công chúng, doanh nghiệp trở thành một tập thể hoạt động dựa trên lợi
ích của nhiều người. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể xây dựng
một hệ thống quản lý hiệu quả và chất lượng bằng cách thu hút được nhiều tài năng
đến với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam đã không
tận dụng được nhiều từ việc phát hành cổ phiếu. Lý do đến từ nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, đối với các nhà đầu tư nước ngoài , thị trường chứng khoán Việt Nam
24
không đủ hấp dẫn để thu hút họ đầu tư khi quy mơ cịn q nhỏ, chất lượng chứng
khốn lại khơng đảm bảo. Thứ hai, đến từ chính phương thức hoạt động của thị
trường chứng khoán Việt Nam : đầu tư theo đám đơng, mang tính ngắn hạn, tính
thanh khoản thấp. Thứ ba đến từ sự yếu kém của chính các doanh nghiệp phát hành.
Chúng ta sẽ phân tích chi tiết tại sao các doanh nghiệp lại không tận dụng được
những lợi ích từ việc phát hành cổ phiếu.
I. Quy mơ của thị trường chứng khốn việt Nam
Tính tới thời điểm hiện tại, giá trị vốn hóa tồn thị trường đạt hơn 40%
GDP (khoảng 700.000 tỉ đồng). Từ 7 công ty chứng khốn năm 2000 và 1 cơng ty
quản lý quỹ, đến thời điểm hiện tại trên cả hai sàn có tổng cộng 557 cơng ty niêm
yết, 105 cơng ty chứng khốn, 45 cơng ty quản lý quỹ. Tồn thị trường có 926 nghìn
tài khoản của các nhà đầu tư(NĐT) tổ chức và cá nhân, trong đó riêng NĐT nước
ngồi có hơn 10.000 tài khoản với danh mục đầu tư nắm giữ đạt gần 7 tỉ USD.
Tính từ năm 2000 đến hết tháng 6.2010, TTCK trở thành kênh huy động
tới 42% tổng giá trị các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc được Chính phủ
giao bảo lãnh phát hành. Trong 5 năm đầu giá trị giao dịch bình quân chỉ 55 tỉ
đồng/phiên, trong 5 năm tiếp theo đạt 1.300 tỉ đồng/phiên, đặc biệt thời gian từ đầu
năm 2009 giá trị giao dịch bình quân đã đạt trên 3.000 tỉ đồng/phiên.
Từ hơn 450 doanh nghiệp trong năm 2009, số lượng này đã tăng nhanh lên
khoảng 600 doanh nghiệp niêm yết trên hai sở giao dịch TP. HCM và Hà Nội năm
2010, tăng hơn 30%. Báo cáo cuối năm của CTCK Âu Việt cũng cho thấy, giá trị
huy động vốn qua TTCK trong năm 2010 đã tăng hơn 160% so với năm 2009.Mặc
dù chỉ số chứng khốn khơng tăng mạnh và dịng tiền cũng khơng thật ấn tượng,
nhưng xét ở mặt số lượng doanh nghiệp niêm yết và quy mô huy động vốn qua kênh
chứng khốn thì TTCK đạt được thành quả không nhỏ.
25