Thuật ngữ toàn cầu hóa được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối những năm 80 trở lại đây
để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một quá trình quan
trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại. Tùy vào góc độ tiếp cận, bản chất, tính chất và
nguồn gốc của toàn cầu hóa được các lý thuyết khác nhau quan niệm khác nhau. Tương
ứng với nó, các cột mốc thời gian của quá trình này cũng có thể được xác định khác
nhau.
- Toàn cầu hóa có thể xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên mà Roland Robertson
là người đi đầu trong quan niệm này. “Ông gọi nó là quá trình hội tụ thế giới trên phạm
vi rộng, phân biệt với quá trình trên phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa
phương” [15, tr.12]. Hàm ý của ông là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp
nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần – mà lớn nhất là thực
thể toàn cầu – và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa
quá trình toàn cầu hóa dưới dạng manh nha. Ông cho rằng tiến trình toàn cầu hóa bắt
đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV, được mở rộng ngoài phạm vi Châu Âu từ thế kỷ XVIII.
Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ năm 1750 đến 1870 là giai đoạn
“toàn cầu hóa phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu
của sự “cất cánh” đưa đến thiết lập một xã hội toàn cầu với một hỗn hợp của những sự
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và công nghệ.
- Toàn cầu hóa cũng được Wilkinson và Marshall Hodgson xem xét như một quá trình
mang tính lịch sử tự nhiên khi ông nghiên cứu về các nền văn minh. Ông coi sự phát
triển của văn minh nhân loại như là “sự phát triển phụ thuộc
5
lẫn nhau và ít nhiều song song giữa 4 hỗn hợp truyền thống văn minh: Trung Quốc, Ấn
Độ, Châu Âu và văn minh sông Nile đến Oxus” [15, tr.13].
- Thường thì toàn cầu hóa được tiếp cận chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế. Ankie Hoogvelt
xác định tính chất, mức độ của toàn cầu hóa dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng về chiến lược và quản lý giữa các nền kinh tế quốc gia [15, tr.13]. Một học giả
phương Tây khác là Immanuel Wallerstein đã giải quyết khá sâu sắc về toàn cầu hóa.
Ông coi toàn cầu hóa là “khúc khải hoàn của nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, được
gắn kết với nhau bằng sự phân công lao động toàn cầu” [15, tr.14].
Quan điểm về toàn cầu hoá được nhiều người thống nhất hiện nay, đó là: toàn cầu hoá là
một quá trình xã hội hóa ngày càng sâu sắc sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất cùng với những mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố này ở quy mô toàn
cầu. Đó là quá trình giao lưu và quốc tế hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống con người và
đời sống các quốc gia trong cộng đồng thế giới. Toàn cầu hóa không chỉ phản ánh sự gia
tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà còn phản ánh qui mô của các hoạt động
liên quốc gia. Toàn cầu hóa chính là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác
động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng qui mô và cường độ của các hoạt động
giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động
phát triển. Theo tôi, toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn
thế giới; là quá trình ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành
trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Toàn cầu hóa là xu hướng bao gồm nhiều phương
diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội .v.v. Trong các mặt đó, toàn cầu hóa kinh tế vừa
là trung tâm, vừa là cơ sở và động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu
hóa nói chung. Trên thực tế thì toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi bật nhất và các nghiên
cứu thường tập trung phân tích về toàn cầu hóa kinh tế.
Vậy, toàn cầu hóa kinh tế là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa kinh tế.
Có quan điểm cho rằng “toàn cầu hóa kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt ra
ngoài biên giới quốc gia, vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới”.
Lại có quan điểm cho rằng “Thực chất của toàn cầu hóa về kinh tế là tự do hóa kinh tế
và hội nhập quốc tế, trước hết là về thương mại, đầu tư, dịch vụ .v.v. Tự do hóa kinh tế
cũng có những mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến xóa bỏ thuế quan; tự do hóa
thương mại đến tự do hóa đầu tư, dịch vụ; tự do hóa kinh tế trong quan hệ hai bên đến
quan hệ nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến quan hệ toàn cầu. Hội nhập kinh tế cũng
vậy, cũng có những thứ bậc cao thấp khác nhau. Các quốc gia dù muốn hay không đều
dần phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, phải có chiến lược và
chính sách thích ứng với quá trình toàn cầu hóa. Nghĩa là các quan hệ kinh tế không
những được tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu, mà còn phải tuân theo những cam kết
toàn cầu đa dạng” [5]. Toàn cầu hóa kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn
và nhiều hơn của hàng hóa, vốn, công nghệ và lao động vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Đó chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của
sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra
của sản xuất, nhằm tối ưu hóa việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi
toàn cầu. Các nhà kinh tế thuộc Tổ chức thương mại và phát triển thuộc Liên hợp quốc
(UNCTAD) cho rằng: “Toàn cầu hóa kinh tế liên hệ tới các luồng giao lưu không ngừng
tăng lên của hàng hóa và nguồn lực vượt qua biên giới giữa các quốc gia cùng với hình
thành các cấu trúc tổ chức trên phạm vi toàn cầu, nhằm quản lý các hoạt động và giao
dịch kinh tế quốc tế không ngừng gia tăng đó” [5] [10].
Các chuyên gia Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng toàn cầu hóa
kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực
trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm của Qũy Tiền tệ quốc tế
7
(IMF) thì toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng không ngừng các luồng mậu dịch, vốn, kỹ
thuật với quy mô và hình thức phong phú, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trên thế giới [5]. Cách tiếp cận gần nhất đến bản chất, nội dung và phạm vi của
toàn cầu hóa kinh tế là quan tâm đến những khái niệm liên quan trực tiếp, đó là: khu vực
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế.
- Khu vực hóa kinh tế: được hiểu như quá trình làm sâu sắc hơn nữa các cơ cấu kinh tế
phụ thuộc lẫn nhau trong nội bộ khu vực dưới bất kỳ một hình thức nào, thông qua trao
đổi thương mại, đầu tư trực tiếp hoặc qua những dòng người di cư và di chuyển lao
động. Các yếu tố của khu vực hóa kinh tế là tự do mậu dịch, di chuyển dòng vốn, mở
rộng phân công và hợp tác lao động qua biên giới, phát triển cơ sở hạ tầng chung (vận
tải, thông tin liên lạc, ) thiết lập cơ chế kinh tế mang tính đồng nhất nhằm tăng cường
khả năng cạnh tranh các yếu tố sản xuất của nền kinh tế khu vực và của mỗi nước. Các
hiệp định hợp nhất khu vực ngày càng nhiều là biểu hiện của xu thế khu vực hóa kinh tế
không ngừng gia tăng. Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) là những
tổ chức và định chế kinh tế khu vực bổ sung lẫn nhau và cùng tham gia hội nhập vào thị
trường thế giới, kích thích tính năng động của sự phát triển. Có thể xem khu vực hóa
kinh tế là bộ phận của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, là những bước đi để tiến tới toàn
cầu hóa kinh tế.
- Hội nhập kinh tế chỉ sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào quá trình
toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thông qua nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp
độ đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát và bản sắc
riêng của nền kinh tế. Tính chủ động hội nhập kinh tế của một quốc gia thường được
biểu hiện qua:
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa - dịch vụ của các doanh nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế; + Đa phương hóa, da dạng hóa các quan hệ kinh tế;
8
+ Nhà nước kiểm soát được dòng vốn đầu tư nước ngoài; + Chính sách tự do hóa thương
mại phục vụ trước hết cho lợi ích phát triển quốc gia; + Nhà nước kiểm soát di cư lao
động; + Thiết chế quản lý nền kinh tế dựa vào những thế mạnh của bản sắc dân tộc. Về
mức độ hội nhập, nhà kinh tế học người Anh Balassa đã đưa ra 5 mô hình từ thấp đến
cao: + Khu vực mậu dịch tự do: là giai đoạn thấp nhất của tiến trình hội nhập kinh tế. Ở
giai đoạn này, các nền kinh tế thành viên tiến hành giảm và loại bỏ dần các hàng rào
thuế quan, các hạn chế định lượng và các biện pháp phi thuế quan trong thương mại nội
khối. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện chính sách thuế quan đối với các nước ngoài
khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA). + Liên minh thuế quan: là giai đoạn tiếp theo trong quá trình hội nhập.
Tham gia vào liên minh thuế quan, các thành viên ngoài việc hoàn tất việc loại bỏ thuế
quan và các hạn chế về số lượng thương mại nội khối, phải cùng nhau thực hiện một
chính sách thuế quan chung đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN (Hiệp
ước về mậu dịch tự do giữa các nước Bôlivia, Êcuado, Pêru và Vênêxuêla) và Liên minh
thuế quan giữa Cộng đồng kinh tế Châu Âu, Phần Lan, Áo, Thụy Điển trước đây. + Thị
trường chung: là mô hình liên minh thuế quan cộng thêm với việc bãi bỏ hạn chế với
việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác. Như vậy, trong một thị trường chung,
không những hàng hóa, dịch vụ mà hầu hết các nguồn lực khác (vốn, kỹ thuật, công
nghệ, nhân công ) đều được tự do lưu chuyển giữa các thành viên. Ví dụ: Cộng đồng
kinh tế Châu Âu (EC) trước đây. + Liên minh kinh tế: là mô hình hội nhập ở giai đoạn
cao dựa trên cơ sở mô hình thị trường chung cộng thêm với việc phối hợp các chính sách
kinh tế giữa các thành viên. Chẳng hạn như Liên minh Châu Âu (EU).
9
+ Liên minh toàn diện: là giai đoạn cuối cùng của quá trình hội nhập. Các thành viên
thống nhất về chính trị và các lĩnh vực kinh tế , bao gồm cả lĩnh vực tài chính tiền tệ,
thuế và các chính sách xã hội. Như vậy, ở giai đoạn này, quyền lực quốc gia ở các lĩnh
vực trên được chuyển giao cho một cơ cấu cộng đồng. Đây thực chất là giai đoạn xây
dựng một kiểu Nhà nước liên bang hoặc các “Cộng đồng an ninh đa nguyên”. Ví dụ: quá
trình thành lập Hoa Kỳ từ các thuộc địa cũ của Anh; và thống nhất nước Đức từ các tiểu
vương quốc trong Liên minh thuế quan Đức - Phổ trước đây.