Câu 1: phân tích làm sáng tỏ luận điểm: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là 1 quá trình
lịch sử tự nhiên. theo anh (chị) cần vận dụng quan điểm đó như thế nào trong công cuộc đổi mới của
Việt Nam.
TRẢ LỜI
Dưới chế độ tư bản, giai cấp công nhân còn được gọi là giai cấp vô sản, là giai cấp hoàn toàn không có tư liệu
sản xuát, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Là giai cấp gắn liền với sản xuất đại công
nghiệp và được nền công nghiệp rèn luyện, giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật cao và có điều kiện
thuận lợi tập hợp lực lượng, biểu thị sức mạnh của mình. Là giai cấp bị áp bức, bóc lột, có lợi ích đối lập trực
tiếp với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư sản, có khả năng đoàn kết
với quần chúng lao động bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chung.
Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên
về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không ngừng đấu
tranh chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính đảng của giai cấp
công nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chính quyền tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai cấp công nhân tự
xoá bỏ với tư cách là một giai cấp.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ăngghen có viết:
“Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân giai cấp tư sản chính ngay cái nền tảng trên đó
giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất và chiếm hữu nó Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau ”
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi
giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong
lịch sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Marx viết "Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên".
Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội: lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tách rời nhau, mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã
hội. Do tác động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển thay thế
nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc và ý trí, nguyện vọng
chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên
của xã hội qui định khuynh hướng phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản
xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và
được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn ra đời.
Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên hình thái
cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát
triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được
quy định bởi quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử
thế giới.
Thực tế lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã vận dụng học
thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch rõ các quy luật vận động, phát triển của xã hội và đã đi đến dự
báo sự ra đời cùa hình thái kinh tế xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa
xã hội.
Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó có nghĩa là giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong
mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho
quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét quá trình lịch sử như một đường
thẳng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản
xuất đời sống thực hiện. Nhưng nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác
nhau của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu không tính đến sự tác động lẫn
nhau của các nhân tố đó thì không thấy hàng loạt những sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để
1
tự vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính đến tất cả các nhân tố bản
chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó.
Có nhiều nguyên nhân làm cho quá trình chung của lịch sử thế giới có tính đa dạng, điều kiện của môi trường
địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thì
điều kiện của môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định quá trình không đồng đều của lịch
sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trí tuệ lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của
những yếu tố như Nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội
vv đối với tiến trình lịch sử.
Điều quan trọng trong lịch sử là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra dưới
những hình thức rất khác nhau từ chiến tránh và cướp đoạt đến việc trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá.
Nó có thể được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, khao học - kỹ thuật đến hệ
tư tưởng. Trong điều kiện của thời đại ngày nay, có những nước phát triển kỹ thuật rất nhanh chóng, nhờ nắm
vững và sử dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật của các nước khác. Ảnh hưởng của ý thức đã có một ý
nghĩa lớn lao trong lịch sử.
Không thể hiểu được tính độc đáo của các riêng biệt nếu không tính đến sự phát triển không đồng đều của sự
phát triển lịch sử thế giới một dân tộc này tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngừng trệ, một số nước
do hàng loạt những nguyên nhân cụ thể lại bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Điều đó chứng tỏ là
sự kế tục thay thế các hình thái kinh tế - xã hội không giống nhau ở tất cả các dân tộc.
Tuy nhiên, trong toàn bộ tính đa dạng của lịch sử của các dân tộc khác nhau thì trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ
thể vẫn có khuynh hướng chủ đọ nhất định của sự phát triển xã hội. Để xác định đặc trưng của giai đoạn này
hay giai đoạn khác của lịch sử thế giới phù hợp với khuynh hướng lịch sử chủ đạo đó là khái niệm thời đại
lịch sử.
2. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có các giai cấp đối kháng
Nghiên cứu phép biện chứng nói chung, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập nói riêng,
chúng ta thấy rằng, mâu thuẫn nói chung và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát
triển. Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự phát triển của sản xuất, là sự thay thế các phương thức sản
xuất khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, do lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã duy trì, bảo vệ quan hệ sản xuất
cũ bằng tất cả sức mạnh hiện có, đặc biệt dùng bộ máy nhà nước thống trị để chống lại lực lượng của các giai
cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Vì vậy muốn thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển phải gạt bỏ sự cản trở của giai cấp thống trị,
phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp. Rõ ràng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được
biểu hiện về mặt xã hội là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai
cấp thống trị muốn duy trì quan hệ sản xuất cũ, để bảo vệ lợi ích của chúng. Song, vì giai cấp thống trị có cả
bộ máy quyền lực nhà nước để chống lại các lực lượng tiến bộ, cho nên cuộc đấu tranh giai cấp ấy dẫn tới
cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội – “cái đầu tiên của lịch sử ấy” dẫn đến xoá bỏ chế độ xã hội chũ, xoá bỏ
giai cấp thống trị và quan hệ sản xuất thống trị, thiết lập chế độ mới, tạo điều kiện để quan hệ sản xuất mới ra
đời phát triển, trở thành quan hệ sản xuất chi phối, thống trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Bởi
vậy, đấu tranh giai cấp có ý nghĩa là động lực lớn của sự phát triển xã hội, nó là một phương thức cơ bản để
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xác lập phương thức sản xuất mới, thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói rằng, đấu tranh giai cấp trong mỗi thời kỳ lịch sử có các giai cấp đối kháng đều
xuất phát từ kinh tế và nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, từ đó kéo theo những vấn đề khác và thông qua đó
thúc đẩy xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp là phương tiện, điều kiện chứ không phải là mục đích, mục đích của đấu tranh giai cấp là
làm cho sản xuất phát triển, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ, xác lập một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến
bộ, thay thế cho hình thái kinh tế xã hội cũ đã lỗi thời.
Đối với người cộng sản, lý tưởng của họ là đấu tranh nhằm tiến tới xoá bỏ giai cấp bóc lột cuối cùng trong
lịch sử, thực hiện tự do, bình đẳng, bác ái trên thực tế. Song đó là một quá trình lịch sử lâu dài, trải qua các
bước gập ghềnh, quanh co, chứ không phải là con đường thẳng tắp, dễ dàng.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội có giai cấp, như C.Mác và
Ăngghen nói, nó là một đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại . Nhu cầu ngày càng tăng của con
người, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cả những nhân tố, về tư tưởng, đạo đức . đều là
những động lực của sự phát triển xã hội. Đấu tranh giai cấp là một động lực cơ bản của sự phát triển của xã
hội có các giai cấp đối kháng
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Chủ nghĩa Mác Lênin không coi giai cấp công nhân chỉ là giai cấp chịu nhiều đau khổ, “đáng được cứu vớt”
mà chính là giai cấp có sự mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa – chế độ bóc
2
lột cuối cùng trong xã hội loài người, thực hiện sự chuyển hoá từ xã hội tư bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa.
Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử ấy không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do
sự áp đặt của các nhà tư tưởng, mà do những điều kiện khách quan quy định. Hai ông viết: “Vấn đề không
phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ giai cấp vô sản, coi cái gì là mục đích của mình.
Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử”
Giai cấp công nhân là giai cấp được nền đại công nghiệp “tuyển lựa” tà tất cả các giai cấp và tầng lớp lao
động trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Sự ra đời của giai cấp công nhân gắn liền với nền sản xuất đại
công nghiệp và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản
xuất thủ công.
Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên
về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không ngừng đấu
tranh chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính đảng của giai cấp
công nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chính quyền tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai cấp công nhân tự
xoá bỏ với tư cách là một giai cấp.
Khi nghiên cứu quá trình hình thành ý thức giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân đầu tiên nảy sinh một cách tự phát theo bản năng. Điều đó cần thiết như Lênin nói:
“Nếu công nhân không tự giải phóng mình thì chẳng ai giải phóng cho họ cả. Nhưng chỉ có bản năng thôi thì
chẳng đi được xa. Cho nên phải nâng bản năng đó thành ý thức”.
Vì vậy, việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính của giai cấp công nhân là quá trình đấu tranh thường xuyên
và quyết liệt giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản. Muốn thắng lợi được trong sự nghiệp này, phải làm cho
giai cấp công nhân và phong trào công nhân thấm nhuần lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm
vụ này phải do đảng của giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm hệ tư tưởng của mình đảm nhận.
Chỉ có một đảng như vậy mới có khả năng “đưa vào trong phong trào công nhân tự phát những ý tưởng xã
hội chủ nghĩa thật rõ rệt, gắn phong trào đó với những tư tưởng xã hội xã hôi chủ nghĩa những tư tưởng này
phải đạt tới trình độ hiện đại.
Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền và lãnh đạo xãy dựng xã hội mới, giai cấp công nhân không có vũ
khí nào quan trọng hơn là tổ chức. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là đảng cộng sản.Khi
không có một đảng theo học thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin thì không những giai
cấp công nhân không vươn tới cuộc đấu tranh giai cấp có ý thức, mà cũng không thể trở thành giai cấp lãnh
đạo quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột lật đổ giai cấp tư sản, cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội.
4. Sự phát triển biện chứng của lịch sử
Lịch sử thế giới đã trải qua những bước tiến lớn, vĩ đại và cả những bước lùi lớn là một sự thật, là biện chứng,
đúng với quan điểm của chủ nghĩa duy vật.
Không chỉ có chủ nghĩa xã hội trải qua bước lùi lớn mà chủ nghĩa tư bản cũng có những bước lùi tưởng như
không thể tiến lên được. Sau thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, sau những thắng lợi nhằm phát
triển chủ nghĩa tư bản ra toàn châu Âu, cách mạng tư sản thoái trào, triều đại Buốcđông đã phục tích. Năm
1830, rồi năm 1848 laịo tiếp tục cuộc cách mạng tư sản. Rồi lại đến Lui Bônapáctơ lên ngôi hoàng đế nước
Pháp. Nhưng rồi chế độ phong kiến cũng không thể kéo lùi được lịch sử. Đến 1870, rốt cuộc cách mạng tư
sản Pháp đã thắng lợi hoàn toàn. Những quan hệ tư bản chủ nghĩa đã chiến thắng quan hệ sản xuất phong
kiến.
Ngày nay cũng vậy, những thành tựu của chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1971, sẽ mãi mãi mở đầu một thời đại mới, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của những tư tưởng
tự do – bình đẳng – bác ái thực sự chứ không còn trên danh nghĩa như dưới thời của chủ nghĩa tư bản. Du
quanh co, phức tạp, những tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười và của Lênin về quyền tự quyết của các dân
tộc và sự giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản sẽ nhất định chiến thắng. Nhân loại
sẽ tự nguyện lựa chọn nhiều con đường đi tới tự do – bình đẳng – bác ái thật sự. Có nhìn nhận lịch sử như vậy
thì dù thấy Exin hạ lá cờ đỏ búa liềm thay bằng lá cờ ba sắc thời Nga hoàng, phủ định Cách mạng Tháng
Mười, du thấy trước này 7-11-1991, con cháu dòng họ vua Nga có trở về chúng ta cũng không bàng hoàng.
Phải chăng đó là những diễn biến lịch sử, nhưng rồi trước sau lịch sử vần tìm thấy con đường đi của nó. Phải
chăng lịch sử vẫn lắp lại quy luật phủ định của phủ định lại diễn ra. Lôgích của sự phát triển là như vậy.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn chủ nghĩa tư bản vẫn không giải quyết được các tệ nạn cỗ hữu của nó, nhát là nạn thất nghiệpp và
nếu tệ phân biệt chủng tộc vốn là ung nhọt của xã hội hiện đại, chủ nghãi tư bản không tìm cách tiêu diệt nó,
mà trái lại trong nhiều lúc nó vẫn dùng để phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của giai cấp tư sản. Ngay cả quyền
3
bình đẳng của phụ nữ vẫn đang lâm vào tình trạng tồi tệ nhất đặc biệt là ở các lĩnh vực tiền công, việc làm và
các quan hệ xã hội và các điều kiện sinh hoạt. Một tình trạng nữa là sự phát triển của khoa học kỹ thuật là các
phương tiện thông tin đại chúng hiện đaị vốn là sản phẩm của văn minh - văn hoá thì không hiếm nơi đã được
sử dụng để chống lại văn hoá văn minh vì mục đích thương mại. Người ta cũng làm tưởng về lòng từ thiện
của các chính quyền tư sản và giới chủ khi thấy đâu đó ở họ có những cải cách về mặt phúc lợi, nhưng kỳ
thực đó là kết quả của những cuộc đấu tranh ngày càng có ý thức của giai cấp công nhân, thường là do các
chính đảng cánh tả làm nòng cốt và hơn nữa đó chính là điều mà giai cấp tư sản bắt buộc phải làm để bảo vệ
lợi ích lâu dài của họ.
Nếu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ nghĩa tư bản hiện đại luôn tìm đủ cách để điều chỉnh và thích nghi
với những điều kiện mới nhằm vượt qua những cuộc khủng hoảng, tìm con đường phát triển, thì trong lĩnh
vực chính trị cũng vậy. Bài học lịch sử cho thấy, vấn đề lớn nhất đối với các Nhà nước tư sản là ngăn chặn
được các cơn bão táp cách mạng thường phát sinh do sự bất mãn cao độ của giai câp công nhân, hoặc tiếp
theo những thời kỳ hỗn loạn của xã hội, mà trong đó giai cấp tư sản xâu xé lẫn nhau để bòn rút xương tuỷ của
nhân dân lao động. Giai cấp tư sản và đang cố gắng xoa dịu mâu thuẫn cơ bản này bằng mọi thủ đoạn. Một
khi quyền lợi vị kỷ của giai cấp tư sản bị đụng chạm thì kể cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay các mặt trận
liên minh dưới các tên gọi khác, cuối cùng đều tan vỡ. Rõ ràng vấn đề không thể được giải quyết nếu như
mẫu thuẫn cơ bản ấy không được giải quyết.
Trong tình hình đó chủ nghĩa tư bản cỉa lương lại xuất đầu lộ diện. Nhiều chính trị gia, học giả tư sản thường
nêu ra chiêu bài xã hội sẽ biến đổi về cơ bản không phải bàng đấu tranh cách mạng mà bằng sự chuyển biến
dần nhận thức và lòng chắc ẩn của giai cấp tư sản, số khác thì rêu rao về các khả năng giải quyết những mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động nằm ngay trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ sản xuất. Nghĩa là, theo họ
cần phải tiến hành "cuộc cải cách trí tuệ và đạo đức" ngay trước khi giành được chính quyền từ giai cấp tư
sản. Tất cả chỉ là mị dân bởi trong tình hình hiện nay mà giai cấp tư sản đang làm ra sức củng cố lực lượng và
sẵn sàng tiêu diệt bất cứ một sự phản kháng nào hay một ý đồ nào đụng tới sự tồn vong cuả chính quyền tư
sản.
Gần đây, người ta cũng luôn bàn luận nhiều về một yếu tố trong nền chính trị của các nước chủ nghĩa tư bản
phát triển là chế độ xã hội dân chủ ở một số nước từng được coi là kiểu mẫu chính trị cho các nước tư bản.
Đúng là không ai phủ nhận được một số thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội mà các nước ày đạt được và
một thời tạo ra cái ảo tưởng về một lối thoát cho chủ nghĩa tư bản là có thể thay đổi được hoàn toàn thực
trạng mà không thay đổi thực chất nhưng hiện nay tình hình đã không như người ta mong muốn. Nhưng vấn
đề cố hữu của chủ nghĩa tư bản một thời được khoả lấp nay lại nổi lên.
Cuối cùng nếu quan sát một các cách khách quan trên bình diện các mối quan hệ quốc tế, người ta không thể
thấy rõ số phận của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nói riêng và vận mệnh của chủ nghĩa tư bản nói
chung. Chủ nghĩa tư bản không thể sử dụng mãi những biện pháp đàn áp, khai thác hay lợi dụng như trước
đây đối với các nước thuộc thế giới thứ ba. Vị trí và quyền lợi cua rhọ ở các nước thứ ba luôn bị đe doạ.
Những món nợ cũ liệu có mãi là xích xiềng đối với các nước thế giới thứ ba, khi ngày càng nhiều nước đói
xoá nợ giảm nợ hoặc hoãn trả nợ vô thời hạn? và các Nhà nước thế giới thứ ba liệu có cam chịu mãi những
cuộc trao đổi bất bình đẳng với các nước tư bản trong khi họ không thiếu cơ hội trong trao đổi với các nước
khác và giữa họ với nhau? điều này đã trực tiếp làm lung lay địa vị và chi phối số phận của chủ nghĩa tư bản.
Thậm chí, ngay sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, liệu sự ổn định của chủ nghĩa tư
bản có đủ sức chứng tỏ chủ nghĩa tư bản là con đường phát triển tối ưu của nhân loại ? không bởi vì chủ
nghĩa tư bản vẫn không thoát khỏi những căn bệnh "thâm căn cố đế" của nó, dù "mối đe doạ cộng sản" tưởng
như nhẹ đi. Chủ nghĩa tư bản vẫn không khát vọng xâm phạm nền độc lập của các quốc gia, trà đạp quyền lợi
tự do của các dân tộc bằng đủ hình thức can thiệp vũ trang thô bạo cuộc chiến Kôsôvô - hay âm mưu diễn
biến hoà mình với những cuộc chiến trah nhung lụa kích động và xô đầy các nước và chém giết đẫm mấu ở
khắp các châu lục. Và người ta cũng đang chức thực khối mâu thuẫn ngày càng lớn và căng thằng giữa các
nước tư bản phát triển trong cuộc xấu xé giành vị trí hàng đầu trong trật tự thế giới hiện nay, mâu thuẫn đó
đang trở thành nguy cơ đe doạ không những chính số phận họ mà còn cả nhân loại. Đó là bằng chứng không
gì chối bỏ được.
Sự đổ vỡ của Đông Âu xã hội chủ nghĩa và của Liên Xô là sự đổ vỡ của mọt mô hình xã hội chủ nghĩa có một
số mặt thích hợp ở một thời kỳ thích hợp nhưng chậm đổi mới cho phù hợp với sự tiến hoá. Đây không phải
là sự phá sản của chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta cho rằng đây là sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội nói chung, là
sự phá sản của học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phải chăng chúng ta cho rằng lịch sử đã đi tới sự kết thúc vận
động. Thực ra, lịch sử luôn vận động, không tuỳ thuộc vào ý muốn của ai. Một số chính khách, học giả tư sản
muốn kéo lùi lịch sử, muốn chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn nhưng lịch sử vẫn tìm ra con đường phát triển
của nó để tiến tới một xã hội công bằng, bác ái thực sự thay thế chủ nghĩa tư bản. Đó là chủ nghĩa xã hội. Mộ
hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trước đây là một mô hình được thể nghiệm, không đồng nhất với chủ
4
nghĩa xã hội khoa học. Từ khi Liên Xô sụp đổ đến nay, phong trào xã hội chủ nghĩa với những mô hình mới
như mô hình của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam đang
phát triển. Những tìm tòi sáng tạo mới đang thúc đẩy phong trào xã hội chủ nghĩa đi lên, không bị gò bó bởi
những công thức có sẵn.
Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế sự phát triển cao của lực lượng sản xuất suy cho cùng là nhân tố
quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Song nhân tố chính trị xét về mặt chủ thể (chủ quan ) của lịch sử
lại trở thành nhân tố quyết định trong bước đường phát triển của dân tộc.
Vào giữa những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lầm vào cuộc khùng hoảng trầm trọng, chế độ xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ
trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng
định của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác nhận là đúng đắn.
Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiện sự năng động về tư duy lý luận gắn liền với
sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng khùng hoảng, để vượt qua
những kìm hãm của mô hình cũ - mô hình hành chính bao cấp, để giải phóng và khia thác mọi tiềm năng phát
triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đổi mới không
phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội công bừng văn minh, đúng với quy luật khách quan hơn phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện thực tế của đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiệu quả hơn làm cho chủ nghĩa xã hội hộc lộ và khẳng định bản chất ưu việt của nó, từng bước định
hình và phát triển trong thực tế, làm, cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt,
xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ", để cho nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc được học hành tiến
bộ và phát triển mọi khả năng sáng tạo của mình" để cho "dân thực sự là chủ và làm chủ lẫy và cuộc xống của
mình? Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh.
Mặc dù xuất phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ ở nước ta còn rất thấp, nhiều yếu tố còn ở mức tiền thời
kỳ quá độ. Song, trong những năm qua, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu
rất quan trọng (tuy còn non yếu). Hơn nữa, bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước,
chúng ta có thể đưa ra đường lối đúng và có kế hoạch, biện pháp thích hợp để giải phóng và khai thác mọi
tiềm năng về sức sản xuất hiện có; động viên tối đa mọi nguồn lực vật chất, trí tuệ của dân tộc; kết hợp tối ưu
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tranh thủ ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật
và công nghệ hiện đại do quá trình quốc tế hoá tạo ra. Đó là cách đi tốt nhất để pháp triển lực lượng sản xuất
nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, để
rút ngắn quá trình lịch sử tự nhiên, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước, các tổ chức quốc tế, kể cả tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình
đẳng cùng có lợi để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài: thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ,
vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý v.v
Như vậy, đi lên xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, và nó được thể hiện trong cuộc sống đổi mới của
Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững. Chế
độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đa xây dựng sẽ là chế độ phát triển và sử dụng tốt nhất những nguồn lực của
chính mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là là nguồn lực con người. Đó là mục tiêu quan trọng nhất
của chủ nghĩa xã hội.
2. Liên hệ bản thân
Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp, kẻ địch đang tấn công quyết
liệt bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội hàng ngày
hàng giờ đang tác động nhưng tôi vẫn giữ niềm tin, phấn đấu không mệt mỏi để góp một phần nhỏ trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đảng ta đã vạch ra, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới
đất nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiệp chỉnh Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết,
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, có một cuộc sống lành mạnh vui tươi không chịu ảnh hưởng của
các tệ nạn xã hội.
Đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng phát triển kinh tế. Vì
vậy tôi luôn cố gắng phấn đấu học tập, nghiên cứu khoa học, ngoài ra tôi vẫn tham gia tiếp tục các khoá học
như tin học, ngoại ngữ đế có điều kiện tiếp cận với những tri thức của thế giới, ngoài ra tôi còn thường xuyên
đọc thêm các tài liệu sách báo, theo dõi các sự kiện trong nước và quốc tế để trau dồi kiến thức góp phần,
phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Luôn luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
KẾT LUẬN
5
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu đối với tất cả nhân loại. Chúng ta phải nhận thấy rằng con đường
mà chúng ta đang đi tới là một con đường gian lao, thử thách, đòi hỏi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân ta phải
cùng đồng lòng, chung sức và cùng cố gắng, thì mới có thể thành công. Chúng ta bước được tới đỉnh vinh
quang hay không, có bước được đến CNXH-CNCS hay không, điều đó còn phải tuỳ thuộc vào tất cả mọi
người có cố gắng, nỗ lực hay không. Tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng để có thể thực hiện được ước mơ và
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, bởi quá độ được đến CNXH, chúng ta sẽ tìm được thấy
hạnh phúc, ấm no và công bằng, chúng ta sẽ thấy được ánh sáng của văn minh nhân loại, cái mà bấy lâu nay
chúng ta tìm kiếm nó.
Một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ một cấu trúc xã hội ở từng giai đoạn lịch sử, dựa trên
một phương thức sản xuất nhất định với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho cơ sở kinh tế của xã hội và với
một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên cơ sở đó. Các HTKT - XH đã có trong lịch sử qua các chế độ
xã hội khác nhau (công xã nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa) là những nấc
thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Không phải tất cả các quốc gia dân tộc đều tuần tự trải qua tất cả các nấc thang của quá trình phát triển xã hội
nói trên. Trong những hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định của thời đại, có những quốc
gia dân tộc có thể bỏ qua một hoặc hai nấc thang của quá trình phát triển xã hội để tiến thẳng lên một hình
thái cao hơn. Mỗi HTKT - XH cũng là một "cơ thể xã hội" cụ thể, bao gồm trong đó tất cả các thành phần
vốn có và các hiện tượng xã hội trong sự thống nhất hữu cơ và sự tác động biện chứng. Mỗi một HTKT - XH
đều có cấu trúc phổ biến và tính quy luật chung, có những mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự tác
động lẫn nhau giữa các thành phần cơ bản nói trên là động lực bên trong thúc đẩy sự vận động của HTKT -
XH và sự tiến bộ lịch sử, làm chuyển biến xã hội từ HTKT - XH thấp lên HTKT - XH cao hơn, thường là
thông qua những chuyển biến có tính cách mạng về xã hội.
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận
động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh
tế - xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát
triển đến trình độ cao. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến
cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi
toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở
đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng
tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế -
xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã
hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có
thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa
tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát
triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng
con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều
kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.
Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù
hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến
sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công
cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến
thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân
xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với tính khoa
học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một
học thuyết khoa học và cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của
thời đại, phản ánh chính xác những nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay
đổi thế giới và giải phóng con người. Để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng
sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên
6
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đã có không
ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản động quốc
tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung” của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và
khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó khăn
phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh
mẽ sức sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của
đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy,
những luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn
là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta
càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và
thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát
triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện
nay. Vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con
đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”(3).
Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với
phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp.
Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ
và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam
là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và thuộc tính cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có
thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta nhận thức và
vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành
tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước
ta, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với
thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin
và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ:
“Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong
lịch sử hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu
tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi
qua”(4).
4. Kết luận
Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh
liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như trên thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được
những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh
đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
7
8
9
Câu 2: vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn. phân tích 1 hoạt động chuyên môn của
anh chị.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác - Lênin
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong 20 năm đổi mới.
Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những
nguyên tắc lý luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của triết học Mac-Lênin.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức Macxít nói riêng,
chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn
đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt
đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt
động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong
đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn
của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn
vào lý luận, Mac- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý
luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm
thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có
mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới.
Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế
giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn
không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể
tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức
đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
10
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của
thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức,
Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với
tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát
triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong qúa trình
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt
động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy
luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi
dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không
có khoa học, không có lý luận.
Trong qúa trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn
luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con
người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri
thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận
thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong qúa trình nhận
thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc
đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mac và
Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn
toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng
tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu
chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý luận nhận thức, tư
tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Tư
tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vẫn đang là nguyên tắc phương pháp luận quan
trọng hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát thực tiễn
cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học
nào với đúng nghĩa của nó.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ thống các khái niệm,
phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa
trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một
cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát tri thức kinh
nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc
lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ
giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về
bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là
đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật
chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận.
Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của tính
hiện thực trực tiếp”.
11
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khâu quyết định đối với
hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa
đạt được càng cao, càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở
thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực
tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào qúa trình biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh
vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở
lại của lý luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được những vấn
đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên,
thực chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn
về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự
phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng
“mò mẫm”, tự phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận
có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt
khác không được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc
tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động
thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác
nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng
thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời
sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận góp
phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không
thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục
tiễn, để cải tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được thực tiễn là cơ sở, là động lực,
mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực
bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội
dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo,
nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải chống bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh
nghiệm quý báu đó.Song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân,
coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý
luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ
giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực
tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy đễ rơi vào bệnh kinh
nghiệm chủ nghiã.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều. Nết tuyệt đối hóa lý luận,
coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừư tượng không
chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngữa, khắc phục có hiệu qủa hai căn bệnh trên phải coi trọng cả lý luận và thực
tiễn.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết
các vấn đề của qúa trình phát triển xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và
12
đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển dời
sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc nào hết lý luận Mac – Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn
phải thể hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong công việc, giải quyết những vấn đề cấp bách và trọng đại do
cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Những thành qủa mà chúng ta có được ngày hôm nay là kết qủa của sự năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà
nước ta trong qúa trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt
nam trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY
TRIẾT HỌC
Tác giả : TS. Trần Viết Quang - Trường Đại học Vinh
1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau,
quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý; sự hình thành và phát của
lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung
và phát triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.
Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển.
Thực tế lịch sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc
chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới
khách quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượg hóa, khái quát hóa để xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực
tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có
lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ
hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình hoàn thiện bản thân con người.
Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ
trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối
với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc
người ta biến đổi tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con
người phát đã phát triển song song với việc người ta người đã học cải biến tự nhiên”[1].
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến
lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý luận khoa học ra đời vì
chúng cần thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách khác, thực tiễn là mục đích của
nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải
biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề
mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là
những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống
quan điểm đổi mới, v.v Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào
sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác
viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý”
[2]
.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm.
Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn
một cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực
13
tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác
nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im một chỗ mà biến
đổi và phát triển; thực tiễn là một qúa trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu
tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những chân
vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được
trước kia và hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được thực
tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát
triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực
đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát
thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đôi với hành.
Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa
xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp cho
thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái
này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn
mà phải nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai
trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động
của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai
trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng”
[3]
.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". Lý luận có thể dự kiến được
sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động
có hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con ngươi nên chủ
động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mậm, tự phát. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi
khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch
ra đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví "không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi".
[4]
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực, do sự chi
phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học nên lý luậncó nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng,
giáo điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách
mạng không phải là giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động cách mạng; và lý luậnkhông lại là một cái
gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luậnluôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực
tiễn sinh động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng
thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với
thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luậnsuông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luậnvà
thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sự xã hội để xây dựng nên hệ thống
lý luận của mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực
tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới
(NEP) và Người nhận xét: “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”
[5]
.
Như vậy, sức mạnh của lý luậnlà ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát
triển trong thực tiễn.
2. Yêu cầu của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy triết học
14
Giảng dạy trong nhà trường cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Trong giảng dạy triết học, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được giảng viên trình bày một cách thống nhất,
làm sao để lý luận triết học thường xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh
kịp thời sự biến đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất nhanh
chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục cũng đang có những chuyển biến
tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi trong đời sống thực tiễn phải được giảng viên kịp thời nắm bắt và đưa
vào trong nội dung bài giảng của mình. Chúng ta không được coi lý luận triết học như một cái gì xong xuôi,
cứng nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo và luôn được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn
sinh động.
Tuy nhiên, các kết luận nghiên cứu triết học không phải là những lời giải đáp trực tiếp cho từng vấn đề cụ thể
vô cùng phong phú, đang dạng mà là cơ sở có giá trị định hướng về mặt phương pháp luận. Do đó, trong quá
trình giảng dạy, cần phân tích làm cho người học nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của
các vấn đề cần truyền đạt, từ đó họ có thể lý giải được những vấn đề thực tiễn.
Khi trình bày các nguyên lý, phạm trù, quy luật, cần lấy những ví dụ minh họa mang tính thực tiễn, thường
xuyên liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, không nên trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận; vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật để luận giải các vấn đề thực tiễn. Giảng dạy triết học là làm cho sinh
viên hiểu được, nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách
đang thực thi trong đời sống, từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh.
Đối với sinh viên sư phạm, cần chú trọng liên hệ, đối chiếu lý luận triết học với thực tiễn giáo dục, với quá
trình đổi mới giáo dục - đào tạo ở nước ta. Trong giảng dạy triết học, cần định hướng cho sinh viên vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật để luận giải mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục. Chẳng hạn, trên cơ
sở trình bày nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên cần chỉ ra quan điểm giáo dục toàn diện (nội dung
giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện); trên cơ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cần làm sảng tỏ
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội, v.v Nội dung tự học, tự nghiên cứu, thảo luận nhằm vào mục đích rèn luyện
năng lực vận dụng kiến thức triết học vào nghiên cứu các khoa học chuyên ngành và phân tích các vấn đề
thực tiễn. Có như vậy, giảng dạy triết học mới trở nên thiết thực, bổ ích đối với sinh viên; trang bị cho họ lý
luận và phương pháp luận biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xã hội, thực
tiễn giáo dục.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: "Lý luận đi đôi với thực tiễn", "Lý luận kết hợp với thực
hành", "Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, "Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói "đi đôi", "gắn liền", "kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn
nhấn mạnh là: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được
Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn,
định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực
tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần
đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc
phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý
luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động
thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu
tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho
bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên
15
"chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng.
Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập
6, tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận
mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt
mờ" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối
vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của
bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo
điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do
đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý
luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không
phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm
thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng
định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn,
hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý
luận suông, lý luận sách vở thuần túy. "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp
dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết
đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234). Do đó, khi vận
dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý
luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn
đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ
ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực
tiễn luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở
nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách
diễn đạt khác nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc
đời của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một
trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó
với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700
lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các cháu
thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học
Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ thấy
Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì
một mặt, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có
phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu không, chưa
khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất
cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng
ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Điều quan trọng nữa
theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán
kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác- Lênin, "học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác -
Lênin" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là học theo kiểu "mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho
người ta lầm lẫn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là
"phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 497). "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin
là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để
mà làm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên "học tập lý luận
thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý
luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa
16
Mác - Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải
học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới
làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập
đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư
tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người
cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
mới có hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin thì còn phải chống giáo
điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng
viên: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em,
là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai
loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước
nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý
luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều
thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn trong việc quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân
tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin. "Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân
tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm
nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại, (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
công tác. "… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ
ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới" (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh " cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực
hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 5, tr. 417). Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ
sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được "bổ sung
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời,
thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung,
hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ
đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện
sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. "Làm như thế
theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công
tác có kết quả hơn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học
tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực
tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận
mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ
không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng không
còn chỗ đúng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời
giải đáp cho nhiều vấn đề thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta phải
tìm ở cả trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính thực tiễn đổi mới hiện nay ở
nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
tổng kết những vấn đề thực tiễn hôm nay một cách có lý luận.
17