Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.87 KB, 73 trang )

Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội – khoa học kỹ thuật ... đời sống của nhân dân
ngày càng được nâng cao. Cùng vơí chuyển biến trên, ngành bảo hiểm Việt Nam
cũng không ngừng lớn mạnh và phát triển. Rất nhiều chế độ và nghiệp vụ bảo
hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các thành viên trong xã
hội. Chế độ bảo hiểm xã hội được Nhà nước triển khai từ khá lâu song phạm vi
bảo hiểm và số người bảo hiểm xã hội rất hạn hẹp, chỉ có công chức nhà nước mới
được tham gia bảo hiểm. Trong khi có một thực tế đang diễn ra là có một bộ phận
dân cư có thu nhập thấp và không thuộc quyền lợi bảo hiểm như những người lao
động làm công ăn lương. Họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi gặp rủi ro tai
nạn, ốm đau, bệnh tật. Bảo hiểm con người do Bảo Việt triển khai đã đáp ứng
được nhu cầu bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội, đảm bảo tính ổn định của
quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Tuy vậy bảo hiểm con người
vẫn chưa đến được với người nghèo, những người mà chính họ cần được bảo hiểm
hơn ai hết..Trong quá trình triển khai với những đối tượng trên, chắc chắn sẽ gặp
nhiều khó khăn nhưng không phải là không làm được.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên và qua tìm hiểu thực tế về bảo hiểm con
người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng thuộc Bảo Việt Hà Nội, với sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy giáo Hồ Sĩ Sà, em đã lựa chọn đề tài “Tình hình triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng” giai
đoạn 1996-2000 để viết chuyên đề thực tập.
Nội dung chính của chuyên đề thực tập bao gồm:
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người .
Phần 2: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng
bảo hiểm Hai Bà Trưng.
- 1 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Phần 3: Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm kết
hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng.
Phần 1


Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người
I. sự cần thiết khách quan của bảo hiểm kết hợp con người
1.Sự cần thiết của bảo hiểm con người .
ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lưọng sản
xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội. Con người là vốn
quý cho sự phát triển xã hội. Một xã hội muốn phát triển thì đời sống của con
người phải được đảm bảo về mọi mặt, vật chất cũng như văn hoá tinh thần.Đây
chính là mục tiêu mà mỗi quốc gia cần vươn tới nhằm phát huy sức mạnh nhân tố
con người .Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lao động sản xuất,dù con
người có hết sức chú ý đề phòng nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, gây thiệt
hại lớn về tài sản và tính mạng. Những rủi ro này có thể do thiên nhiên, do sự phát
triển của lực lượng sản xuất, do tiến bộ khoa học kĩ thuật,do môi trường xã hội…
Vì thế để đối phó với những rủi ro trên , con người cần phải có những sự chuẩn bị
cần thiết về mặt tài chính nhằm trang trải những chí phí phát sinh khi có rủi ro bất
ngờ xảy ra. Khi gặp rủi ro , bản thân người bị tai nạn về tính mạng hoặc thân thể ,
thậm chí là tính mạng thương tật suốt đời. Gia đình người bị nạn phải gánh chịu
nỗi đau khi nhìn thấy con, em mình trở thành thương tật tàn phế … Đó là những
mất mát không gì và không ai có thể bù đắp được. Nhưng ngoài những mất mát
đó, người bị nạn và gia đình họ còn phải gặp những tổn thất về tài chính. Người bị
nạn sẽ giảm thu nhập ( trong một thời gian hoặc thậm chí vĩnh viễn ),còn gia đình
họ phải trang trải những chi phí nhằm phục hồi sức khoẻ cho người bị nạn như :
tiền thuốc men ,viện phí, tiền phẫu thuật …hoặc các chí phí khác cho việc mai
táng, tang lễ
Những chí phí này dù lớn hay nhỏ song trong điều kiện thu nhập của đại đa số
nhân dân lao động còn thấp, đã thực sự trở thành mối quan tâm lo lắng và gây ra
- 2 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
những khó khăn nhất định đối với việc khắc phục hậu quả, phục hồi sức khoẻ cho
nạn nhân .
Vì vậy nhu cầu về tài chính dự trữ với mục đính đảm bảo ổn định cuộc sống

là rất cần thiết cho mọi người.Để có được nguồn tài chính đó, họ có thể làm bằng
hình thức tiết kiệm hoặc tham gia bảo hiểm .Mục đích của tiết kiệm là thu được
một khoản tiền lớn hơn trong khoảng một thời gian nhất định so với số tiền ban
đầu và dùng khoản tiền đó để bù đắp cho các chí phí phát sinh . Biện pháp này có
yếu tố tích cực song còn tồn tại những những nhược điểm không đáp ứng được
tính bất ngờ của sự cố, tức là trường hợp số tiền tiết kiệm chưa đủ lớn đã gặp phải
rủi ro bất ngờ . Bảo hiểm ra đời có thể coi là biện pháp tối ưu để khắc phục hậu
quả .
Theo khái niệm chung nhất, ta có thể hiểu: “Bảo hiểm là hoạt động mà người
bảo hiểm đứng ra cam kết bồi thường theo nguyên tắc số đông bù số ít cho người
tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm với điều kiện
người được bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ
ba”.Như vậy thiệt của một người sẽ được phân tán cho nhiều người trong cộng
đồng. Điều này dẫn tới việc một tổn thất tưởng như vượt qua sức chịu đựng của
một người lại có thể được chia nhỏ ra, phù hợp với khả năng gánh vác của nhiều
người. Tham gia bảo hiểm con người chính là người được bảo hiểm đánh đổi một
phần tài chính nhỏ để lấy một sự an toàn trong cuộc sống . Họ sẽ giảm bớt được
gánh nặng mà nếu không tham gia bảo hiểm , họ sẽ phải tự trang trải tất cả chi phí
đó .
Bảo hiểm con người là hợp đồng bảo hiểm rằng buộc trách nhiệm của người
tham gia bảo hiểm , người được bảo hiểm và người bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn
định đời sống con người được bảo hiểm trước rủi ro , tai nạn hoặc những sự cố bất
ngờ xảy ra .Theo hợp đồng bảo hiểm ,người bảo hiểm cam kết trả cho người được
bảo hiểm hoặc cá nhân những người khác như người được uỷ quyền ,người thừa
kế hợp pháp theo pháp luật số tiền bảo hiểm đã được ấn định trước phù hợp với rủi
ro ,tai nạn theo các điều kiện cam kết xảy ra. Số tiền bảo hiểm được chi trả không
- 3 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm xã hội và đảm bảo xã hội cũng như số tiền chi trả
hợp đồng bảo hiểm khác cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm với cùng một

rủi ro tai nạn xảy ra.Người tham gia cam kết đóng phí đầy đủ và đúng thời hạn
quy định
như đã ghi trong hợp đồng. Trong đại bộ phận các nghiệp vụ bảo hiểm con người,
số tiền bảo hiểm, các khoản trợ cấp được ấn định trước trên hợp đồng bảo hiểm
.Những khoản tiền này được xác định dựa trên sự lựa chọn của người tham gia bảo
hiểm –người duy nhất có thể ước tính được số tiền mà anh ta hoặc những người
thân thích của anh có nhu cầu. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, các khoản trợ cấp, số
tiền bảo hiểm được người bảo hiểm thanh toán không nhằm mục đích bồi thường
thiệt hại, đây là số tiền bảo hiểm mang tính chất khoán. Do không ai có thể định
giá được con người và không có công ty bảo hiểm nào có thể cung cấp một con
người “như cũ” khi anh ta đã thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi hay bất kỳ rủi ro
gây thiệt hại khác, các công ty bảo hiểm chỉ có thể chi trả một lượng tiền không
lớn hơn số tiền bảo hiểm mà người đó tham gia trong trường hợp anh ta gặp rủi
ro .
Việt Nam đã và đang xây dựng một nhà nước của dân do dân và vì dân. Đại
hội VII đã khẳng định: “Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con
người và lấy phục vụ con người là cao nhất”.Để thực hiện mục tiêu này,Đảng và
Nhà nước đã có những chính sách khác nhau nhằm bảo vệ con người không may
rủi ro .
Về bảo hiểm xã hội : Bảo hiểm xã hội Việt Nam được Nhà nước tổ chức
quản lý và bảo hộ. Việc lập quỹ tiền tệ do sự đóng góp dần dần theo theo thời gian
của người lao động dựa trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ xã hội để đảm bảo
cho người lao động có phần thu nhập, trang trải cho nhu cầu thiết yếu khi bị suy
giảm hoặc mất khả năng lao động. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là người lao
động mà trước hết là công nhân viên làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp thuộc
thành phần kinh tế nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao động trở lên, lao động trong
- 4 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
các lực lượng vũ trang do Nhà nước tổ chức.Quỹ bảo hiểm do sự đóng góp của

người lao động, người sử dụng lao động và một phần bù thiếu của Nhà nước. (Do
đó phí bảo hiểm không dựa trên tỷ lệ phí với quyền lợi của họ được hưởng).
Người tham gia bảo hiểm được hưởng quyền lợi trong các trường hợp: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí,tử tuất. Quyền lợi này phụ thuộc vào thời gian
đóng góp bảo hiểm xã hội và mức đóng phí bảo hiểm xã hội.Tuy nhiên đối tượng
của bảo hiểm xã hội không phải là toàn bộ người lao động cũng không phải là toàn
bộ nhân dân.
Bảo hiểm y tế: Mục đích của bảo hiểm y tế Việt Nam được Nhà nước tổ chức
quản lý và bảo hộ, viêc lập quỹ là để có thêm nguồn tài chính tăng cường chất
lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bao gồm cả
bắt buộc và tự nguyện nhưng chủ yếu là chế độ quy định bắt buộc của Nhà nước
đối với công nhân viên hành chính sự nghiệp, cán bộ hưởng lương làm việc trong
các nhà máy, xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, người lao động trong
các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao
động trở lên. Tuy nhiên với sự phát triển của xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm
y tế ngày càng nhiều, phải kể đến đầu tiên là nông dân, đây là đối tượng chiếm tỷ
lệ đông đảo trong toàn bộ dân số, kế tiếp là người buôn bán nhỏ ở nông thôn và
thành thị. Phí bảo hiểm không thống nhất cho mọi đối tượng tuỳ thuộc vào mức
lương và đối tượng tham gia( khối hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh
hoặc cá nhân). Quyền lợi mà người đóng bảo hiểm được hưởng là dich vụ y tế
khám chữa bệnh trong bệnh viện theo phác đồ của Bộ y tế. Theo quyết định mới
của bảo hiểm y tế Việt Nam thì người tham gia trả 20% chi phí điều trị còn 80%
chi phí khám chữa bệnh do bảo hiểm trực tiếp trả cho bệnh viện.
Trên đây là một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước, xã hội cho con người.
Song đối tượng của chính sách này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định,
- 5 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
không đáp ứng được nhu cầu được bảo vệ của mọi thành viên trong xã hội, đòi hỏi
mỗi thành viên tự tìm cho mình một hình thức bảo vệ mình khi gặp rủi ro gây thiệt

hại xảy ra. Nhìn chung bản thân mỗi con người đều phải có những khoản dự trữ
nhất định, không phải lúc nào các khoản dự trữ này cũng đảm bảo thoả mãn được
nhu cầu khi bất trắc xảy ra. Vì vậy hình thức dự trữ có hiệu quả nhất và có tác
dụng thiết thức nhất trong việc khắc phuc rủi ro là tham gia bảo hiểm.
Bảo hiểm con người là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm thương mại hay
có thể gọi là bảo hiểm thương mại về con người. Hiện nay trên thế giới có 8
nghiệp vụ về bảo hiểm con người:
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
- Bảo hiểm tai nạn chết người và mất khả năng lao động.
- Bảo hiểm cá nhân do tai nạn bất ngờ.
- Bảo hiểm công nhân viên chức do cơ quan xí nghiệp đài thọ phí
- Bảo hiểm trẻ em.
- Bảo hiểm tai nạn hành khách.
- Bảo hiểm du du lịch.
- Bảo hiểm tiền hưu.
Ngoài ra còn có bảo hiểm cưới xin và bảo hiểm cácbộ phận trên thân thể con
người. Tuy nhiên ở Việt Nam, triển khai bảo hiểm thương mại về con người có
các nghiệp vụ sau:
- Bảo hiểm hành khách, triển khai, năm 1981
- Bảo hiểm tai nạn lao động năm, 1987
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm sinh mạng cá nhân, năm 1990
- Bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật, năm 1994
- Bảo hiểm kết hợp con người, năm 1994
- Bảo hiểm tai nạn học sinh, năm 1985
- Bảo hiểm nhân thọ, năm 1996
- 6 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Mục đích: bảo hiểm toàn bộ thân thể người được bảo hiểm là một hình thức bổ
sung cho bảo hiểm cho bảo hiểm xã hội nhằm ổn định đời sống cho mọi thành

viên trong xã hội trước những rủi ro về thân thể, tính mạng, giảm sút thu nhập.
Tức là người bảo hiểm thanh toán những khoản tiền quy định trong trường hợp
xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm.
Đối tượng: Đối tượng của bảo hiểm con người là tính mạng và tình trạng sức
khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người.
Hình thức tham gia: Chủ yếu dưới hình tự nguyện, không bắt buộc các đối
tượng tham gia.
Phí bảo hiểm: Mức đóng góp theo các quy định trong biểu phí của công ty bảo
hiểm triển khai thực hiện trên cơ sở giám sát, không lớn hơn cũng không nhỏ hơn
biểu phí quy định của Bộ Tài Chính.
Quyền lợi: Là các chế độ bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm
mà theo đó người tham gia bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm
sẽ được nhận số tiền chi trả từ cơ quan bảo hiểm khi có rủi ro gây thiệt hại xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm.
Cách chi trả: Công ty thanh toán tiền cho người được bảo hiểm theo sự thoả
thuận giữa Công ty bảo hiểm và người tham gia ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu để bảo vệ con người bảo hiểm đã ra
đời và đặt quyền lợi của con người lên trên hết luôn tạo cho con người sự tin
tưởng, sự an tâm trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Khi xã hội ngày càng phát
triển, đời sống của người dân được cải thiện, ngoài nhu cầu cho tồn tại, con người
cần có nhu cầu về tinh thần. Sự an tâm về cuộc sống chính là nhu cầu không thể
thiếu được, điều này dẫn đến nhu cầu bảo hiểm ngày càng được coi trọng, phát
triển và đa dạng hoá. Chúng ta đã tiến hành bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn
và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật để đáp ứng nhu cầu đó và chính bản thân
các nghiệp vụ này cũng đang được mở rộng về các mức phí khác nhau.
Song ba quy tắc bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân và
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, mỗi quy tắc có phạm vi bảo hiểm riêng, đáp
- 7 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
ứng nhu cầu riêng của ngượi tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề

còn bất cập, đồng thời cũng không phát huy được tác dụng nếu ba quy tắc này áp
dụng tách rời nhau. Nếu một người tham gia bảo hiểm đồng thời cả ba loại hình
bảo hiểm trên, chắc chắn sẽ gây ra sự trùng lặp, khó khăn trong việc quản lý, lãng
phí giấy tờ không cần thiết.
Vì vậy tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong việc triển khai, thực
hiện và quản lý hợp đồng cũng như đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo
hiểm, ngày16/07/1994 Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã ban hành
điều khoản về bảo hiểm kết hợp con người số1085/PHH94 ngày16/06/1994. Công
ty bảo hiểm Hà Nội trực tiếp triển khai bảo hiểm kết hợp sinh mạng cá nhân, tai
nạn 24/24 và trợ cấp nằm viện phẫu thuật cho mọi người từ 1 tuổi (12 tháng tuổi)
đến 65 tuổi ngày 01/08/1994.
2. Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam
a) Vài nét về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam
Với 80 triệu dân, Việt Nam là nước đông dân cư đứng hàng thứ 13 trên thế
giới. Cơ cấu dân số trẻ, nguồn nhân lực dội dào đã trở thành một trong những điều
kiện thuận lợi để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trong những năm
vừa qua
ở Việt Nam, từ khi Bảo Việt triển khai bảo hiểm thương mại về con người đến
nay đã có 12 nghiệp vụ bảo hiểm con người như:bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo
hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm học sinh, bảo
hiểm du lịch .....
Từ sau nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của chính phủ về kinh doanh bảo
hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam sôi động hẳn lên bởi sự ra đời của hàng loạt
các công ty bảo hiểm với loại hình rất đa dạng: công ty bảo hiểm cổ phần, công ty
bảo hiểm Nhà nước, công ty bảo hiểm ngành, công ty liên doanh bảo hiểm ....
cùng với 30 văn phòng đại diện của các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài.
Sự phát triển kịnh tế xã hội một mặt cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người
dân, động thời cũng tăng thêm nhận thức của họ về vai trò và tác dụng bảo hiểm.
- 8 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ

Từ năm 1994 đến nay, sự ra đời và cạnh tranh ồ ạt của một số công ty bảo
hiểm đã khiến cho thị phần của Bảo Việt giảm sút ít nhiều và doanh thu có phần
chững lại. Nhưng năm 1999, nhóm bảo hiểm con người phi nhân thọ vẫn có mức
tăng trưởng khoảng 4,8%, trong đó có một số nghiệp vụ tăng lên nhanh: bảo hiểm
kết hợp con người (tăng 29%), bảo hiểm khách du lịch tăng(14,1%), bảo hiểm học
sinh( tăng 13,9%)....ở hầu hết các công ty bảo hiểm , tỷ trọng nghiệp vụ bảo hiểm
con người luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% doanh thu của toàn bộ công ty. Đặc
biệt Công ty bảo hiểm Hà Nội là một trong số ít công ty có tỷ trọng này: năm
1998, doanh thu của nghiệp vụ này đạt 28 tỷ đồng chiếm 32,1% doanh thu phí bảo
hiểm và năm 1999 là 23 tỷ đồng chiếm32,1% doanh thu phí bảo hiểm
Với một thị trường gần 80 triệu dân trong đó khoảng 60% bộ phận dân cư từ
18 tuổi trỏ lên thì người tham gia bảo hiểm mà công ty khai thác được là còn quá
nhỏ bé. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ tính riêng ở Hà Nội trung tâm kinh tế, chính
trị của cả nước-tỷ lệ tham gia bảo hiểm con người trong dân cư chỉ chiếm khơảng
6,72%. Điều này đòi hỏi nhà bảo hiểm, các nhà làm luật phải xem xét lại, nghiên
cứu lại chính sách, chiến lược, cũng như từng mặt công tác nghiệp vụ trong quá
trình cung cấp sản phẩm “bảo hiểm” đến tận tay khách hàng, làm sao để nhà bảo
hiểm và người tham bảo hiểm gặp nhau tại điểm có sản lượng tiềm năng lớn nhất.
b) Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam.
ở Việt Nam,bảo hiểm tai nạn con người là nghiệp vụ bảo hiểm về con người
đầu tiên được Bảo Việt triển khai từ năm 1986 dưới hình thức bảo hiểm tai nạn
lao động.Ban đầu nghiệp vụ này có phạmvi bảo hiểm trong giờ hành chính là 8/24
giờ trong ngày. Sở dĩ Công ty tiến hành phạm vi đó vì do thực tế lúc đó:trình độ
dân trí còn thấp, đại đa số Việt Nam còn chưa biết gì về bảo hiểm cũng như tính
ưu việt của nó,đời sống nhân dân còn khó khăn, ở nhiều nơi nhu cầu vật chất có
khi còn không được đảm, cho nên việc triển khai ở phạm vi rộng là rất khó khăn
thực hiện. Mặt khác nếu công ty tiến hành bảo hiểm 24/24 giờ tại thời điểm đó thì
sẽ không kiểm soát được rủi ro của nghiệp vụ và do đó không đảm bảo kinh doanh
- 9 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ

có lãi. Tuy nhiên, trong một số năm,triển khai nghiệp vụ,mặc dù có sự hưởng ứng
của người tham gia bảo hiểm,song nảy sinh nhiều vấn đề, đó là:
Tai nạn rủi ro đối với người lao động có thể xảy ra bất kỳ lúc nào nhưng
phạm vi bảo hiểm chỉ là 8/24. Nếu người lao động gặp tai nạn ngoài giờ hành
chính, hoặc trên đường đi làm từ công sở về nhà thì họ gặp rất nhiều khó khăn,
cuộc sống không đảm bảo do thu nhập thấp, từ đó xuất hiện nhu cầu bảo hiểm
ngoài giờ làm việc.
Hơn nữa, khi thời gian bảo hiểm là 8/24 giờ trong ngày thì hiện tượng lập hồ
sơ giả mạo khi tai nạn xảy ra không trong giờ làm việc gây khó khăn cho lớn cho
công ty trong việc kiểm soát và bồi thường.
Vì vậy, nhu cầu bảo hiểm với thời gian 24/24h là một thực tế đối với cả
người được bảo hiểm và người bảo hiểm. Năm 1991,Bảo Việt đã mở rộng phạm vi
từ 8/24 sang 24/24 h bao gồm những tai nạn gây thiệt hại đến thân thể người bảo
hiểm .Đây là một bước tiến nhằm thích nghi với tình hình thực tế và đảm bảo cho
người tham gia bảo hiểm yên tâm hơn trong sinh hoạt cũng như trong lao động sản
xuất.
Cùng với đó, Bảo Việt đã nghiên cứu và triển khai thêm một số loại hình:bảo
hiểm tai nạn hành khách ,bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách du lịch ...Các loại
hình bảo hiểm đang dần khẳng định được chỗ đứng của nó trên thị trường.Nhưng
phạm vi trách nhiệm của các loại hình bảo hiểm trên còn hạn hẹp,chỉ bao gồm sự
thiệt hại thân thể của người được bảo hiểm do hậu quả tai nạn. Trong cuộc sống
con người ,ốm đau bệnh tật là điều không thể tránh khỏi. Điều cần thiết đặt ra cho
bảo hiểm con người là mở rộng phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm cũng như đối
tượng bảo hiểm ,làm cho bảo hiểm thực sự trở thành nhân tố góp phần ổn định đời
sống nhân dân.
ở Việt Nam, nhu cầu bảo hiểm sinh mạng đã có từ lâu, đó là việc hình thành
các quỹ bảo thọ. Hình thức hoạt động các quỹ này khác nhau ở mỗi vùng tuỳ
thuộc vào điều kiện của từng địa phương, từng người tổ chức nhưng nhìn chung
chưa mang lại nhiều ý nghĩa về kinh tế mà chỉ mang nặng yếu tố tinh thần.Đây là
- 10 -

Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
nét truyền thống quý báu của người dân Việt Nam song cũng cần phải thấy được
rằng các quỹ này nhiều khi phụ thuộc vào suy tính chủ quan của người đứng đầu,
cơ chế quản lý không chặt chẽ, không theo một quy tắc nào,nếu không may người
tổ chức không thể tiếp tục quản lý hội được thì hoạt đông của hội sẽ gặp khó khăn.
Nắm bắt được đặc điểm này,để đáp ứng nhu cầu của nhân dân và từng bước
hoàn thiện lĩnh vực bảo hiểm con người ,ngày 17/02/1990, Bộ tài chính đã ban
hành quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm
tử vong trong trường hợp tai nạn,ốm đau hay bệnh tật. Ngày 10/08/1992 Bộ tài
chính đã chính thức ban hành quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm
này.Từ đó đến nay nghiệp vụ này đã được sự chấp thuận đông đảo quần chúng
nhân dân và ngày càng phát huy được tác dụng.
Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới các quan hệ kinh tế ngoại giao, văn hoá
xã hội với các nền kinh tế khác với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước” đã mang lại cho Việt Nam về sự thay đổ nhiều mặt, người nước
ngoài đến Việt Nam ngoài nhu cầu, thăm quan các danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử còn nhu cầu đến Việt Nam để kinh doanh, đầu tư sản xuất,du lịch, thương
mại....để thu lợi, họ cũng mang theo thói quen từ nước họ.Việc mua bảo hiểm nằm
viện phẫu thuật đối với người nước ngoài cũng gần như trở thành thói quen, họ rất
sợ phải vào nằm viện và phải bỏ tiền túi. Đây là một yếu tố làm cho bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật nhanh chóng được ra đời. Cũng như nguyên nhân của
nó,loại hình này được áp dụng đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh và đối với
người nước ngoài.Song mức sống của người dân Việt Nam cũng dần được nâng
lên thì các nhu cầu mới lại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng.Khi gặp rủi
ro tai nạn,người ta không chỉ muốn nhận một khoản tiền mà còn cần một sự chăm
sóc y tế khi nằm viện phẫu thuật.Để đáp ứng nhu cầu này,ngày 02/07/1993 Bộ tài
chính đã có quyết định số 466/TC-BH Ban hành quy tắcvà biểu phí trợ cấp nằm
viên phẫu thuật :Bảo hiểm trợ cấp nằm viện, trợ cấp phẫu thuật và trợ cấp mai táng
do ốm đau ,thai sản,tai nạn đối với người được bảo hiểm . Đây là một dich vụ mới
của Bảo Việt, việc khai thác bước đầu đã mang lại kết quả tích cực, thực sự đã góp

- 11 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm và gia đình họ không may
phải nằm viện phẫu thuật trng điều kiện Nhà nước thực hiện thu một phần viện
phí. Các nghiệp vụ trên được tiến hành riêng lẻ và luôn luôn được sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và đáp ứng tốt nhu cầu bảo hiểm đông
đảo của quần chúng nhân dân.
Trong quá trình triển khai thực hiện 3 loại hình bảo hiểm :bảo hiểm sinh
mạng, bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật được tiến
hành riêng biệt đã thể hiện tính ưu việt của nó đó là: tham gia riêng lẻ thì mức phí
thấp;từng nghiệp vụ có những tính chất và quy tắc riêng giúp cho người người
tham gia bảo hiểm lựa chọn các loại hình phù hợp với mình, có những nghề chỉ có
thể hoăc tốt nhất là bảo hiểm loại này mà không hiệu quả nếu lựa chọn các loại
hình khác. Tuy nhiên phần đông thì ngược lại, nếu để 3 loại hình tồn tại riêng lẻ
thì không tránh khỏi một số hạn chế sau:
Thứ nhất về quản lý hồ sơ (khai thác và bồi thường):Mặc dù một khách hàng
tham gia với 3 nghiệp vụ riêng biệt đòi hỏi phải có 3 tài liệu quản lý riêng biệt.
Điều này dẫn đến tăng chí phí kinh doanh, chí phí quản lý(nhất là trong trường
hợp 3 nghiệp vụ trên do 3 cán bộ bảo hiểm chịu hiểm trách nhiệm quản lý riêng).
Mâu thuẫn giữa giảm phí để khuyến khích khách hàng tham gia(tăng tính chất
phục vụ xã hội) nhưng chi phí thì không hề được tiết kiệm(không phù hợp với tính
chất kinh doanh) làm ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của nhà bảo hiểm.Bên cạnh đó, với 3 bộ hồ sơ cồng kềnh,rất dễ nhầm lẫn giữa các
phạm vi, quyền lợi... thường tạo tâm lý không thoải mái cho người tham gia bảo
hiểm.
Đây chính là cơ sở nảy sinh ý tưởng gộp 3 nghiệp vụ trên vào một nghiệp vụ
bảo hiểm kết hợp con người để công tác quản lý hồ sơ đạt hiệu quả cao, nhanh gọn
và tiết kiệm được chi phí kinh doanh, đồng thuyết phục khách hàng tham gia dễ
dàng hơn.
Thứ hai về nghiệp vụ: khác với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm

bảo hiểm con người có đăc trưng riêng là một đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời
- 12 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng.Với một hoặc nhiều người bảo hiểm khác
nhau với số tiền bảo hiểm bất kỳ(trong giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm )
bất kể hợp đồng đó trùng lặp về phạm vi, quyền lợi bảo hiểm ... Khi xảy ra sự cố
bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm của nhiều hợp đồng thì viêc trả tiền bảo hiểm
ở các hợp đồng đó hoàn toàn độc lập với nhau- độc lập trong việc thực hiện nghĩa
vụ trả tiền vàđộc lập trong cách thức trả tiền bảo hiểm.
Ba nghiệp vụ:Bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật cũng vậy, khách hàng hoàn toàn có quyền tham gia cả 3
nghiệp vụ trên,tuy nhiên giữa chúng có sự trùng lặp nhau không cần thiết về phạm
vi cũng như quyền lợi bảo hiểm ,dễ dẫn đến nhầm lẫnvà kích thích tính trục lợi
của người tham gia. Để thấy được sự trùng lặp đó , trước hết cần điểm qua phạm
vi bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm khi tham gia cả 3 nghiệp vụ
trên:
*Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
-Phạm vi bảo hiểm :Thiệt mạng do mọi nguyên nhân kể cả tuổ già,bệnh
tật(ngoại trừ trường hợp có bệnh trước khi mua bảo hiểm ),tai nạn trên toàn lãnh
thổ Việt Nam.
-Quyền lợi của người đươc bảo hiểm : Những rủi ro thuộc phạm vi bảo
hiểm trả 100% số tiền bảo hiểm.
*Bảo hiểm tai nạn 24/24
-Phạm vi bảo hiểm :Tai nạn bất ngờ làm người được bảo hiểm bị thương
hay thiệt mạng trong bất cứ thời gian nào thuộc thời hạn bảo hiểm .
-Quyền lợi của người được bảo hiểm :
+Trường hợp thiệt mạng do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, trả 100% số
tiền bảo hiểm .
+Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: Trả tiền bảo hiểm theo tỉ lệ
thương tật.

+Thương tật tạm thời do tai nạn:
- 13 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Nếu tham gia với số tiền bảo hiểm từ 1 đến 20 triệu đồng thì trả tiền theo tỷ
lệ thương tật.
*Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu
-Phạm vi bảo hiểm : Người được bảo hiểm bị ốm đau, bệnh tật,thai sản hoặc
thương tật thân thể do tai nạn phải nằm viện phẫu thuật.
-Quyền lợi của người được bảo hiểm:
+Nếu số tiền bảo hiểm từ 1 đến 10 triệu đồng /người /vụ thì trợ cấp 60 ngày
nằm viện trong 1 năm bảo hiểm theo quyết định446/TCBH ngày 02/07/93 phần trợ
cấp này được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên 1 ngày 02/07/93 phần trợ cấp này
được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên ngày.Nhưng được phép của Bộ Tài Chính
ngày 23/11/97, Bảo Việt đã có quyết định sokó 2963/PHH2-97 ban hành quy tắc
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật với sự thay đổi về cách tính trợ cấp này như
sau:
10 ngày đầu :trả 0.3% số tiền bảo hiểm / ngày
20 ngày tiếp theo :trả 0,2% số tiền bảo hiểm / ngày
30 ngày tiếp theo : trả 0,15% số tiền bảo hiểm / ngày
Trường hợp phẫu thuật thuộc phạm vi bảo hiểm :trả tiền bảo hiểm theo bảng
tỷ lệ trả tiền phẫu thuật.
Trợ cấp mai táng phí 500.000 đồng / người trong trường hợp chết khi đang
nằm viện, trong hoặc sau khi phẫu thuật do căn bệnh đã được phẫu thuật.
+Nếu số tiền bảo hiểm từ trên 10 triệu đến 100 triệu đồng/người/vụ
Nằm viên: Trả toàn bộ chi phí y tế thực tế hợp lý liên quan đến việc điều trị,
song tối đa mỗi ngày nằm viện không quá 0,3% số tiền bảo hiểm và không quá 60
ngày/năm bảo hiểm .
Phuật thuật: trả toàn bộ chí phí y tế thực tế hợp lý liên quan đến việc điều
trị,song tối đa không quá định mức trong bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật .
Trợ cấp mai táng phí 1.000.000 đồng/người trong trường hợp chết trong khi

đang nằm viện, trong hoặc sau khi phẫu thuật do căn bệnh đã được phẫu thuật.
- 14 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Như vậy có thể thấy ngay nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm
trợ cấp nằm viện phẫu thuật đều bảo hiểm cho rủi ro thương tật thân thể do tai
nạn(phải nằm viện hoặc phẫu thuật) và với cùng với một thương do rủi ro đó.
Để chứng minh cho những điều,ta xét ví dụ sau đây :
Ví dụ1: Ông Nguyễn Văn A tham gia đồng thời cả 3 nghiệp vụ: Bảo hiểm
sinh mạng,bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật với số
tiền bảo hiểm lần lượt là :
10.000.000 đồng, 15.000.000 đồng và 10.000.000 đồng trong thời hạn từ
01/ 01/1998 đến 01/01/1999.Ngày 26/07/1998, ông A bị tai nạn giao thông gây
phù não phải điều trị nội trú30 ngày .
Số tiền bồi thường cho ông A được tính như sau:
-Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24 :
15.000.000 x40% = 6.000.000 đ
( Tỷ lệ thương tật trong trường hợp này xác định là 40%)
-Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24:
15.000.000 x40% =6.000.000đ
-Theo điều kiện bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật :
(10 ngày x 0,3% x10.000.000đ/ ngày ) +( 20 ngày x0.2% 10.000.000đ/
ngày) =300.000+400.000=700.000đ
Tổng số tiền ông A nhận được là :
6.000.000 +700.000 =6.700.000đ
Như vậy số tiền là quá cao so vết thương ông A gặp phải và khi đó nó
không mang tính chất khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro thuộc phạm vi bảo
hiểm gây ra nữa mà nó mang tính chất làm giàu từ hoạt động bảo hiểm nhiều hơn.
Ngoài ra, sự trùng lặp trong quyền lợi của người được bảo hiểm bị thiệt
mạng do tai nạn. Giả sử trong ví dụ trên, sau 30 ngày nằm viện ông A chết thì khi
đó ngoài số tiền bảo hiểm 6.700.000 đồng trên, người thừa kế hợp pháp của ông sẽ

được nhận thêm số tiền bồi thường như sau :
Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24 :
- 15 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
15.000.000 –6.000.000 = 9.000.000đ
Trợ cấp mai táng phí theo điều kiện bảo hiểm sinh mạng cá nhân :
10.000.000đ
Tức là người thừa kế hợp pháp của ông A còn nhận được thêm :
9.000.000đ +500.000đ +10.000.000đ =19.500.000đ
Với số tiền bảo hiểm lớn như vậy :
(6.700.000đ +19.500.000đ =26.200.000đ) dễ dẫn đến hành động trục lợi của
người được bảo hiểm cũng như người thừa kế bất hợp pháp của họ.Tính nhân đạo
của hợp đồng bảo hiểm lúc này sẽ bị lu mờ,thậm chí trước món lợi đó,con người ta
dễ đánh mất tính nhân đạo của chính mình như cố tình không cứu chữa kịp thời
cho người được bảo hiểm.Chính vì những tồn tại nói trên mà nghiệp vụ bảo hiểm
kết hợp con người ( kết hợp BHSMCN,BHTN24/24 và BHTCNVPT ) với những
quy định cụ thể, không trùng lặp về phạm vi quyền lợi của người được bảo hiểm
đã trở thành một tất yếu khách quan.
Qua 5 năm thực hiện, nhìn chung điều khoản bảo hiểm kết hợp con người
đã đáp ứng được nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Hàng năm số người tham
gia bảo hiểm cũng như số phí của nghiệp vụ này đều tăng lên đáng kể và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng doanh thu phí bảo hiểm các nghiêp vụ bảo hiểm con người .
Song cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường,thị trường bảo hiểm cũng
biến động không ngừng:nhiều công ty bảo hiểm ra đời, các văn phòng đại diện tại
Việt Nam tạo ra một sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường bảo hiểm .Do đó việc
đổi mới và hoàn thiện sản phẩm của mình để phục vụ và lôi kéo khách hàng là một
điều tất yếu đắt ra cho Bảo Việt.Bên cạnh đó,điều khoản bảo hiểm kết hợp con
người có nội dung, chưa phù hợp,chưa tính toán dủ các chi phí cần thiết và các
khía cạnh của vấn đề, có những rằng buộc gây khó khăn cho việc triển khai ... mặc
dù trong quá trình triển khai ,Tổng công ty đã thường xuyên bổ sung và hoàn thiện

điều khoản đó nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng và triền khai nghiệp vụ
được thuận lợi.
- 16 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Để khắc phục những hạn chế đó và tào sức mạnh trong cạnh tranh,ngày
23/12/1997 Tổng công ty đã có quyết định số 2962/PHH2-1997 ban hành điều
khoản kết hợp về bảo hiểm con người ( KHCN-BV98) thay thế cho điều khoản
ban kèm theo quyết định số 1085 /PHH-94. Điều khoản này được xây dựng trên 3
điều kiện bảo hiểm :sinh mạng(A), tai nạn 24/24(B), và trợ cấp nằm viền phẫu
thuật(C), hoàn toàn độc lập về phạm vi cũng như quyền lợi bảo hiểm .
-Điều kiện A (sinh mạng):Bảo hiểm trường hợp chết do ốm đau bệnh tật.
-Điều kiện B(tai nạn):Bảo hiểm trong trường hợp chết hoặc thương tật thân
thân thể do tai nạn.
-Điều kiện C(trợ cấp nằm viện phẫu thuật):Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu
thuật do ốm đau, bệnh tật.
Do vậy,tuỳ theo khách hàng có thể áp dụng một hoặc nhiều điều khoản kết
hợp tương ứng với tỷ lệ phí cho từng điều kiện. Tuy nhiên,về độ tuổi người được
bảo hiểm chỉ hạn chế từ 16-60 tuổi, đối với nhóm tuổi dưới 16 nếu có nhu cầu có
thể áp dụng theo loại hình bảo hiểm học sinh và đối tượng trên 60 tuổi (chủ yếu là
hưu trí,mất sức) sẽ nhận bảo hiểm theo những điều kiện bảo hiểm riêng. Đối với
những hợp đồng có số lượng lớn người tham gia thì không cần thiết phải kê khai
giấy yêu cầu bảo hiểm .Đây là một bước quan trọng của nghiệp vụ và nó đang
phát huy tác dụng trên thị trường bảo hiểm hiện nay.
3.ý nghĩa và tác dụng của bảo hiểm kết hợp con người
Đến nay, tất cả những gì mà ngành bảo hiểm đã làm được cho xã hội là rất
to lớn và không thể phủ nhận được. Bảo hiểm ra đời là một yếu tố khách quan của
cuộc sống. Xuất phát từ khái niệm chung về bảo hiểm :
“Bảo hiểm là hợp đồng trong đó một bên cam kết bồi thường theo luật
thống kê cho người được bảo hiểm trong trường hợp rủi ro xảy ra trong phạm vi
ghi trong hợp đồng bảo hiểm với điều kiện bên kia phải nộp một khoản chi phí cho

chính anh ta hoặc người thứ ba”.
Như vậy bảo hiểm thực chất là một phạm trù tài chính,là tổng thể các mối
quan hệ kinh tế xã hội của người tham gia vầ người bảo hiểm nhằm mục đích ổn
- 17 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
định cuộc sống cho người tham gia khi họ gặp những rủi ro bất ngờ gây thiệt hại
và đáp ứng một số nhu cầu khác của họ trong cuộc sống.
Hơn nữa, ở nước ta bảo hiểm cũng không còn là một phạm trù mới mẻ nữa
đi vào cuộc sống xã hội và nó trở nên thân thiết với mọi người.
Bảo hiểm kết hợp con người cũng vậy, ngay từ khi ra đời bảo hiểm kết hợp
con người xuất phát từ thực tế triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm con người riêng
lẻ nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu con người về bảo hiểm nên đã khẳng đinh
được ngay vị thế trên thị trường . Bảo hiểm kết hợp con người ngày càng trở nên
thân thiết đối với người dân Việt Nam , đó cũng chính là phạm vi bảo hiểm được
bao trùm rộng rãi hơn các nghiệp vụ bảo hiểm riêng lẻ, nó không tạo ra cảm giác
hẫng hụt cho người tham gia khi không may khi họ gặp tai nạn. Nếu thuộc phạm
vi bảo hiểm của các loại hình này thì chắc chắn họ sẽ được một khoản tiền tương
ứng với số thiệt hại của họ đã thoả thuận trên hợp đồng.
Từ sự chặt chẽ của hợp đồng bảo hiểm , con người ta có thói quen chính xác
trong hành động, hoạt động cũng như trong lời nói của mình trong đời sống hằng
ngày,trong kinh doanh ,giao dịch và ký kết. Đồng thời nếu người tham gia bảo
hiểm không may gặp rủi ro gây tổn thất sẽ nhận khoản tiền bù đắp thoả đáng, khắc
phục những khó khăn về tài chính, về sức khoẻ cho người tham gia bảo hiểm.
Giúp họ có thể nhanh chóng gượng dậy sau những rủi ro khủng khiếp, giúp họ
thoát khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Không những đảm bảo ổn định đời
sống của người tham gia tại thời điểm hiện tại mà còn tạo điều kiện giúp đỡ gia
đình họ vượt qua khó khăn,con cái vẫn được tiếp tục đi học. Điều này mang ý
nghĩa xã hội và nhân văn cao cả.
Từ công tác giám đình bồi thường sau mỗi rủi ro thiệt hại, công ty bảo hiểm
sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó có biện pháp đề

phòng và hạn chế tổn thất một cách có hiệu quả, giảm bớt những rủi ro bất trắc
gây thiệt hại cho toàn xã hội. Đây là một hoạt động thể hiện phương châm: “phòng
bệnh hơn chữa bệnh” của bảo hiểm kết hợp con người nói riêng và bảo hiểm nói
chung. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được tiến hành do công ty bảo hiểm kết
- 18 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
hợp với các ngành có liên quan như giao thông vận tải,công an,bệnh viện.... đã
góp phần làm cho đời sống xã hội bình an hơn ,tươi đẹp hơn.
Bên cạnh đó, nghiệp vụ này góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước góp
phần đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân. Đây là một tác dụng rất đáng kể của
nghiệp bảo hiểm con người nói riêng và toàn ngành bảo hiểm nói chung.Xuất phát
từ nguồn quỹ thu được của người tham gia, hằng năm công ty bảo hiểm đóng góp
vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế,nguồn vốn nhàn rỗi sẽ đem đầu
tư phát triển kinh tế,tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Như được biết, chắc chắn sẽ không tạo ra một xã hội phát triển, công bằng
văn minh nếu như bản thân các thành viên trong xã hội không ý thức được mình
nên hay không nên làm gì, cái được và cái mất của các quyết định đó ra sao, điều
phụ thuộc phần lớn vào trình độ nhận thức và trình độ học vấn của họ . Hơn nữa
trong cuộc sống hiện đại, con người luôn hối hả để theo kịp guồng quay chung xã
hội, ai lơ là sẽ bị loại ra, bắt buộc con người phải dồn hết tâm trí sao cho công việc
mình đạt kết quả cao nhất, sẽ khó có thể đạt được điều này nếu họ không an tâm
về tính mạng của họ và những hậu quả không tốt sẽ xảy ra đối với gia đình họ.
Điều này đã có các công ty bảo hiểm giúp họ, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm kết
hợp con người . Như vậy không những về trước mắt là ổn định cuộc sống của
người tham gia mà về lâu dài đây cũng là một động lực gián tiếp thúc đẩy được
tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính
sách xã hội ở tầm vĩ mô ( phạm vi quốc gia) và vi mô ( phạm vi đơn vị kinh tế)
cần quan tâm xem xét.
II.Nội dung của nghiêp vụ bảo hiểm kết hợp con người
1.Đối tượng bảo hiểm

Bảo hiểm kết hợp con người có đối tượng là tính mạng và tình trạng sức
khoẻ con người .Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này có đặc điểm nổi bật là
không xác định được “ giá trị” vì tình trạng sức khoẻ con người là vô giá. Do đó,
trong nghiệp vụ kết hợp con người không tồn tại thuật ngữ “ giá trị bảo hiểm”
- 19 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Xuất phát từ đặc đIểm trên của đối tượng bảo hiểm nên bảo hiểm con người
nói chung và bảo hiểm kết hợp con người nói riêng phần lớn sử dụng nguyên tắc “
khoán” làm nguyên tắc trả tiền cơ bản. Lý do vì trong bảo hiểm con người rất khó
xác định giá trị thiệt hại. Đối với đối tượng của các nghiệp vụ bảo hiểm phi con
người như bảo hiểm tài sản,bảo hiểm hàng hoá... việc mất cắp một lô hàng, cháy
một ngôi nhà hay vỡ kính ô tô ... đều có thể tính ngay giá trị thiệt hại vật chất của
chúng.Nhưng đối với con người, việc gãy một cánh tay hay phải cắt một phần nào
đó của bộ phận cơ thể thì lại hoàn toàn không thể xác định mức bồi thường là bao
nhiêu, càng không thể xác định được mức bồi thường bao nhiêu cho thoả đáng.
Chính vì vậy việc trả tiền của công ty bảo hiểm là không nhằm bồi thường cho
thiệt hại mà đơn thuần chỉ là thực hiện cam kết giữa hai bên theo hợp đồng.
Trường hợp người bảo hiểm bị tử vong,công ty sẽ chi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm
ấn định trước trong hợp đồng cho thân nhân người hợp pháp của người được bảo
hiểm. Số tiền chi trả trong trường hợp này không gọi là cái giá của sự tử vong mà
chỉ là số tiền mà người được bảo hiểm “ đã khoán” cho công ty bảo hiểm trước đó.
Tuy nhiên,trong trường hợp bảo hiểm cho các chi phí y tế đối với rủi ro
bệnh tật thì có thể áp dụng nguyên tắc “ bồi thường”. Lúc này việc chi trả của
công ty bảo hiểm nhằm bồi thường cho cái giá của sự chăm sóc thuộc phạm vi
được hưởng bảo hiểm của người bị nạn. Số tiền bồi thường sẽ được dựa trên
những chi phí thực tế mà người được bảo hiểm bỏ tiền để khắc phục những hậu
quả của rủi ro và tỷ lệ thương tật của người được bảo hiểm .
Xuất từ mục tiêu phục vụ tối đa mọi thành viên trong xã hội và nguyên tắc
“số đông” và theo điều khoản kết hợp về bảo hiểm con người ban hành theo quyết
định số 1085/PHH94 nhóm khách hàng mục tiêu của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp

con người bao gồm mọi công dân Việt Nam từ 12 tháng tuổi đến 65 tuổi.
Qua những năm triển khai cho thấy, nhóm khách hàng là học sinh dưới 16
tuổi có số lượng rất nhỏ do chủ yếu tham gia bảo hiểm học sinh. Còn nhóm khách
hàng từ 60 tuổi trở lên có xác xuất rủi ro cao thường bảo hiểm theo những điều
kiện riêng. Do đó ngày 23/12/1997, Bảo Việt có quyết định số 2962/PHH1297 ban
- 20 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
hành điều khoản kết hợp về bảo hiểm kết hợp con người (KHCN-BH98) quy đinh
đối tượng của nghiệp vụ này là những người trong độ tuổi từ 16 đến 60 tuổi nhằm
giới hạn chỉ nhận bảo hiểm cho những người trong độ tuổi lao động.Nếu các công
ty có các nhu cầu bảo hiểm cho đối tượng trên 60 tuổi phải có phương án triển
khai cụ thể đăng ký tại Tổng công ty sau khi có ý kiến của Bảo Việt mới được
triển khai.
Hoạt động bảo hiểm được từ nhu cầu giảm các hậu quả của rủi ro gắn liền
với các tổn thất về tài chính.Khái niệm “rủi ro” được hiểu các sự việc ngoài ý
muốn mà gây nên mất mát thiệt hại đối với con người . Chính vì vậy,đối với người
thiệt hại mà rủi ro trở thành hiện thực quá lớn,con người không thể tránh khỏi thì
sẽ không được coi là “rủi ro” được bảo hiểm . Do đó,theo nguyên tắc sàng
lọc,người bảo hiểm không bảo hiểm cho các đối tượng sau:
-Người bị bệnh thần kinh, tâm thần, phong,ung thư.
-Người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên.
-Người đang trong thời gian điều trị bệnh tật,thương tật.
2.Phạm vi bảo hiểm
a) Thuộc phạm vi bảo hiểm
Ta biết rằng trong cuộc sống có 2 loại rủi ro cơ bản, đó là rủi ro đầu cơ và
rủi ro thuần tuý. Rủi ro đầu cơ là những rủi ro có thể “được” hoặc “mất”, ví dụ rủi
ro của hoạt động đầu tư trên thị trường tài chứng khoán, rủi ro của hoạt động cá
cược trong các cuộc đua... Còn rủi ro thuần tuý là rủi ro chỉ có “ mất” mà không có
“được”,ví dụ rủi ro thương tật, rủi ro thiệt mạng trong tai nạn... nguyên tắccơ bản
của hoạt động bảo hiểm là những rủi ro thuần tuý mới được bảo hiểm còn những

rủi ro mang tính chất đầu cơ thì không được bảo hiểm.
Vì vậy, những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết
hợp con người gồm có:
-Chết do mọi nguyên nhân(điều kiện bảo hiểm A).
-Chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn( điều kiện bảo hiểm B).
- 21 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
-Nằm viện hoặc phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật, thai sản(điều kiện bảo hiểm
C).
Thực chất các điều kiện bảo hiểm A, B, C là sự tổng hợp một cách thống
nhất ba phạm vi bảo hiểm của đơn vị bảo hiểm: bảo hiểm sinh mạng cá nhân,bảo
hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật. Cả ba điều kiện bảo
hiểm A, B, C đều loại trừ những điểm được quy định tại mục (b) dưới đây.
b)Không thuộc vi bảo hiểm
Rủi ro là một trong những yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Như trên
đã đề cập, rủi ro là sự cố mà khả năng xảy ra của nó là không chắc chắn và nó
thường để lại những hậu quả xấu như tổn thất, mất mát cho đối tượng bảo hiểm.
Có nhiều rủi ro phát sinh, tuy nhiên các nhà bảo hiểm không thể chấp bảo
hiểm cho tất cả rủi ro
Chính vì vậy mà cả 3 điều kiện bảo hiểm A, B, C của các điều khoản bảo
hiểm kết hợp con người . Bảo Việt đều không chịu trách nhiệm đối những rủi ro
xảy ra đối người được bảo hiểm do những nguyên nhân sau:
-Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp( ví
dụ như cố ý bị thương để đòi tiền bồi thường ...)
-Người được bảo hiểm vi phạm nghiêm trọng pháp luật ,nội quy, quy đinh
của chính quyền địa phương hoặc các tổ chức xã hội, vi phạm nghiêm trọng luật lệ
an toàn giao thông ( tai nạn khi săn bắn trái phép, đi vào đường một chiều, vượt
đèn đỏ...)
-Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng bởi rượu bia,ma tuý hoặc các chất
kích thích tương tự khác ( như uống nhiều rượu quá không làm chủ tốc độ gây tai

nạn).
-Người được bảo hiểm bị tham gia các hoạt động hàng không( trừ khi với tư
cách là khách hàng), tham gia các cuôc diễn tập, huấn luyện quân sự, tham gia
chiến đấu của các lực lược vũ trang( vì đây là các hoạt động mang tính chất
chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp, có xác xuất rủi ro cao, chỉ có thể tham gia
bảo hiểm theo những điều kiện riêng biệt...).
- 22 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
-Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ, chiến tranh, nội chiến,đình công...
Ngoài những điểm loại trừ chung trên, đối với điều kiện bảo hiểm C Bảo
Việt không chịu trách nhiệm trong những trường hợp sau:
-Người được bảo hiểm nằm viện điều trị những bếnh suy nhược thần kinh
suy nhược cơ thể, thoái hoá cột sống... hoặc điều trị tại các viện điều dưỡng, an
dưỡng.
-Nằm vện để kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định y khoa mà không liên quan
đến việc điều trị bệnh tật.
-Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sịnh, những chỉ định phẫu thuật có
từ trước ngày tham gia bảo hiểm.
-Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm giả các bộ phận cơ
thể
-Thực hiện các biện pháp kế hoặc hoá sinh đẻ.
-Những bệnh đặc biệt và bệnh có sẵn trong năm đầu tiên được bảo hiểm
-Người được bảo hiểm mắc các bệnh giăng mai, lậu, HIV,AIDS, sốt rét, lao
và bệnh nghề nghiệp.
Những điểm loại trừ đối với điều kiện bảo hiểm C không được coi là các rủi
ro bất ngờ vì chúng đều bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan của người được bảo
hiểm , từ hành động có chủ đích của người được bảo hiểm hoặc chúng là những sự
cố mà người tham gia đã biết trước khi mua bảo hiểm .
3.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
a. Số tiền bảo hiểm ( STBH).

Trong nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người, việc xác định STBH phải căn
cứ theo sự thoả thuận giữa hai bên và phần nhiều phụ thuộc vào khả năng tài chính
của người tham gia bảo hiểm. STBH đó không chịu tác động bởi tuổi tác, năng
lực, trình độ sức khoẻ.... của người được bảo hiểm cũng như không phụ thuộc vào
chi phí thiệt hại có thể xảy ra trong sự cố bảo hiểm, bởi vì không thể xác định
được chi phí đó tại thời điểm ký kết hợp đồng.
- 23 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
Số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm đối với
người được bảo hiểm trong những điều kiện nhất định đã được thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm.Theo điều khoản kết hợp về bảo hiểm kết hợp con người ban hành
theo Quyết định số 2962/PHH-97, khách hàng có thể đăng ký tham gia với STBH
như sau:
- Điều kiện bảo hiểm A:
Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ.
- Điều kiện bảo hiểm B:
Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 20.000.000đ/người/vụ.
- Điều kiện bảo hiểm C:
Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ.
Theo điều 2 điểm 3 của điều khoản này,trường hợp người được bảo hiểm nhiều
giấy chứng nhận hoặc hợp đồng bảo hiểm khác nhau theo điều khoản bảo hiểm
này với tổng số tiền bảo hiểm cho điều kiện đó thì Bảo Việt chỉ chịu trách nhiệm
thanh toán theo STBH tối đa quy định cho từng điều kiện bảo hiểm .
Ví dụ 2: Khi xét trả tiền bảo hiểm, phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng phát hiện
ông Trần văn A tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt theo điều khoản kết hợp về con
người đồng thời hai giấy chứng nhận bảo hiểm với số tiền bảo hiểm như sau:
Giấy chứng nhận bảo hiểm 1 Giấy chứng nhận bảo hiểm 2
-ĐK A: 4.000.000đ 2.000.000đ
-ĐK B: 12.000.000đ 10.000.000đ
-ĐK C: 1.000.000đ 80.000.000đ

Trong trường hợp này, số tiền bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm B theo hai
giấy chứng nhận trên là 22.000.000đ vượt quá mức tối đa (20.000.000đ) là
2.000.000đ, như vậy theo quyết định Bảo Việt chỉ chịu trách nhiệm bồi thường
trên cơ sở số tiền bảo hiểm tối đa theo các điều kiện là:
-Điều kiện A : 6.000.000đ
-Điều kiện B : 20.000.000đ
-Điều kiện C : 1.800.000đ
- 24 -
Chuyên th c t p đề ự ậ nguy n tr ng tr ngễ ọ ườ
b).Phí bảo hiểm
*Khái niệm: Một cách đơn giản có thể hiểu phí bảo hiểm là giá cả của sản
phẩm bảo hiểm. Đây là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải nộp theo hợp
đồng để nhận được sự bảo đảm trước các rủi ro mà người bảo hiểm đã chấp nhận.
*Kết cấu phí:
Phí bảo hiểm gồm hai phần chính là phí thuần và phụ phí.
-Phí thuần là phần phí thu cho phép người bảo hiểm chi trả tiền bồi thường khi
có sự bảo hiểm xảy ra cho người được bảo hiểm .
-Phí thuần được xác định bởi hai yếu tố chính:Tần suất xuất hiện tổn thất và
chi phí trung bình về bồi thường của người bảo hiểm / một tổn thất.Những yếu tố
trên chỉ đúng đắn khi chúng là kết quả thu được từ việc thống kê một số lường lớn
các rủi ro cùng loại. Đây chính là sự kết hợp khéo léo giữa nguyên tắc số đông và
nguyên tắc sàng lọc trong hoạt động bảo hiểm .
-Phụ phí là khoản phí thu cho phép người bảo hiểm bảo đảm các phí cần thiết
trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm .Đó là các chi phí như:
+Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất
+Chi lương
+Chi thuế
+Chi tuyên truyền quảng cáo
+Chi khấu hao tài sản cố định
+Chi lập quỹ dự trữ

*Một nhóm khách hàng khác nhau, ở độ tuổi khác nhau, tham gia những điều
kiện bảo hiểm khác nhau thì có xác suất rủi ro khác nhau, do đó mức phí đóng góp
cũng khác nhau.Trong bảo hiểm kết hợp con người ,biểu phí được quy định theo
từng điều kiện bảo hiểm, từng nhóm tuổi cụ thể và được tính theo tỷ lệ phần trăm
của số tiền bảo hiểm .Đối với hợp đồng tập thể, nhóm tuổi làm cơ sở tính phí được
lấy theo tuổi bình quân của các thành viên trong tập thể đó.

- 25 -

×