Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Hợp đồng kinh tế trong điều kiện cơ chế quản lí kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.13 KB, 31 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Bất kỳ một hình thái kinh tế nào, việc phát triển nền kinh tế là một trong
những vấn đề cốt lõi thúc đẩy xã hội đó đi lên cũng nh đảm bảo cho chế độ đó tồn
tại là phát triển do vậy mục tiêu phát triển nền kinh tế là rất quan trọng (6/1986).
Trong văn kiện Đại hội Đảng VI (6/1986) đã đề ra: "Giai đoạn này là giai
đoạn phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng,
có sự điều tiết của Nhà nớc theo định hớng XHCN" và hàng loạt các văn bản pháp
luật đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đã đợc Nhà nớc ta ban hành, trong đó có
pháp luật HĐKT đợc Hội đồng Nhà nớc ban hành (nay là UBTVQH) thông qua
ngày 25/9/1989. Có hiệu lực từ ngày 19/9/1989. Có thể nói với t cách là kiến trúc
thợng tầng, pháp lệnh HĐKT năm 1989 đã có những đóng góp tích cực trong công
cuộc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ thiết lập cơ chế kinh tế mới, là sự phát triển chung
của nền kinh tế nớc ta. Cho đến nay chúng ta đã đi qua một chặng đờng phát triển
hơn mời năm và đã có nhiều thay đổi trong nền kinh tế và hệ thống pháp luật. Mặt
khác, các quan hệ kinh tế đang ngày càng trở nên đa dạng hoá và phức tạp khiến
cho nhiều quy định pháp lệnh HĐKT và các văn bản pháp luật hớng dẫn thi hành
trở nên không còn phù hợp. Bên cạnh đó sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật
quan trọng đã xuất hiện nhiều điểm không thống nhất với nhau nh Bộ Luật dân sự
và Luật Thơng mại. Nó làm giảm hiệu quả việc điều chỉnh của pháp luật đối với
các quan hệ xã hội và còn một số vấn đề mâu thuẫn trong HĐKT.
Trong nền kinh tế thị trờng, hệ thống pháp luật nói chung mà trớc hết là hệ
thống pháp luật về kinh tế nói riêng có vai trò tạo ra khuôn khổ pháp lý nhất định
và là hành lang cho các chủ thể kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời
pháp luật là công cụ để quản lý nền kinh tế.
Với công cuộc đổi mới nền kinh tế nh hiện nay cũng nh đổi mới pháp luật về
HĐKT em đã chọn đề tài: "Hợp đồng kinh tế trong điều kiện cơ chế quản lý
kinh tế hiện nay".
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bằng phơng pháp luận CNXHKH, phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật


lịch sử cùng với một số phơng pháp nghiên cứu so sánh phân tích, sẽ cố gắng chỉ
ra những quan điểm bất cập trong pháp luật HĐKT hiện hành và một số kiến nghị
đối với việc sửa đổi pháp luật về HĐKT.
Trên cơ sở đó bản báo cáo này tập trung vào những vấn đề sau:
- Khái quát pháp luật về HĐKT;
- Yêu cầu đổi mới pháp luật về HĐKT;
- Đổi mới pháp luật về HĐKT.
Tuy nhiên đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhng đây là một
đề tài khó, đòi hỏi ngời nghiên cứu phải có trình độ hiểu biết rộng về mọi lĩnh vực
liên quan đến HĐKT. Với trình độ còn hạn hẹp của một sinh viên, chắc chắn bản
báo cáo này sẽ còn nhiều thiết sót,... Vì vậy rất mong các thầy cô giáo và các bạn
sẽ bổ sung thêm ý kiến cùng tôi để hoàn thiện nội dung đề tài này.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch ơng I
Khái quát pháp luật về hợp đồng kinh tế
I. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hợp
đồng kinh tế ở nớc ta
Pháp luật về HĐKT nói riêng hay hợp đồng nói chung không phải đơng
nhiên mà có, mà nó phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài của quan hệ kinh
tế. Ban đầu, hợp đồng biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những ngời giữ hàng hoá
tồn tại một cách khách quan, sau đó mối quan hệ kinh tế đó trở thành một quan hệ
pháp luật khi đợc pháp luật tác động vào. Do đó để tìm hiểu sự ra đời của HĐKT
cần tìm hiểu sự ra đời của hợp đồng nói chung (hay chính là Hợp đồng dân sự).
Hợp đồng không xuất hiện ngay từ khi có con ngời, mà phần lớn qua những
bớc phát triển nhất định thì mới có đủ điều kiện cho sự ra đời của Hợp đồng.
Mác nói: "Tự chúng hàng hoá không thể đi tới thị trờng và trao đổi với
nhau đợc. Vậy chúng ta phải quay sang phía những ngời sử dụng hàng hoá, hàng
hoá là những đồ vật cho nên đứng trớc con ngời chúng không có cách gì để chối
lại đợc. Nếu hàng hoá không muốn đi thì ngời ta có thể dùng tới sức mạnh tức là

nắm lấy nó. Muốn cho những vật đó quan hệ với nhau nhng những hàng hoá
phải đối xử với nhau nh những ngời mà ý chí nằm trong các vật đó nh thế nào để
ngời này phải do ý chí của ngời kia tức là mỗi ngời trong 2 ngời đều phải nhờ
vào một hành động tự nguyện chung đối với cả hai bên mới có thể chiếm hữu
hàng hoá của ngời khác - cách nhợng lại hàng hoá của mình". ý chí của những
ngời giữ hàng hoá ở đây là tự nguyện, từ đó có nguyên tắc tự do khế ớc, nghĩa là
nếu không có tự cho ý chí thì không có hợp đồng.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Là một loại Hợp đồng chuyên biệt, HĐKT có nguồn gốc từ hợp đồng dân sự,
HĐKT chỉ xuất hiện trong chủ nghĩa xã hội khi có những điều kiện nhất định.
Thứ nhất: Có sự trao đổi hàng hoá trên cơ sở sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Thứ hai: Có một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Hai điều kiện này không còn đơn thuần mang tính dân sự và chúng đợc điều
chỉnh bằng một ngành luật mới đó là ngành luật kinh tế.
Hợp đồng kinh tế ra đời sớm nhất ở Liên Xô, sau đó lan ra các nớc XHCN
khác. ở nớc ta HĐKT ra đời cùng với việc bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
1960 - 1965 xây dựng CNXH. Có thể nói với t cách là thợng tầng kiến trúc, pháp
luật về HĐKT của nớc ta đã luôn gắn liền và phản ánh đợc bớc phát triển khác
nhau của nền kinh tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về HĐKT ở nớc ta có
thể đợc chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và thời kỳ đổi mới
kinh tế.
1. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung
Thời kỳ này kéo dài từ năm 1954 đến năm 1989 là thời kỳ đánh dấu các bớc
phát triển của pháp luật về HĐKT đặc biệt là 3 văn bản sau:
- Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo NĐ 735/TTg
(10/4/1957);
- Điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT ban hành kèm theo NĐ04/TTg
(4/1/1960);

- Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo Nghị định 54/CP (10/3/1975).
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ở nớc ta có thể nói: Bản pháp luật đầu tiên đề cập đến HĐKT đó là sắc lệnh
97 - Sắc lệnh ngày 22/05/1950 của Nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban
hành sửa đổi về dân sự xoá bỏ tuyệt đối hoá quyền dân sự t nhân. Điều 12 sắc lệnh
này quy định "Khi lập khế ớc mà có sự tổn thất do bóc lột của một bên vì điều
kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ớc có thể coi là vô luận". Bằng quy
định này của Sắc lệnh, Nhà nớc ta đã thừa nhận việc ký kết hợp đồng nói chung,
trong đó có các Hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế nói riêng, giữa t nhân với nhau
càng cần phải có sự can thiệp của Nhà nớc.
Vào cuối năm 1950 nền kinh tế nớc ta là một nền kinh tế nhiều thành phần.
Kinh tế quốc doanh tuy giữ vai trò chủ đạo nhng cha lớn mạnh kinh tế tập thể còn
yếu. Kinh tế t bản còn ở trình độ thấp, kinh tế công - nông nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp còn rất rộng lớn. Kinh tế t bản và t doanh vẫn còn tồn tại để điều chỉnh các
mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau. Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về HĐKT kinh doanh số 735 TTg
10/4/1957. Theo điều lệ này, HĐKT đợc ký kết nhằm mục đích phát triển kinh
doanh công thông nghiệp góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nớc trên nguyên tắc tự
nguyện hai bên cùng có lợi và có lợi cho kinh tế phát triển quốc dân. Nh vậy, mặc
dù tự do cá nhân trong giao kết hợp đồng đợc tôn trọng song nhng vẫn luôn đề cao
vai trò quản lý của mình, điều này đợc thể hiện rõ trong quy định về đăng ký hợp
đồng "Hợp đồng kinh doanh nếu ký kết giữa 2 đơn vị kinh tế Nhà nớc với nhau
thì hợp đồng phải đợc đăng ký tại cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền" cơ quan
công thơng tỉnh hoặc cơ quan hành chính huyện.
Có thể nói điều lệ tạm thời về HĐKD là văn bản đợc đặt nền móng cho sự ra
đời của chế độ HĐKT. Trong chừng mực nhất định việc ban hành văn bản này đã
góp phần huy động khả năng của mọi thành phần kinh tế vào công cuộc phát triển
kinh tế đất nớc theo hớng thống nhất cũ tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bớc xây
dựng quan hệ sản xuất mới.

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đến Hiến pháp năm 1959 đã xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nớc ta. Đại hội lần thứ 3 của Đảng cũng thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất 1960 - 1965 để xây dựng công nghiệp hoá. Bắt đầu công cuộc cải tạo các
thành phần kinh tế TBTN đã cơ bản hoàn thành kinh tế cá thể trong Nhà nớc đã
chuyển hoá dần thành kinh tế tập thể thông qua phong trào hệ thống hoá Nhà nớc,
nền kinh tế chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể.
Các tiền đề cho sự ra đời của HĐKT đã có, hơn nữa Điều lệ tạm thời về
HĐKD với nguyên tắc ký kết hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện đó không
còn phù hợp nữa. Trong bối cảnh đó Thủ tớng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm
thời về chế độ HĐKT kèm theo Nghị định 04 TTg ngày 4/1/1960.
Theo điều lệ này: HĐKT có 2 đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất: HĐKT đợc xây dựng trên cơ sở kế hoạch Nhà nớc, nhằm thực hiện
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nớc.
Thứ hai: Chủ thể của HĐKT bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức kinh tế
quốc doanh và các cơ quan Nhà nớc, trong đó đại diện các cơ quan Nhà nớc đợc
ký hợp đồng dài hạn mang tính nguyên tắc đại diện tổ chức kinh tế quốc doanh ký
HĐKT ngắn hạn cụ thể. Điều này thể hiện một cơ chế quản lý chủ yếu theo chiến
lệnh chỉ huy trém xuống, báo cáo dới lên, lãi nộp Ngân sách, lỗ xin trên.
Việc xử lý vi phạm hợp đồng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
không đợc đề cập đến.
Lần đầu tiên khái niệm hợp đồng kinh tế đợc sử dụng trong bản điều lệ này
có thể coi là thời điểm ra đời của HĐKT ở nớc ta. Mặc dù có tên gọi điều lệ tạm
thời, nhng bản điều lệ này cũng đã đợc sử dụng trong 15 năm từ 1960 - 1975 trong
suốt thời gian đó chúng ta ở trong điều kiện chiến tranh không tập trung vào việc
xây dựng và hệ thống hoá pháp luật.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo Nghị định 54/CP - 10/3/1975).
ở giai đoạn này HĐKT đã trở thành công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nớc để
quản lý nền kinh tế.
HĐKT theo điều lệ này có 2 đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Việc ký kết Hợp đồng đã bắt buộc, là kỷ luật của Nhà nớc. Tính
bắt buộc này do tính pháp lệnh của kế hoạch Nhà nớc quy định việc thay đổi chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nớc. Vì vậy, các vi phạm HĐKT đều bị xử lý hết sức nghiêm
khắc.
Thứ hai: Về thẩm quyền xử lý tranh chấp HĐKT, bản điều lệ này đã giao cho
hai cơ quan: Đó là cơ quan quản lý cấp trên của các đơn vị kinh tế là cơ quan
trọng tài kinh tế.
Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy HĐKT trong giai đoạn này mang tính kế
hoạch, hành chính, tập trung bao cấp rõ nét.
2. Thời kỳ đổi mới kinh tế
Pháp lệnh về HĐKT do Hội đồng Nhà nớc (nay là UBTVQH) thông qua
ngày 25/9/1989 của Hiệu lực 29/9/1989.
Pháp lệnh về HĐKT ra đời trong bối cảnh đổi mới cơ chế quản lý kinh tế do
Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hớng XHCN.
Pháp lệnh HĐKT điều chỉnh các quan hệ HĐKT đợc thiết lập giữa các đơn vị
kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Theo pháp lệnh này, HĐKT đợc ký kết
nhằm mục đích kinh doanh và đợc xây dựng trên cơ sở sự thống nhất ý trí giữa các
bên. Nh vậy, về nguyên tắc, việc ký kết HĐKT trong thời kỳ này không phải theo
chỉ tiêu pháp lệnh, việc ký kết và thực hiện HĐKT theo chỉ tiêu pháp lệnh tuân
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo những quy định riêng. Các chủ thể của HĐKT cũng đợc mở rộng và các chế
tài ít khắt khe hơn, nội dung của pháp lệnh này sẽ đợc nghiên cứu ở các phần sau.
II. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kinh tế
1. Khái niệm

Hiện nay, trong khoa học pháp lý khái niệm hợp đồng đợc hiểu theo hai
nghĩa chủ quan và khách quan.
a. Theo nghĩa khách quan (hay còn gọi là nghĩa rộng)
HĐKT là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ HĐKT
giữa các đơn vị kinh tế (còn gọi là chế độ pháp lý về HĐKT).
Trong đó quy định các nguyên tắc ký kết HĐKT, điều kiện chủ thể của
HĐKT, thủ tục trình tự ký kết HĐKT, các điều kiện và giải pháp hậu quả của việc
thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ HĐKT, trách nhiệm vi phạm HĐKT.
Nh vậy, theo nghĩa khả quan này thì pháp luật nói chung là chế độ pháp luật
về HĐKT nói riêng luôn luôn phải có những thay đổi theo kịp và phù hợp với sự
phát triển của quan hệ kinh tế hay chính xác hơn cũng phù hợp với sự phát triển
của lực lợng sản xuất,...
b. Theo nghĩa chủ quan (hay gọi là nghĩa hẹp)
Điều 1: Pháp lệnh HĐKT ban hành ngày 25/9/1989 quy định:
"HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký
kết về việc thực hiện công việc sản xuất - trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu
ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh
doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và
thực hiện kế hoạch của mình".
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nh vậy theo nghĩa này thực chất HĐKT là quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
ký kết, đó là mối quan hệ ý chí đợc xác lập một cách tự nguyện, bình đẳng thông
qua các hình thức bằng văn bản trong tài liệu giao dịch giữa các bên nh công văn,
đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận... Đây là một điểm khác với hợp
đồng dân sự. Theo quy định tại điểm 400 BLDS (có hiệu lực từ ngày 01/07/1996)
thì hình thức của hợp đồng dân sự rất rộng, có thể giao kết bằng lời nói, bằng văn
bản, bằng những hành vi cụ thể... Khi pháp luật không quy định đối với các loại
hợp đồng đó phải đợc giao kết bằng một hình thức nhất định.
Vậy tài sản lại có sự khác nhau này? Nh chúng ta đã biết nếu bất kỳ một loại

hợp đồng nào khi đợc ký kết bằng văn bản nó đều có thể là căn cứ vào các bên
thực hiện hợp đồng và là căn cứ để cơ quan nhà nớc có thẩm quyền kiểm tra t cách
pháp nhân khi ký kết hợp đồng của các bên, đồng thời cũng là căn cứ để cơ quan
tài phán giải quyết tranh chấp nếu có. Mặt khác, đối với HĐKT thờng có giá trị
lớn và thậm chí rất lớn, cho nên, để tránh tình trạng các chủ thể lợi dụng việc ký
kết để chiếm đoạt cho bản thân nên chúng ta phải quy định HĐKT đợc ký kết
bằng các văn bản. Hơn nữa, một HĐKT thờng tơng đối dài về mặt thực tế mà nói
nếu không đợc thực hiện bằng các loại hình văn bản thì các chủ thể cũng có thể sẽ
quên mất một trong một số những chi tiết nhỏ hay những điều khoản nếu có trong
Hợp đồng, gây thiệt hại cho các bên gặp khó khăn do việc thực hiện Hợp đồng dẫn
đến những tranh chấp đáng tiếc.
2. Đặc điểm
Khi nghiên cứu các quy định này, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của
HĐKT sau:
Đặc điểm về hình thức: Hợp đồng phải đợc thể hiện dới hình thức văn bản tài
liệu giao dịch.
Đặc điểm về mục đích: Mục đích của hợp đồng phải là mục đích kinh doanh.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặc điểm về chủ thể: Chủ thể của Hợp đồng là pháp nhân và cá nhân có đăng
ký kinh doanh, trong đó ít nhất một bên tham gia quan hệ Hợp đồng phải là pháp
nhân. Ngoài ra, Điều 42 và 43 Pháp lệnh cũng cho phép một số loại chủ thể khác
có thể giao kết HĐKT đó là ngời làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ
gia đình, hộ nông dân, ng dân, cá thể và các tổ chức cá nhân nớc ngoài tại Việt
Nam.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch ơng II
Yêu cầu đổi mới pháp luật về hợp đồng kinh tế
I. Cơ sở lý luận của việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng

kinh tế
Cùng với sự ra đời và phát triển kinh tế các quan hệ xã hội vốn đang trở nên
ngày càng đa dạng và phức tạp, nhiều quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế
đã tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp nữa. Đây là quy luật tất yếu trong quá trình
phát triển của xí nghiệp. Đã đến lúc phải sửa đổi pháp luật về HĐKT cho phù hợp
với giai cấp thực tế, tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế phát triển thuận lợi và
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Pháp luật là một trong những bộ phận cơ bản kiến trúc thợng tầng xã hội nó
luôn luôn phù hợp với cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Nếu pháp luật phù hợp với
các điều kiện kinh tế nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngợc lại.
Tuy nhiên, ngoài việc phải phù hợp với các điều kiện kinh tế - cơ sở hạ tầng,
pháp luật còn phải thống nhất trong nội tại bản thân nó. Nói một cách đơn giản thì
trong một chỉnh thể pháp luật, các văn bản pháp luật phải thống nhất với nhau,
không đợc mâu thuẫn hay chồng chéo với nhau. Có nh vậy pháp luật mới phát huy
đợc hiệu quả của nó mới có thể thi hành trên thực tế, nếu không pháp luật chỉ tồn
tại trên giấy tờ mà không có giá trị thực tiễn nào.
Qua đó chúng ta có thể xem xét những thay đổi cơ bản của các điều kiện
kinh tế, pháp luật, những tiền đề cho sự hình thành pháp luật về HĐKT so với thời
gian pháp luật về HĐKT trong cơ chế mới hình thành (1989 - 1990).
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Điều kiện kinh tế
Từ khi xây dựng nền kinh tế thị trờng đến nay chúng ta đã đi đợc một chặng
đờng hơn mời năm và có rất nhiều thay đổi về nền kinh tế, trong đó có những thay
đổi căn bản và có ảnh hởng trực tiếp đến pháp luật về HĐKT.
Về lực lợng sản xuất đó có những bớc phát triển mạnh mẽ, hàng hoá sản xuất
và ngày càng nhiều, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nớc (GDP) bình quân hàng
năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%, lạm phát giảm từ chỗ 67,1% năm 1991 xuống
còn 12,7% năm 1995.
Từ đó không đủ lơng thực cho tiêu dùng trong nớc đến nay chúng ta đã có thể

xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn gạo mỗi năm đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan)
việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang lại nhiều kết quả to lớn và nhiều công
trình quan trọng đợc xây dựng, tạo điều kiện phát triển cho nền kinh tế.
Về quan hệ sản xuất cũng đã đợc điều chỉnh phù hợp đã có những bớc tiến
dài trong việc thay đổi cơ chế quản lý những tồn tại của cơ chế kinh tế cũ đã đợc
xoá bỏ, đợc biểu hiện rõ sự thay đổi lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế.
Nền kinh tế thị trờng đã đợc hình thành nh thị trờng hàng hoá, thị trờng sức
lao động và một số thị trờng khác cũng đang trong quá trình hình thành nh thị tr-
ờng bất động sản, thị trờng vốn, v.v...
Những chuyển biến này dẫn đến một hệ quả tất yếu là các quan hệ kinh tế
đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, đòi hỏi pháp luật với t cách là kiến
trúc thợng tầng cần phải điều chỉnh cho phù hợp, tránh cản trở sự phát triển của
các quan hệ kinh tế, đồng thời đảm bảo cho các quan hệ kinh tế phát triển lành
mạnh theo định hớng của Nhà nớc.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Điều kiện pháp luật
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, pháp luật nớc ta cũng đã có những b-
ớc tiến lớn, rất nhiều văn bản pháp luật mới đã đợc hình thành trong đó trớc tiên
cần phải kể đến Hiến pháp 1992 đợc Quốc hội thông qua ngày 14/4/1992.
Có hiệu lực từ ngày 17/4/1992, Hiến pháp 1992 đã quy định những vấn đề
hết sức cơ bản và quan trọng đối với công cuộc đổi mới kinh tế đất nớc thể hiện rõ
quan điểm của Đảng và Nhà nớc về kinh tế thị trờng thừa nhận sự tồn tại của nhiều
loại hình chủ thể đại diện cho các thành phần kinh tế khác nhau (kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế t bản, t nhân, kinh tế t bản Nhà nớc (Điều 16) Hiến
pháp. Ngoài ra còn quy định tại các Điều 58, 57, 22 của Hiến pháp 1992).
Văn bản quan trọng thứ 2 phải kể đến BLDS đợc Quốc hội thông qua ngày
28/10/1995 có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Đây là Bộ luật đồ sộ nhất của nớc ta từ
trớc đến nay. Bao gồm 883 điều trong đó có nhiều quy định rõ nét đến Hợp đồng.
Nh khái niệm hợp đồng dân sự các chủ thể của hợp đồng, trình tự ký kết, các biện

pháp bảo đảm nghĩa vụ,... Có thể nói đã là những quy định có giá trị pháp lý cao,
thể hiện một trình độ lập pháp đã phát triển hơn trớc rất nhiều pháp luật về HĐKT
hoàn toàn có thể áp dụng hay tham khảo những quy định này để xây dựng các quy
định của mình.
Luật thơng mại đợc quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 có hiệu lực từ ngày
1/1/1998. Đây là lần đầu tiên một đạo luật về thơng mại đợc Nhà nớc ta ban hành,
nó thể hiện quan tâm xây dựng một nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của Nhà n-
ớc, theo định hớng XHCN, Luật Thơng mại đã quy định khá chi tiết về hoạt động
thơng mại các hành vi thơng mại. Trong đó có Hợp đồng thơng mại. Mặc dù có
nhiều tranh cãi xung quanh sự ra đời của Luật Thơng mại nhng có thể nói đây là
những quy định cần thiết để điều chỉnh các quan hệ thơng mại, một loại quan hệ
đặc thù và rất phát triển trong nền kinh tế thị trờng.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra còn kể đến các đạo luật và các văn bản hớng dẫn trong hệ thống
pháp luật kinh tế nh. Luật Doanh nghiệp đợc Quốc hội thông qua ngày 12/06/1999
có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, luật đầu t nớc ngoài, luật khuyến khích đầu t trong
nớc, các Nghị định của Chính phủ về thị trờng chứng khoán, đăng ký kinh doanh,
giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm các Thông t,...
Tất cả những văn bản pháp luật đó đã đợc giải quyết phần nào trong nền kinh
tế thị trờng và tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển. Nhng
mặt khác cần phải đặt ra những vấn đề cần đợc đổi mới, giải quyết để đảm bảo các
quyền của các chủ thể trong kinh doanh, tránh sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các
văn bản pháp luật chuyên ngành, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật kinh
tế. Đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa luật kinh tế, luật dân sự, luật thơng mại
nói chung và giữa hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, hợp đồng thơng mại nói
riêng.
II. Cơ sở thực tiễn của việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng
kinh tế
Thực tiễn thi hành pháp luật về Hợp đồng kinh tế tại thời điểm hiện nay cho

thấy có nhiều quy định đã tỏ ra không còn phù hợp. Một số quy định đã lạc hậu,
không theo kịp sự phát triển của các quan hệ kinh tế, mặt khác xuất hiện nhiều
quan điểm không thống nhất giữa pháp luật về HĐKT và các văn bản pháp luật
khác có liên quan. Do đó việc thực hiện pháp luật HĐKT đã gặp nhiều vớng mắc,
thậm chí có nhiều trờng hợp chủ thể kinh doanh không ký kết HĐKT theo quy
định của pháp luật về HĐKT.
1. Thực tiễn ký kết và thực hiện HĐKT
- Khi ký kết HĐKT các chủ thể kinh doanh thờng bị nhầm lẫn giữa HĐKT,
Hợp đồng dân sự và Hợp đồng thơng mại.
14

×