Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu qua hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông cho học sinh trung học tại trung tâm kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGÔ TUẤN TĂNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP VÀ DẠY
NGHỀ PHỔ THÔNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC TẠI
TRUNG TÂM KĨ THUẬT TỔNG HỢP – HƯỚNG
NGHIỆP TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã ngành:

601405

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn: GS – TSKH Nguyễn Văn Hộ

Tháng 8 năm 2008


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HĐGDHN VÀ DNPT
CHO HỌC SINH BẬC TRUNG HỌC TẠI TRUNG TÂM KTTH - HN

1.1. Những quan điểm về hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông



5

1.2. Những khái niệm cơ bản

12

1.3. Kết luận chương 1

34

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ HĐGDHN
VÀ DNPT TẠI TRUNG TÂM KTTH - HN TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1. Tình hình chung của trung tâm KTTH - HN tỉnh Thái Nguyên

35

2.2. Thực trạng hoạt động GDHN và DNPT tại trung tâm KTTH - HN
tỉnh Thái Ngun

36

2.3. Thực trạng cơng tác quản lí hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông
tại trung tâm KTTH - HN tỉnh Thái Nguyên

48

2.4. Kết luận chương 2


59

CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HĐGDHN VÀ DNPT CHO HỌC SINH
TẠI TRUNG TÂM KTTH - HN TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp

61

3.2. Các biện pháp quản lí hoạt động GDHN và DNPT
tại trung tâm KTTH - HN tỉnh Thái Nguyên

63

3.3. Khảo nghiệm tính khả thi của một số biện pháp

89

3.4. Kết luận chương 3

94

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

97

1. Kết luận chung


97

2. Khuyến nghị

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

100

PHỤ LỤC

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Một trong những vấn đề bức xúc của giáo dục Việt Nam hiện nay, khiến
tồn xã hội phải quan tâm đó là việc định hướng nghề nghiệp và phân luồng học
sinh sau tốt nghiệp THCS và THPT (trung học cơ sở và trung học phổ thơng). Theo
số liệu thống kê hàng năm tính trung bình cả nước có khoảng 70 – 80% số học sinh
THCS vào học THPT, riêng tỉnh Thái Nguyên trong những năm năm học gần đây,
mỗi năm có khoảng 12000 học sinh vào học lớp 10 và số học sinh tốt nghiệp THPT
đều đăng kí thi Đại học, Cao đẳng. Xét về nhu cầu, xu

hướng và nguyện vọng


của lớp trẻ thì những số liệu nêu trên là trân trọng, nhưng thực tiễn về năng lực và
nhu cầu xã hội lại khơng cho phép nguyện vọng đó thành hiện thực. Mỗi năm số
học sinh được tuyển vào ĐH, CĐ (đại học, cao đẳng) chỉ chiếm khoảng 10 – 15%,
tạo lên sự ùn tắc trong các kì thi tuyển sinh, gây tốn kém cho gia đình và cho xã
hội.
1.2. HĐGDHN và DNPT (hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ
thông) cho học sinh phổ thơng có ý nghĩa rất to lớn, xét về mặt giáo dục đó là cơng việc
điều chỉnh động cơ chọn nghề của học sinh, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp của các em
theo xu thế phân cơng lao động xã hội, góp phần vào việc cụ thể hố các mục tiêu đào tạo
của trường phổ thơng. Về ý nghĩa kinh tế thì cơng tác hướng nghiệp luôn hướng vào việc
sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước, từ đó, nâng cao năng suất lao
động của xã hội, để đảm bảo được ý nghĩa đó nhà trường phổ thơng phải gắn mục tiêu
đào tạo với những mục tiêu kinh tế – xã hội. Ý nghĩa về mặt chính trị – xã hội, cơng tác
hướng nghiệp có chức năng thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, thực
hiện đường lối giáo dục trong đời sống xã hội, nếu làm tốt cơng tác hướng nghiệp, chúng
ta sẽ có những lớp người đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, ngoài ra, hướng nghiệp có tác dụng điều chỉnh sự phân cơng lao động xã hội,
tạo ra sự cân bằng trong việc phân bổ lực lượng dân cư. Tóm lại, cơng tác hướng nghiệp

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




có ý nghĩa đối với việc triển khai chiến lược con người – một bộ phận của chiến lược kinh
tế, khoa học và công nghệ.
1.3. Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng thể hiện từ Đại hội III, Đảng ta đã khẳng
định: Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho

giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCHTW (Ban chấp hành Trung ương) Đảng khoá
VIII đã nhấn mạnh: “ Tăng cường giáo dục kĩ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở
bậc học phổ thông”. Vấn đề này cũng được khẳng định tại điều 24(1) Luật giáo dục: “
Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo u cầu về tính phổ thơng, tồn diện, cơ
bản và hướng nghiệp…”. Tiếp theo là chỉ thị 33/ 2003 ngày 23/7/2003 của Bộ trưởng
Bộ GD & ĐT (giáo dục & đào tạo) về việc đẩy mạnh công tác sinh hoạt hướng nghiệp
và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Để thực hiện được nhiệm vụ mục tiêu
giáo dục đào tạo, ngành GD & ĐT nói chung và các trung tâm KTTH – HN (kĩ thuật
tổng hợp - hướng nghiệp) nói riêng cần làm tốt cơng tác “ Hướng nghiệp và dạy nghề
phổ thông”, tạo điều kiện cho các em có thể chọn được một nghề phù hợp theo ý muốn,
năng lực của mình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và đất nước.
1.4. Trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên, sau 25 năm triển khai nhiệm vụ,
chúng tôi gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ, tài liệu và nội dung chương trình
giảng dạy, phụ huynh học sinh chưa nhận thấy được vị trí vai trị, tác dụng của HĐGDHN
và DNPT, cho nên hiệu quả đạt được chưa cao. Sự đổi mới trong quản lý, tổ chức giáo
dục nói chung và ở các trung tâm KTTH – HN nói riêng cịn chuyển biến chậm. Sự phân
cơng trách nhiệm quyền hạn giữa trung tâm và các trường phổ thông chưa hợp lý.Việc sử
dụng và khai thác các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực) cho HĐGDHN và DNPT cịn
ít hiệu quả, chưa tập trung vào những hướng ưu tiên như việc tổ chức hoàn thiện nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện dạy nghề, thiếu thơng tin nghề…Cơng tác
xã hội hố giáo dục cịn nhiều hạn chế và chưa có biện pháp hữu hiệu. Với lý do trên,
chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “ Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu

2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





quả hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông cho học sinh trung học tại trung tâm
KTTH – HN tỉnh Thái Ngun”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phân tích lý luận và tìm hiểu thực trạng việc triển khai hoạt động
của các trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên, đề xuất một số biện pháp
quản lý nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN và dạy NPT trong
các trung tâm KTTH – HN trên địa bàn tỉnh TN.
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý hoạt động GDHN và DNPT bậc
trung học tại trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu: Là các biện pháp quản lý hoạt động GDHN và
DNPT tại trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hiệu quả của hoạt động GDHN và dạy NPT cho học sinh bậc học phổ thông
tại trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên, có thể được nâng cao nếu như thực
hiện một cách đồng bộ một số biện pháp quản lý sau:
1. Tích cực tuyên truyền về hoạt động GDHN và dạy NPT, nhằm thay đổi
nhận thức của cấp quản lý, giáo viên, học sinh và dư luận xã hội
2, Hoàn thiện cấu trúc tổ chức và xác lập cơ chế phối hợp giữa trung tâm
KTTH - HN và các trường phổ thông trong công tác quản lý hoạt động GDHN
và dạy NPT cho học sinh phổ thông.
3. Tổ chức phân công lao động hợp lý, củng cố và phát triển đội ngũ.
4. Thường xuyên cải tiến nội dung, đổi mới phương pháp dạy học.
5. Khai thác và sử dụng hợp lý cơ sở vật chất - kĩ thuật.
6. Tăng cường cơng tác xã hội hố hoạt động GDHN và dạy NPT.
5. NHIỆM VỤ
5.1. Xác định cơ sở lý luận của việc quản lý HĐGDHN và DNPT cho học
sinh phổ thông bậc trung học tại trung tâm KTTH – HN tỉnh Thái Nguyên

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý HĐGDHN và DNPT tại trung tâm
KTTH –HN tỉnh Thái Nguyên
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả HĐGDHN và
DNPT cho học sinh phổ thông bậc trung học tại trung tâm KTTH – HN tỉnh TN
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn chỉ đề cập tới chức năng tổ chức quản lý HĐGDHN - DNPT. Việc khảo
nghiệm được tập trung xem xét những biện pháp quản lý HĐGDHN – DNPT thông
qua các chủ đề sinh hoạt hướng nghiệp và các nghề dạy tại trung tâm. Lấy ý kiến của
học sinh, giáo viên và các cán bộ quản lý các trung tâm, các trường THPT trên địa bàn,
7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
7.1.1. Quan sát sư phạm
7.1.2. Toạ đàm
7.1.3. Điều tra giáo dục
7.1.4. Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục
7.1.5. Thực nghiệm sư phạm
7.1.6. Lấy ý kiến chuyên gia
7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết
7.3. Các phƣơng pháp toán học sử dụng trong nghiên cứu khoa học giáo
dục
8. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
8.1. Thời gian thực hiện
8.1.1. Giai đoạn 1: Nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin
8.1.2. Giai đoạn 2: Viết và thông qua đề cương chi tiết
8.1.3. Giai đoạn 3: Hoàn thiện và báo cáo bảo vệ

8.2. Lực lƣợng liên kết nghiên cứu
8.2.1. Các trung tâm KTTH –HN trong tỉnh
8.2.2. Các trường phổ thơng đóng trên địa bàn thành phố

4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8.2.3. Các đoàn thể, cộng đồng xã hội
8.2.4. Chuyên gia của các cơ sở giáo dục trong tỉnh.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HĐGDHN VÀ DNPT CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC TẠI CÁC TRUNG TÂM KTTH – HN
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ HƢỚNG NGHIỆP VÀ DẠY NGHỀ PHỔ THƠNG

1.1.1. Ở nƣớc ngồi
1.1.1.1. Trong hệ thống giáo dục, giáo dục trung học phổ thơng là giai đoạn
học tập chính quy cuối cùng của đa phần thanh thiếu niên học sinh. Giáo dục
trung học phổ thơng khơng chỉ có mục tiêu chuẩn bị nguồn cho giáo dục đại học
mà chủ yếu là chuẩn bị cho học sinh – những con người trưởng thành-bước vào
cuộc sống lao động xã hội. Xuất phát từ thực tế đó, thanh thiếu niên học sinh
phổ thông dù học lên đại học hay sớm đi vào cuộc sống lao động nghề nghiệp,
họ đều phải được trang bị những tri thức khoa học, kĩ năng kĩ thuật, kĩ năng lao
động nghề nghiệp, năng lực sáng tạo, ý thức tổ chức kỉ luật và những phát minh
nhằm thiết thực góp phần đẩy mạnh cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia.
Trên thực tế, khi khoa học – kĩ thuật phát triển, quy trình cơng nghệ thay
đổi, đặc biệt là trong thời kì bùng nổ thơng tin, với xu thế hội nhập và tồn cầu

hố như hiện nay, người lao động thường khơng có khả năng để thích ứng kịp
thời. Trong khi đó, số học sinh phổ thông khi rời ghế nhà trường với vốn kiến
thức “ văn hố chay” khơng có cơ sở và khả năng hội nhập vào cuộc sống lao
động – xã hội. Xuất phát từ thực tiễn như vậy, trong xã hội có giai cấp, đã có các
nhà tư tưởng và giáo dục học tiến bộ, đã đưa ra những hình thức gắn giáo dục
với lao động nghề nghiệp, với cuộc sống.
Vào giữa thế kỉ 19, ở Pháp xuất hiện cuốn sách “ Hướng nghiệp chọn nghề”
[21,7]. Nội dung cuốn sách đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của nghề do sự

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




phát triển cơng nghiệp. Ngay khi đó, người ta đã nhận thấy tính đa dạng, phức tạp
của hệ thống nghề nghiệp, tính chun mơn hố vượt lên hẳn so với giai đoạn sản
xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, qua đó khẳng định tính cấp thiết phải giúp đỡ
thanh thiếu niên học sinh đi vào “ Thế giới nghề nghiệp”nhằm sử dụng hiệu quả lao
động trẻ tuổi. Đến năm 1975, nước Pháp tiến hành cải cách giáo dục nhằm vào
hướng: tăng cường giáo dục tự nhiên và toán học, trong đó tăng kiến thức thực
hành đối với khoa học tự nhiên, đưa giáo dục kĩ thuật vào để đảm bảo sự liên hệ
giữa trường học và đời sống, đồng thời vẫn giữa vững ý nghĩa của các môn xã hội
và nhân văn, giảm bớt tính hàn lâm trong việc cung cấp các kiến thức khoa học,
tăng cường tỷ trọng các kiến thức có ý nghĩa thực dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để
giúp học sinh trung học chuẩn bị đi vào đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
1.1.1.2. Vấn đề dạy học lao động nghề nghiệp đã được nhiều nhà giáo dục
học nổi tiếng thuộc tổ chức nghiên cứu về lao động, kĩ thuật và kinh tế trong
hoạt động dạy và học của Cộng hoà liên bang Đức nghiên cứu. Các cơng trình
nghiên cứu đó đã làm sáng tỏ về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy

học lao động nghề nghiệp, tổ chức cho học sinh phổ thông thực tập ở các nhà
máy, xí nghiệp, ở các cơ sở kinh doanh – dịch vụ. Qua đó cho thấy rằng hoạt
động dạy học lao động – kĩ thuật – kinh tế khơng chỉ mang tính quan trọng đối
với những mơn học khác, mà cịn là bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục
trung học phổ thơng... bởi vì nó tạo điều kiện cho học sinh phổ thơng phát triển
thành những con người trưởng thành trong cuộc sống – xã hội.
Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt quan điểm
nguyên tắc hướng nghiệp, để chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề
tuỳ theo trình độ học tập của mỗi em. Trẻ được phân loại ngay từ bậc Tiểu học,
sau lớp 5, căn cứ vào thành tích học tập của từng em, trường phân loại học sinh
thành hai loại: Loại học hết lớp 10 rồi đi học công nhân lành nghề tại các trung
tâm dạy nghề và loại học hết trung học (lớp 12). Đến đây lại phân loại lần nữa,
chỉ cho những học sinh học khá lên lớp 13 thi lấy bằng tú tài tồn phần và vào

6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




học các trường đại học, số còn lại sẽ vào học các cơ sở đào tạo nghề Trung cấp.
Sự phân loại sơ bộ được tiến hành từ khi học hết tiểu học, nhưng sẽ phúc tra đưa
ra quyết định chính xác vào sau lớp 9. Tới lớp 10, ngay từ học kì 1, giáo viên
chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng nghiệp, những trường dạy nghề của
các công ty tư nhân và nhà nước để đưa học sinh đến tìm hiểu nghề nghiệp mình
muốn học. Những học sinh có nhu cầu hay năng lực học lên đại học buộc phải
học lực khá, và từ khi lớp 11 được vào học tại trường phổ thông hệ học lên đại
học. Xu hướng hiện đại hoá ở đây là tạo điều kiện cho học sinh có thể học nghề
ngay khi đang học phổ thông, cung cấp hệ thống và kiến thức khoa học gắn với
hướng đào tạo nghề một cách linh hoạt, giảm bớt tính hàn lâm của bậc học trung

học hoàn chỉnh.
1.1.1.3. Vấn đề GDHN và lập nghiệp ở các trường học Úc không chỉ dạy lý
thuyết đơn thuần, mà còn cung cấp cho học sinh một khả năng chuyển đổi thật
nhanh và có sự bình đẳng trong tất cả các học sinh, làm cho học sinh vừa có kĩ
năng lao động, vừa có tri thức. Việc giáo dục này giúp cho học sinh biết tự ra
được những quyết định về việc lựa chọn có tính hướng nghiệp, lập nghiệp trong
và sau khi học ở trường và tham gia có hiệu quả vào đời sống lao động.
1.1.1.4. Magumi Nishino ở Viện nghiên cứu giáo dục Nhật Bản đã nghiên
cứu vấn đề bồi dưỡng tri thức và kĩ năng cơ bản của những ngành nghề cần thiết
cho học sinh phổ thông.Theo tác giả, học sinh trung học phải được: “ Bồi dưỡng
tri thức và kĩ năng cơ bản của những ngành nghề cần thiết trong xã hội, có thái
độ tơn trọng đối với lao động và có khả năng lựa chọn nghề tương lai phù hợp
với mỗi cá nhân” [34, 49]. Dù từ lâu, giáo dục Nhật Bản đã chú ý đến vấn đề
hồn thiện nội dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn
luyện kĩ năng lao động nghề nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh
phổ thơng. Chính vì vậy, ở Nhật, trong vòng 30 năm từ 1952 – 1982 nhiều cuộc
cải cách giáo dục đã được tiến hành, với mục đích đảm bảo cho giáo dục phổ
thông đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước. Trong đó,

7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




nhiều biện pháp đã được áp dụng để nâng cao trình độ đào tạo nghề nghiệp và
khoa học tự nhiên trong các trường tiểu học và trung học cơ sở.
1.1.1.5. Các nước ASEAN: Đang tăng cường GDHN cho học sinh phổ
thơng
- Tại Malaysia: Một trong những chức năng chính của giáo dục bên cạnh

việc góp phần phát triển nhân cách là xây dựng nguồn nhân lực. Mục tiêu của
khoá học phổ thông 9 năm (từ lớp 1 – lớp 9) là tạo điều kiện cho mỗi học sinh
có cơ hội bước vào ngưỡng của nghề nghiệp.
- Tại Philippin: Một trong những mục tiêu giáo dục phổ thông là đào tạo
nguồn nhân lực với trình độ tay nghề cần thiết để có thể lựa chọn nghề. Chính vì
thế mà ở cấp II đã thực hiện giáo dục nghề nghiệp, và chuẩn của học sinh là phải
đạt được những kiến thức, kĩ năng, thông tin nghề nghiệp và tinh thần làm việc
tối thiểu cần thiết để có thể chọn nghề. Sang cấp III tập trung vào một số lĩnh
vực cụ thể như hướng nghiệp – dạy nghề.
- Tại Thái Lan: Ngay từ Tiểu học đã trang bị cho học sinh những kiến thức
cơ bản, kĩ năng tối thiểu của một số công việc nội trợ, nông nghiệp và nghề thủ
công. Sang cấp II đẩy mạnh công tác GDHN gắn với một nghề trên cơ sở phù
hợp với độ tuổi, sở thích, nhu cầu của mỗi học sinh, đây là bước tiền đề cho học
sinh vào cấp III. Giáo dục nghề nghiệp gắn liền với hướng nghiệp nhằm cung
cấp cho học sinh những kĩ năng nghề nghiệp, tất cả các trường phải dạy nghề
theo quy định của Bộ, học sinh đạt chuẩn sẽ được cấp chứng chỉ nghề.
1.1.1.6. Jacques Delors, chủ tịch Uỷ ban quốc tế độc lập về giáo dục cho thế
kỉ XXI của UNESCO khi phân tích “ Những trụ cột của giáo dục” đã viết: “ Học
tri thức, học làm việc, học cách chung sống và học cách tồn tại ", đó là 4 trụ cột
mà Uỷ ban đã trình bày và minh họa những nền tảng của giáo dục [28, 8]. Theo
tác giả vấn đề GDHN và học nghề của học sinh phổ thông là một căn bản không
thể thiếu được trong giáo dục. Tác giả đã nhấn mạnh việc học sinh có cơ hội

8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




phát triển năng lực của mình bằng cách tham gia các hoạt động nghề nghiệp

song song với việc học tập tri thức.
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu về hoạt động dạy học, lao động
chuẩn bị nghề nghiệp ở nước ngoài đều chú ý việc cải cách mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ sở vật chất- kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lao động
chuẩn bị nghề nghiệp cho học sinh phổ thông, tức là đề cập tới hoạt động
GDHN và dạy nghề phổ thông. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu đó cịn
chưa chú ý tới cách tổ chức, quản lý hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông.
1.1.2. Ở trong nƣớc
1.1.2.1. Ở nước ta, trước hết phải kể đến chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta,
rất coi trọng và vận dụng sáng tạo quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác – Lê
nin nhằm đào tạo lớp người lao động mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra:
“ Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động; Lí luận đi với
thực hành; Cần cù đi với tiết kiệm” [1, 55].
1.1.2.2. Nghị quyết TW2 (trung ương) khoá VIII đã đề ra nhiệm vụ của
ngành giáo dục cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục kĩ thuật tổng hợp
– hướng nghiệp. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã ghi
rõ: “ Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn
bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”. Tới Đại hội X,
Đảng ta đã xác định đổi mới toàn diện giáo dục - đào tạo, yêu cầu dạy học phân
ban và tự chọn ở cấp THPT trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân
luồng từ THCS.
Quyết định 126/CP ngày 27/4/1981 của Thủ tướng Chính phủ về công tác
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông và sử dụng học sinh các cấp THCS và
THPT ra trường. Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2001/QĐ - TTg ngày 28/12/2001
đã nêu rõ: “ Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
1.1.2.3. Vấn đề này được xác định trong Luật giáo dục năm 2005, điều 27
đã nêu rõ: “ Giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thơng và
có những hiểu biết thơng thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát
huy năng lực cá nhân để lựa chọn những hướng phát triển, tiếp tục học đại học,
cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Tại điều 28,
Luật giáo dục 2005 đã nêu: Nội dung giáo dục phổ thông đảm bảo tính phổ
thơng, cơ bản, tồn diện, hướng nghiệp và có hệ thống. Đặc biệt là chỉ thị
33/2003 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về việc tăng cường công tác giáo
dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông. Chỉ thị đã nêu rõ: Giáo dục hướng
nghiệp là một bộ phận của nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ
thông và đã được xác định trong Luật giáo dục và chiến lược phát triển giáo dục
năm 2001 – 2010.
1.1.2.4. Trong những năm gần đây các nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội
học, kinh tế học, chính trị học đã tiếp cận nhiều đến vấn đề dạy NPT và hoạt
động GDHN cho học sinh phổ thơng ở các khía cạnh khác nhau.
- Trong cơng trình khoa học của mình, GS TS Phạm Tất Dong đã điều tra: “
Trong những người không kiếm ra việc làm có đến 85% là thanh niên. Trong
tổng số thanh niên đứng ngồi việc làm thì 67,4% là khơng biết nghề” [20, 25].
Trên cơ sở đó, tác giả đã xác định cần: “ Chú trọng việc hình thành những năng
lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ để tự tìm ra việc làm”, [20, 19] đồng thời: “ Tiếp
sau quá trình hướng nghiệp, dứt khoát phải dạy nghề cho học sinh...đây sẽ là
một nguyên tắc rất cơ bản” [20, 40].
- Mối quan hệ giữa học vấn phổ thông và học vấn nghề nghiệp đã được tác

giả Hoàng Đức làm sáng tỏ: “ Trong cơ chế đổi mới hiện nay vấn đề chuẩn bị
nghề nghiệp là một yêu cầu nóng bỏng của thực tế xã hội”. Học vấn phổ thơng

10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




và học vấn nghề nghiệp có phần giao thoa ngày càng rõ theo hướng mơ đun hố
ở mức phổ thơng. Phần giao thoa đó ngày càng lớn nghĩa là cơng tác GDHN và
dạy nghề phổ thông được tiến hành sớm và phát triển mạnh, đó là cơ sở cho việc
định hướng và phân luồng học sinh, chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cho
sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước.

Học vấn
phổ
thơng

Học vấn
nghề
nghiệp

Phần học vấn:

- KTTH – HN
- NPT

Kết quả nghiên cứu của tác giả hoàn toàn phù hợp với xu thế đổi mới của
giáo dục trung học hiện nay, giáo dục trung học đang ngày càng khơng cịn là

nền giáo dục cho một số ít người như vào đầu thế kỷ XX, giáo dục trung học
ngày nay không phải chỉ để cho người học lên, mà còn chuẩn bị cho thanh niên
đi vào thế giới lao động nghề nghiệp, đặc biệt cho những ai chỉ có thể học hết
bậc trung học.
- Cơng trình nghiên cứu của GS - TSKH Nguyễn Văn Hộ đề cập vấn đề: “
Thiết lập và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam” [24].
Trong đó tác giả xây dựng luận chứng cho hệ thống hướng nghiệp và dạy NPT
trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đề xuất những hình thức
phối hợp giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở sản xuất hướng nghiệp
– dạy nghề, các lực lượng khác tham gia vào công tác GDHN và dạy NPT cho
học sinh phổ thơng.
Có thể nói rằng, các cơng trình nghiên cứu khoa học khác nhau ở trong
nước và ngoài nước, những quan điểm, những Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng của
Thủ tướng Chính phủ, cũng như Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo
rất có giá trị về phương pháp luận và lý luận đối với việc thực hiện luận án này.

11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Qua đó chúng tơi có thể rút ra những nhận xét sau đây:
Các cơng trình khoa học khác nhau về lĩnh vực GDHN và DNPT ở trong
nước và ngoài nước đều quan tâm đến hoạt động dạy học lao động, chuẩn bị
nghề nghiệp cho học sinh phổ thông dưới các hình thức và cách gọi khác nhau,
mà thực chất của vấn đề là quan tâm tới hoạt động dạy học NPT và hoạt động
GDHN, nhằm chuẩn bị cho đa phần học sinh trung học, sau khi tốt nghiệp dễ
dàng hoà nhập với cuộc sống lao động nghề nghiệp trong nền kinh tế – xã hội
của mỗi quốc gia.

Các cơng trình nghiên cứu trên tập trung quan tâm tới vấn đề đổi mới nội
dung, phương pháp, sử dụng tối ưu cơ sở vật chất – kĩ thuật phục vụ cho hoạt
động dạy NPT và GDHN cho học sinh phổ thông. Mặc dù vậy, chúng tơi cịn
thấy việc tổ chức, quản lý hoạt động GDHN và DNPT cho học sinh phổ thơng
cịn chưa được giải quyết, đó là các vấn đề mà chúng tôi tập trung đề cập tới
trong luận án này.
1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Hƣớng nghiệp
Bước vào bậc cuối của nhà trường phổ thông, tuổi trẻ học đường thường có
những hồi bão lớn lao gắn liền với cuộc sống tương lai của họ. Khơng ít những
câu hỏi đặt ra đại loại như: “ mình sẽ làm gì”, “ mình chọn nghề gì”, “ nghề nào
hay nhất”... ln xuất hiện trong suy nghĩ của tuổi trẻ. Có những em trả lời
những câu hỏi trên thì khơng khó lắm, nhưng có nhiều em khơng biết trả lời thế
nào nên cịn đắn đo, dù các em đã trả lời được hay là chưa trả lời được câu hỏi
trên nhưng chung quy lại việc trả lời đó chưa có cơ sở, chỉ mang tính chủ quan.
Đây là một vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục và toàn xã hội cần quan tâm.
Các chuyên gia tâm lý học, kinh tế học, chính trị học... ở nước ngoài cũng
như ở trong nước đã nghiên cứu về vấn đề này và cho rằng: để giúp các em
trong việc chọn nghề cần làm tốt công tác hướng nghiệp cho các em, dưới nhiều
hình thức khác nhau và có thể hiểu theo hai cách sau:

12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.2.1.1. Hướng nghiệp trên bình diện xã hội.
Như chúng ta đều biết các nhà máy, xí nghiệp, cơng trường, nơng trường...,

các cơ quan quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, ngay cả các cơ quan đồn thể
chính trị và xã hội, đến các trường học, ... đều cần đến những con người có năng
lực và những phẩm chất phù hợp. Để chọn được người theo đúng những tiêu
chuẩn đã định, những cơ quan, tổ chức nói trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ
hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm, điều kiện... cơng tác của mình, giúp cho
họ hiểu được những nghề nghiệp, chuyên môn mà mình cần tuyển chọn. Như
vậy cơng tác tun truyền, vận động cho nghề nghiệp mà các cơ quan xí nghiệp
cần tuyển nhân lực là vơ cùng cần thiết, đó là cách thức “ hướng nghiệp cho
mình”, đều xuất phát từ lợi ích và sự phát triển của mình. Chính vì vậy nhiều
nhà máy, xí nghiệp đã trang bị máy móc mới cho xưởng trường, nhằm giúp cho
học sinh sớm làm quen với những phương tiện kĩ thuật mới để sau này, nếu
tuyển đội ngũ học sinh vào nhà máy, các em đã là người nắm được công cụ lao
động rồi, từ đó sẽ chủ động và tin tưởng hơn trong cơng việc của mình.
Các nhà tâm lý học cho rằng đó là hệ thống các biện pháp sư phạm, y học
giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực của
bản thân; các nhà kinh tế thì cho rằng đó là những mối quan hệ kinh tế giúp cho
mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực đối với lao động, và đưa họ vào một
lĩnh vực hoạt động cụ thể, phù hợp với việc phân bổ lực lượng lao động xã hội...
theo K.K.Platônốp – một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng của Nhà nước
Xơ Viết thì: Hướng nghiệp, đó là một hệ thống các biện pháp tâm lý – giáo dục,
y học, nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thơng qua việc lựa chọn cho
mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xuất hiện, vừa phù hợp với hứng
thú năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa
quyền lợi của xã hội với quyền lợi cá nhân. Hoặc như viện sĩ C.Ia.Batusép xác
định: hướng nghiệp là một hoạt động hợp lý gắn với sự hình thành ở thế hệ trẻ

13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





hứng thú và sở thích nghề nghiệp, vừa phù hợp với những năng lực cá nhân, vừa
đáp ứng đòi hỏi của xã hội đối với nghề này hay nghề khác...
Như vậy, hướng nghiệp có thể hiểu như là một hệ thống tác động của xã
hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học.vv... nhằm giúp cho thế hệ trẻ
chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của
cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân.
Trẻ em phải được chọn nghề theo hứng thú, sở thích và cơng tác hướng
nghiệp phải giúp chúng ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu
nhân lực mà xã hội đặt ra. Do đó, hướng nghiệp phải là cơng việc được xã hội
quan tâm đặc biệt. Không nên để trẻ em chọn nghề một cách tự phát, cũng không
nên để cho số phận nghề nghiệp của mỗi học sinh, mỗi thanh thiếu niên phụ thuộc
vào những gì hết sức ngẫu nhiên. Hướng nghiệp đề cập ở đây đã vượt ra khỏi
phạm vi nhà trường phổ thông, liên quan đến cả tuyển chọn nghề, thích ứng nghề
và hơn nữa là tư vấn và dịch vụ việc làm (cho cả đối tượng ngồi xã hội).
1.2.1.2. Hướng nghiệp trên bình diện phổ thơng.
Trong trường phổ thơng, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của
thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng
nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục
đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề
nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản
thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội.
Như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như một hệ
thống tác động sư phạm, nhằm làm cho các em học sinh chọn được nghề tương
lai một cách hợp lý.
Với cách hiểu đó, hướng nghiệp là nhiệm vụ của bất kì thành viên nào trong
tập thể sư phạm như: Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn, tổ
chức Đồn thanh niên Cơng sản Hồ Chí Minh...Vấn đề là ở chỗ phải có sự phân


14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




cơng rõ ràng. Về phía học sinh, hướng nghiệp là hình thức học tập của mình,
thơng qua hoạt động này, mỗi học sinh phải lĩnh hội được những thông tin về
nghề nghiệp trong xã hội, đặc biệt là nghề ở địa phương, phải nắm được hệ
thống các yêu cầu của từng nghề mà mình chọn, phải có kĩ năng tối thiểu, phẩm
chất tâm lý phù hợp với yêu cầu tối thiểu của nghề.
Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông là một bộ phận của cơng tác
hướng nghiệp ngồi xã hội, nhà trường phổ thông sẽ giúp các em đi vào các
nghề trong xã hội. Vì vậy, cơng tác hướng nghiệp trong trường phổ thông phải
thống nhất với công tác hướng nghiệp ở ngoài xã hội, hai bộ phận này có quan
hệ hết sức mật thiết với nhau, bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau.
Một cách tổng quát: “ Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên
cơ sở tâm lí học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh
chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối thiểu nguyện
vọng, thích hợp với những năng lực, sở trường và tâm sinh lý cá nhân, nhằm
mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có
sẵn của đất nước”.
Nói một cách khác, “ Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tác
động của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trị chủ
đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho học sinh (HS) cả về tâm thế và kĩ năng, để
các em có thể sẵn sàng tham gia các hoạt động hoặc tự tạo việc làm ở các
ngành nghề mà xã hội cần phát triển, đồng thời phù hợp với hứng thú, năng lực
cá nhân cũng như hồn cảnh gia đình”.
1.2.1.3. Vị trí của hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông

Hướng nghiệp là một hoạt động giáo dục trong nhà trường phổ thông, nhằm
giúp cho học sinh những hiểu biết thơng thường về thế giới nghề nghiệp, để có
thể định hướng phát triển, lựa chọn nghề phù hợp với hứng thú cá nhân, năng
lực bản thân và nhu cầu xã hội. Trên cơ sở đó, các em tiếp tục học tập, rèn luyện
để có thể phát triển trong hoạt động nghề nghiệp tương lai.

15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục
tồn diện; góp phần vào việc phân luồng học sinh phổ thông cấp Trung học, là
bước khởi đầu qua trọng của quá trình phát triển nguồn nhân lực cho xã hội.
1.2.2. Nghề nghiệp
1.2.2.1. Nghề
Nghề nghiệp theo chữ La tinh có nghĩa là cơng việc chun mơn được hình
thành một cách chính thống, là dạng lao động địi hỏi một trình độ học vấn nào
đó, là hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E. A. Klimốp thì: “ Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã
hội (do sự phân cơng lao động xã hội mà có), nó tạo cho mỗi con người khả
năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cho việc tồn tại
và phát triển” [29].
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu về nghề nghiệp như một
dạng lao động vừa mang tính xã hội (sự phân cơng xã hội), vừa mang tính cá
nhân (nhu cầu bản thân), trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động
đòi hỏi để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
Nghề luôn là cơ sở giúp cho con người có “nghiệp” (việc làm) và từ đó tạo

ra sản phẩm thoả nãm nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã hội. Còn nếu như
một người nào đó chỉ có nghề mà khơng có nghiệp, người đó được coi là người
thất nghiệp (ví dụ: sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm).
Ở đây, ta cần phân biệt khái niệm nghề và chuyên môn nghề. Chuyên môn
nghề: Là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp, con người bằng năng lực thể chất
và tinh thần của mình để làm ra những sản phẩm vật chất và giá trị tinh thần,
điều đó có nghĩa là trong mỗi nghề có nhiều chun mơn nghề. Ví dụ, nghề dạy
học có các chun mơn như: Tốn, lý, hố...

16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Như vậy, nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ có đào
tạo, con người có được những tri thức, những kĩ năng để làm ra các sản phẩm vật
chất và tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của bản thân và xã hội.
1.2.2.2. Nghề phổ thông
Hiểu theo nghĩa thông thường, nghề phổ thông là những nghề phổ biến,
thông dụng đang cần phát triển ở địa phương, nắm được nghề này học sinh có
thể tự tạo việc làm, dễ sử dụng trong các thành phần kinh tế tại chỗ của cộng
đồng dân cư.
Là những nghề có kĩ thuật tương đối đơn giản, mọi người đều có thể học
được và phục vụ ngay cho cuộc sống của họ, q trình dạy nghề khơng địi hỏi
phải có trang thiết bị phức tạp.
Thời gian đào tạo nghề ngắn, tối thiểu là 90 tiết tối đa đến 180 tiết.
Nguyên liệu dùng cho việc dạy nghề dễ kiếm, phù hợp với điều kiện kinh
tế, khả năng đầu tư của địa phương.
1.2.2.3. Nghề nghiệp

Ngày nay ở Việt Nam, nhất là ở các khu vực đô thị và đô thị hoá, khái niệm
nghề nghiệp càng ngày càng trở nên trừu tượng, phức tạp, khó nắm bắt. Người
lao động có khuynh hướng nói đến việc làm, việc làm tạm thời, mà chủ yếu là
ngắn hạn với trung hạn và dài hạn. Tính di động cao với nhiều lần chuyển đổi
cơng ăn việc làm của một người lao động trong suốt quá trình tham gia thị
trường của họ, dẫn đến khái niệm di động việc làm bên cạnh khái niệm di động
nghề nghiệp, chuyên môn.
Yếu tố tác động đến việc xác định lĩnh vực nghề nghiệp của cá nhân là lĩnh
vực đào tạo của họ. Ngày nay, người ta không chỉ chuyển đổi nhiều cơng việc
khác nhau trong suốt lộ trình nghề nghiệp của cuộc đời, mà cịn đồng thời có thể
được đào tạo ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Những yếu tố trên cho thấy, việc cần thiết phải xác định khái niệm nghề
nghiệp trong môi trường xã hội đầy biến đổi và phải liên tục tìm hiểu, phân biệt
nhiều khái niệm kề cận và liên quan đến khái niệm nghề nghiệp truyền thống
như: việc làm, nghiệp vụ, sự nghiệp, công việc...
1.2.3. Tƣ vấn nghề
1.2.3.1. Khái niệm tư vấn nghề.
Trong thực tế chúng ta thường hay thấy xuất hiện cụm từ có liên quan tới
hoạt động tư vấn như: tư vấn học đường, tư vấn hôn nhân và gia đình, tư vấn
việc làm... Đồng thời cũng tồn tại những tổ chức dịch vụ tư vấn hiện có mặt tại
thành phố, các khu công nghiệp, các tổ chức thanh niên, phụ nữ, quân đội như:
Trung tâm tư vấn và xúc tiến việc làm, Trung tâm tư vấn hôn nhân gia đình,
Trung tâm tư vấn nghề...

Tư vấn nghề là một hoạt động trong đó chủ thể là một cá nhân hay một tổ
chức có kinh nghiệm nắm vững một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nào đó.
Chủ thể tư vấn là nơi thu nhận, sàng lọc, chuyền tải thông tin nghề và có khả
năng ứng xử với đối tượng tư vấn (để thoả mãn những nhu cầu của đối tượng tư
vấn, chủ thể tư vấn cũng theo đó mà có thành phần xuất xứ rất đa dạng : đó có
thể là những chuyên gia xã hội học, khoa học kĩ thuật, văn hoá, mỹ thuật...
Mối quan hệ giữa chủ thể tư vấn và đối tượng tư vấn là mối quan hệ tác
động, cải biến, trong đó chủ thể tư vấn ở vi trí tạo nên sự tác động nhờ việc
truyền tải thơng tin, phân tích, khun nhủ. Đối tượng tư vấn ở vị trí người được
cải biến nhờ việc tiếp nhận những thông tin chưa rõ ràng hoặc thiếu hụt.
Thông tin tư vấn nghề bao gồm cả những mặt được và chưa được, những
thông tin thuận chiều hoặc ngược chiều của đối tượng thoả mãn nhu cầu kèm theo
những lời khuyên nên hoặc không nên của chủ thể. Trong rất nhiều trường hợp, nội
dung tư vấn nghề lại bao hàm những thông tin phản bác lại suy nghĩ của đối tượng,
vạch rõ những sai trái không thể chấp nhận được trong thực tiễn, hoặc những cản

18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




trở khiến học sinh khơng có khả năng thực hiện được ước muốn, đó được gọi là
những thơng tin phản bác chỉ đưa ra để đối tượng xem xét và quyết định.
Trong hoạt động tư vấn, ngoài sự tham gia chính yếu của chủ thể và đối
tượng, chúng ta cịn thấy sự có mặt của những phương tiện hỗ trợ như phim,
video, tranh ảnh, đơi khi cịn có cả những cuộc sát hạch thực tế tại hiện trường
để đối tượng có điều kiện mắt thấy, tai nghe, làm sáng tỏ những nhận định của
bản thân. Hiện nay, có thêm phần mềm hỗ trợ tư vấn nên đã tăng thêm độ chuẩn
xác, đó là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia tư vấn đưa ra những

lời khuyên tốt nhất cho đối tượng học sinh.
Kết quả tư vấn được biểu thị qua mức độ thông hiểu, chấp nhận hay khơng
chấp nhận những thơng tin và lời khun có liên quan tới nhu cầu do đối tượng
đặt ra của chủ thể tư vấn, có thể là sự chuyển biến về nhận thức và cũng có thể
là sự thay đổi những quyết định lớn của cuộc sống. Song, nếu thông tin thiếu
toàn diện, ứng xử của chủ thể chưa thấu tình đạt lý, có thể dẫn đối tượng tư vấn
tới những nhận thức hoặc việc làm vô bổ – sự cải biến diễn ra theo chiều hướng
xấu, kém hiệu quả. Về phía chủ thể, thơng qua hoạt động tư vấn, họ sẽ thu nhận
được nhiều thơng tin bổ ích về nhu cầu đa dạng của nhiều loại đối tượng tư vấn,
tìm được những kinh nghiệm trong giao tiếp với đối tượng trong những hồn
cảnh cụ thể, để từ đó nâng cao khả năng và hiệu quả tư vấn.
Hiểu theo nghĩa thơng thường, có thể xem Tư vấn nghề là một hoạt động
dựa vào những biện pháp tâm lí, giáo dục và y học nhằm đánh giá toàn diện
năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, trên cơ sở đối chiếu với những
yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có tính đến nhu cầu địa phương
và xã hội, cho các em những lời khuyên về chọn nghề phù hợp.
1.2.3.2. Vị trí của tư vấn nghề trong việc chọn nghề tương lai của học sinh
Nếu xem công tác hướng nghiệp nghề gồm 3 khâu gắn bó chặt chẽ với nhau
là “ định hướng nghề, tư vấn nghề và tuyển chọn nghề”. Trong đó khâu tư vấn
nghề có tác dụng vơ cùng quan trọng, bởi lẽ nó giúp phát hiện sự phù hợp nghề

19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




cho thanh thiếu niên, học sinh, đồng thời tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng
sáng tạo, say mê cơng việc của mình. Và có thể biểu diễn mối quan hệ đó thơng
qua sơ đồ ba khâu liên hồn của công tác hướng nghiệp như sau :

Định
hướn
g
nghề

Tuyể
n
chọn
nghề


vấn
nghề

Tư vấn chọn nghề cho học sinh phổ thơng có hai loại :
+ Tư vấn sơ bộ : Loại này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì
khơng địi hỏi phải có thiết bị, các phương tiện kĩ thuật. Chuẩn đốn những
phẩm chất, nhân cách của học sinh cũng không cần địi hỏi phải có đội ngũ
chun gia tư vấn có tay nghề cao, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực tâm – sinh lý,
giáo dục học, y học, kinh tế học. Ở đây có thể là giáo viên chủ nhiệm hoặc bộ
mơn hay tổ chức đồn thanh niên có thể đóng vai trị nhà tư vấn. Để đạt hiệu quả
tư vấn, yêu cầu các nhà tư vấn cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số
ngành nghề ở một số trường hoặc ở địa phương, về nhu cầu nhân lực, về năng
lực của học sinh, từ đó cho học sinh lời khuyên nên học nghề gì và ở đâu. Hoặc
là qua những điều giảng dạy của thầy để học sinh tự trả lời được 3 câu hỏi : Em
có muốn học nghề đó khơng ? Em có khả năng làm nghề đó khơng ? Và xã hội,
địa phương có cần nghề đó khơng?
+ Tư vấn chun sâu: Loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến hành trên
cơ sở khoa học thực sự, đảm bảo độ chính xác cao nhờ một số máy móc hiện đại
(ví dụ máy đo độ chính xác của các cử động, sự khéo léo vận động của tay, đo

cảm giác, thị giác...), trắc nghiệm thần kinh khí chất và các chỉ số thơng minh

20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




khác, hiện nay có sử dụng phần mềm hỗ trợ tư vấn của Trung tâm hướng nghiệp
Nghệ An đã được Bộ nghiệm thu và đưa vào xử dụng...
Nói khác đi, mục đích của tư vấn nghề là giúp thanh thiếu niên, học sinh
tìm hiểu bản thân, “phát hiện” ra mình, tạo điều kiện cho họ phát huy cao độ
các sở trường đích thực của mình trong thời gian học lao động kĩ thuật, học
nghề tại các Trung tâm KTTH – HN, cũng như trong bước đường hoạt động
nghề nghiệp tương lai.
* Định hướng nghề: Định hướng nghề là một khái niệm bao gồm hai yếu tố
liên kết với nhau chặt chẽ: Yếu tố thứ nhất chỉ trạng thái động của khái niệm đó
là việc xác định cho mình một hướng đi, hướng phấn đấu, hướng rèn luyện, yếu
tố thứ hai chỉ sự cần thiết phải thực hiện hoạt động của bản thân theo một hướng
đã được xác định.
Trong nhà trường, chủ thể trực tiếp định hướng tới nghề nghiệp là học sinh,
song với tuổi đời con trẻ, kinh nghiệm, vốn sống và trình độ nhận thức xã hội
cịn hạn hẹp, nên cần có sự trợ giúp của các lực lượng giáo dục. Lúc này hoạt
động định hướng nghề nghiệp của học sinh trở thành đối tượng lao động giáo
dục của người thầy, cơ giáo, của các tổ chức chính trị - xã hội, của trường học
nhằm giúp cho quá trình định hướng nghề của học sinh diễn ra thuận lợi, đạt tới
sự tương hợp cần thiết giữa nguyện vọng cá nhân với yêu cầu của nghề trong
những điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể.
Như vậy, định hướng nghề nghiệp được hiểu là một quá trình hoạt động
được chủ thể tổ chức chặt chẽ theo một logic hợp lý về không gian, thời gian, về

nguồn lực tương ứng với những gì mà chủ thể có được nhằm đạt tới những yêu
cầu đặt ra cho một lĩnh vực nghề nghiệp hoặc cụ thể hơn là của một nghề nào đó.
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này, các lưc lượng sư phạm trong nhà
trường cần hiểu rõ định hướng nghề của học sinh với các yếu tố tạo thành như
nhận thức nghề, thái độ nghề, lựa chọn nghề và quyết định nghề.

21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




* Tuyển chọn nghề: Tuyển chọn nghề chính là quá trình đánh giá sự phù
hợp ban đầu về phẩm chất, nhân cách, năng lực của cá nhân đối với những yêu
cầu do nghề đặt ra.Trong công tác này, phẩm chất, năng lực, trình độ nhận thức,
kĩ năng lao động... của học sinh trở thành đối tượng xem xét của quá trình tuyển
chọn nghề. Tuyển chọn nghề và thích ứng nghề được tiến hành thơng qua q
trình người lao động tham gia vào làm việc tại các cơ quan, xí nghiệp, nhà
máy.Thơng qua đó, người lao động có thể tự quyết định nghề tương lai của
mình.
1.2.4. Dạy nghề
1.2.4.1. Dạy nghề phổ thông
Nghề phổ thông là nghề phổ biến, thông dụng (đang cần phát triển ở địa
phương). Những nghề ấy có kĩ thuật tương đối đơn giản, q trình dạy nghề
khơng địi hỏi thiết bị phức tạp, thời gian đào tạo ngắn, phù hợp với điều kiện
kinh tế, khả năng đầu tư của địa phương, thời gian học nghề ngắn. Nghề phổ
thông được tiến hành dạy trong các trung tâm dạy nghề, trung tâm KTTH – HN,
tại các trường phổ thông và các lớp dạy nghề tư nhân, nhằm trang bị một số kĩ
năng nghề cơ bản để học sinh tiếp tục học lên hoặc vào đời lao động.
Tác giả Phạm Tất Dong quan niệm: “ Ở THCS, học sinh cần được giới

thiệu nghề và những công nghệ mới nhất đang được sử dụng trong nghề. Mặt
khác, các em vẫn được học nghề bởi vì trong số các em này, khơng ít sẽ đi vào
trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp bậc học này”.
Theo tác giả Trần Hồng Quân: “ Dạy nghề cho học sinh phổ thông với tư
cách là dạy tri thức, kĩ năng lao động, hướng nghiệp là chính” [37,44]. Tác giả
Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê đã đề cập tới nhiệm vụ dạy nghề của giáo
dục phổ thông là: “ Giúp học sinh có được năng lực tìm được việc làm, tự tạo
việc làm trong nền kinh tế thị trường, đó là những con người có tri thức văn hố,
khoa học, có kĩ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ sáng tạo và có kỉ luật, giàu
lịng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [27, 105, 106].

22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Vấn đề dạy nghề cho học sinh phổ thông, tác giả Phạm Huy Thụ và Đoàn
Chi đã thể hiện quan điểm của mình: “ Là một hoạt động dạy học, dạy nghề
phổ thông trong nhà trường phổ thông thực hiện một cách có hiệu quả nguyên
lý giáo dục”.
Xuất phát từ những điều phân tích trên, chúng tơi quan niệm rằng NPT là
một môn học nằm trong kế hoạch dạy học, có chương trình dạy nghề và danh
mục nghề cho học sinh phổ thông bậc trung học. Thông qua tổ chức hoạt động
dạy NPT nhằm không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kĩ năng lao
động nghề nghiệp cần thiết và tư duy kĩ thuật mà còn giáo dục học sinh thái độ,
tác phong lao động nghề nghiệp thích ứng những yêu cầu của nền kinh tế – xã
hội, đồng thời tạo điều kiện để dịch chuyển lao động nghề nghiệp phù hợp
những thay đổi nhanh chóng về việc làm.
1.2.4.2. Dạy nghề xã hội

Cần phân biệt giữa dạy nghề phổ thông và dạy nghề xã hội, dạy nghề xã hội
được tổ chức dạy ở các Trung tâm dạy nghề, các trường Trung cấp nghề, Cao
đẳng nghề nhằm đạo tạo những người lao động có kiến thức, kĩ năng nghề
nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có ý thức
tổ chức kỉ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ, nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khả năng tìm việc làm và hành nghề kiếm sống, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội.
Nghề xã hội địi hỏi trình độ kĩ thuật cao, quá trình dạy học cần đến những
trang thiết bị hiện đại, thời gian đào tạo dài, có chương trình dạy nghề ngắn hạn
3 đến 6 tháng, có chương trình dạy nghề đài hạn từ 1 đến 3 năm, học sinh tốt
nghiệp được cấp bằng nghề (bậc thợ 3/7)..
Khái niệm NPT của gíáo dục phổ thơng khác với khái niệm nghề được đào
tạo trong các trường chuyên nghiệp – dạy nghề. Giữa NPT và nghề được đào tạo
có mối quan hệ hữu cơ và hỗ trợ nhau trong giáo dục - đào tạo. Mối quan hệ đó
được thể hiện qua sơ đồ sau:

23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×