Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.57 KB, 142 trang )


1
Mục lục
Trang
Mục lục 01
Mở đầu 03
1. Lí do chọn đề tài 03
2. Lòch sử vấn đề 04
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 17
4. Phương pháp nghiên cứu 18
5. Đóng góp của luận văn 19
6. Cấu trúc của luận văn 19
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 20
1.1. Thuật ngữ hàm ngôn và các thuật ngữ hữu quan
20
1.2. Phân loại ý nghóa hàm ngôn 31
1.3. Chức năng của ý nghóa hàm ngôn
41
1.3.1. Vì lí do khiêm tốn 41
1.3.2. Giữ thể diện cho người nghe 42
1.3.3. Người nói không nhận trách nhiệm về lời nói của mình 44
1.4. Quan điểm của luận văn 44
1.5. Một số vấn đề về văn hoá ngôn ngữ học của ý nghóa hàm ngôn 45
1.6. Đặc điểm của văn bản và truyện cười 52
1.6.1. Đặc điểm của văn bản 52
1.6.2. Đặc điểm của truyện cười 54
1.7. Tiểu kết 56
Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC TẠO HÀM NGÔN TRONG
TRUYỆN CƯỜI TIẾNG VIỆT 58
1. Giới thuyết chung 58
2. Phân loại và miêu tả 58


2.1. Phương thức chơi chữ 58
2.1.1. Dùng biện pháp nói lái 59
2.1.2. Dùng biện pháp đồng âm 60
2.1.3. Dùng biện pháp đồng nghóa và trái nghóa 62
2
2.1.4. Dùng biện pháp đa nghóa 64
2.1.5. Dùng biện pháp hoán đổi vò trí từ ngữ 65
2.1.6. Dùng biện pháp tách từ ngữ 66
2.1.7. Dùng biện pháp buông lửng 67
2.2. Phương thức sử dụng hư từ 68
2.3. Phương thức so sánh 75
2.4. Phương thức nói có vần điệu 76
2.5. Phương thức tỉnh lược 77
2.6. Phương thức lòch sự không đúng chỗ 78
2.7. Phương thức nói vòng 80
2.8. Phương thức dùng câu hỏi 84
2.9. Phương thức dùng câu đồng nghóa 86
2.10. Phương thức phúng dụ 87
2.11. Phương thức đánh tráo khái niệm 87
2.12. Phương thức dùng mối quan hệ ngoại chỉ 89
2.13. Phương thức tạo tiền đề 89
2.14. Phương thức sử dụng ngôn ngữ không tương thích với ngữ cảnh 93
2.15. Phương thức dùng sự sai lệch ngữ nghóa trong ngôn giao 95
2.16. Phương thức tạo hàm ngôn dựa trên lẽ thường 97
2.17. Phương thức suy luận 104
2.18. Phương thức lập luận 108
2.19. Phương thức tạo độ hẫng 109
2.20. Phương thức nói giảm 111
2.21. Phương thức phóng đại 111
2.22. Phương thức im lặng 112

2.23. Phương thức vi phạm tiền giả đònh 113
2.24. Phương thức tạo thông tin thừa 115
2.25. Phương thức nói khái quát 116
2.26. Phương thức tạo sự mơ hồ 117
2.3. Tiểu kết 118
KẾT LUẬN 120
NGUỒN GỐC CỦA CÁC CỨ LIỆU TRÍCH DẪN 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO 126
3
Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
Trong tác phẩm Bút kí triết học, V.I.Lê nin đã nói: "Viết một cách
thông minh có nghóa là giả đònh người đọc cũng thông minh, là không nói hết,
là để người đọc tự nói với mình những quan hệ, những điều kiện, những giới
hạn- chỉ với những quan hệ, những điều kiện, những giới hạn này thì một câu
nói mới có giá trò và ý nghóa" [Dẫn theo 37; 127]. Như vậy, trong tổ chức ngôn
ngữ không phải lúc nào cũng có thể nói trắng ra được, trái lại nhiều lúc phải
"vòng vo tam quốc". Sở dó phải "vòng vo tam quốc", ngoài ý nghóa là viết một
cách thông minh như Lê nin nói, nhiều lúc người viết đâu phải lúc nào cũng tự
do trong lựa chọn ngôn ngữ. Nói thế nào để diễn đạt được nội dung muốn nói
mà người nghe vẫn không phật lòng, nói thế nào mà không đụng chạm đến
người khác, quả nhiên, là vấn đề không chỉ bó hẹp trong phạm vi ngôn ngữ
học.
Trong cuộc sống thường ngày, khi giao tiếp với nhau không phải lúc
nào chúng ta cũng "nói thẳng", "nói trắng", hay "nói toạc móng heo" những
điều mình cần nói. Trái lại, chúng ta vẫn có thể thực hiện được hành vi giao
tiếp hàm ẩn của mình thông qua lối nói "úp mở", "bóng gió", "lập lờ" Còn
người nghe muốn hiểu được ý nghóa ẩn chứa ở bề sâu câu chữ thì phải dựa
vào một căn cứ nào đó để suy luận. Căn cứ để suy luận có thể là thông qua từ

ngữ, mẫu câu, hoàn cảnh giao tiếp, sự suy luận hợp lôgic hoặc cách thức tổ
chức văn bản và cái nghóa không hiện ra ngay trên câu chữ được gọi là
nghóa hàm ngôn.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều nhà ngôn ngữ học đề cập đến
nghóa hàm ngôn và đa số đều dùng thủ pháp đối lập lưỡng phân để phân
loại thành nghóa hiển ngôn và nghóa hàm ngôn.
"Hàm lượng ngữ nghóa của hiển ngôn thì có hạn nhưng hàm lượng ngữ
nghóa của hàm ngôn thì vô hạn. Cho nên khi muốn tác động nhiều, sâu xa đến
4
nhận thức, tư tưởng tình cảm của người nghe thì hình thức hàm ngôn thường
thích hợp hơn, có hiệu quả hơn hình thức hiển ngôn" [81,116]. Hơn thế, cách
nói hàm ngôn là cách nói cho phép chúng ta biểu đạt rất nhiều về nội dung so
với cách nói hiển ngôn. Đó là chưa kể, nói hàm ngôn người nói sẽ không chòu
trách nhiệm về hành vi ngôn từ của mình.
Thực tế cho thấy, nghóa hàm ngôn nhiều khi rất quan trọng. Chưa
hiểu được nghóa hàm ngôn của một câu nói thì coi như chưa hiểu được câu
nói đó. Mà nghóa hàm ngôn lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.
Xét một số truyện cười tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy nghóa hàm ngôn
được tạo nên bằng những phương thức rất đa dạng, mặt khác, nó lại phụ
thuộc sâu sắc vào hoàn cảnh giao tiếp. Cho nên việc tìm hiểu các phương
thức cấu tạo nên hàm ngôn là một vấn đề phức tạp nhưng không kém phần
lí thú. Bởi thực tế cuộc sống rất phong phú và sinh động nên hàm ngôn
cũng biến hoá khôn lường. Hơn đâu hết, câu nói "ngôn ngữ chính là cuộc
sống" là ở chỗ này. Nói rõ hơn, cuộc sống có bao nhiêu cung bậc, bao
nhiêu màu sắc thì ngôn ngữ cũng có bấy nhiêu cung bậc diễn đạt.
Vì những điều sơ lược vừa đề cập ở trên, chúng tôi chọn "Một số
phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt" làm đề tài nghiên
cứu. Cần thấy đây là vấn đề phức tạp và trải dài trên nhiều bình diện, nhiều
ngành khoa học khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn thạc só, chúng tôi
không có tham vọng đưa ra tất cả các phương thức tạo hàm ngôn mà chỉ đi

vào tìm hiểu những phương thức tạo hàm ngôn phổ biến nhất trong truyện
cười tiếng Việt.
2. Lòch sử vấn đề
2.1. Có rất nhiều nhà ngôn ngữ khi nghiên cứu về ngôn ngữ học đã bàn
đến vấn đề nghóa hàm ngôn và các thuật ngữ khác như nghóa hiển ngôn,
tiền giả đònh, hàm ý Rải rác trên một số sách ngôn ngữ và tạp chí chuyên
ngành, người ta cũng đưa ra vài cách tạo ra hàm ngôn. Tuy nhiên, chưa có
tác giả nào đưa ra một cách đầy đủ và có hệ thống về các phương thức tạo
5
hàm ngôn trong văn bản tiếng Việt nói chung, trong truyện cười tiếng Việt
nói riêng.
Tại đây, chúng ta thử lần lượt điểm qua một số công trình nghiên
cứu liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của luận văn này.
Hồ Lê trong "Quy luật ngôn ngữ" [60,58], đã đề cập đến vấn đề ý
nghóa hiển hiện và ý nghóa hàm ẩn trong phát ngôn. Ông đã phân loại ý
nghóa hàm ẩn thành ý nghóa hàm ẩn ngữ huống và ý nghóa hàm ẩn ngôn từ;
ý nghóa hàm ẩn hạn chế, ý nghóa hàm ẩn tự do và ý nghóa hàm ẩn dự cảm. ý
nghóa hàm ẩn lại được tác giả phân tích ra thành hàm nghóa và hàm ý.
Ngoài ra, ông còn nêu lên phương thức hiển ngôn và phương thức hàm
ngôn và đặt chúng vào trong những công thức tổng quát.
Trong công trình "Tính quy luật của hệ ngôn ngữ liên đối tượng"
[61,59], Hồ Lê đề cập đến vấn đề tiền giả đònh nhưng là tiền giả đònh của
lời. Theo tác giả, "tiền ý" + "tiền nghóa" chính là tiền giả đònh của lời. Ông
còn đề cập đến mối quan hệ giữa hàm nghóa, hàm ý và tiền giả đònh của lời.
"Từ ngữ nghóa của một số kết cấu ngôn từ nào đó suy ra "tiền nghóa"+ " tiền ý"
không phải là SUY XUÔI mà là SUY NGƯợC. Thành ra, có thể nói: Sự suy
xuôi thì tìm ra hàm nghóa, hàm ý của lời; còn sự suy ngược thì tìm thấy tiền giả
đònh của lời".
Cách đặt vấn đề của Hồ Lê trong hai công trình đề cập ở trên có
nhiều sáng tạo, trong đó đáng chú ý là tác giả đã nêu rõ được bản chất của

vấn đề hàm ngôn. Tuy nhiên, tác giả đưa ra quá nhiều thuật ngữ và nhiều
khi hệ thuật ngữ của ông không mang tính tiết kiệm cho nên rất khó theo
dõi. Vả lại, dường như tác giả không có ý đònh phân biệt hai cấp độ phát
ngôn và văn bản, điều này cũng là một thử thách lớn đối với ai muốn vận
dụng bộ máy khái niệm của tác giả để nghiên cứu.
Trong công trình "Tiếng Việt- mấy vấn đề ngữ âm- ngữ pháp, ngữ
nghóa", Cao Xuân Hạo đã đặt ra vấn đề nghóa hiển ngôn và nghóa hàm ẩn.
Theo ông nghóa hàm ẩn nhiều khi có vai trò quan trọng hơn nghóa hiển
6
ngôn, bởi nó có thể thông báo cho người nghe nhiều điều mà không có
trong nghóa nguyên văn. Ông còn đưa ra khái niệm về tiền giả đònh và hàm
ý. Muốn hiểu được hàm ý và tiền giả đònh thì người nghe phải có những sự
suy diễn khác nhau. Sau đó tác giả đi vào phân tích sự thể hiện của tiền
giả đònh và hàm ý trong ngôn ngữ như: tiền giả đònh trong câu, tiền giả
đònh trong từ; hàm ý của những từ tình thái, hàm ý của một số phụ từ. Ông
tán thành quan điểm của một số tác giả khi cho rằng hàm ý bao gồm hai
loại: hàm ý ngôn ngữ và hàm ý hội thoại. Theo tác giả hàm ý hội thoại
chính là hàm ngôn. Dựa trên nguyên tắc công tác hội thoại của Grice, ông
miêu tả tỉ mỉ các phương châm hội thoại và kết luận rằng: trong giao tiếp,
có rất nhiều nguyên nhân khiến cho người nói vi phạm phương châm hội
thoại. Có thể là do không nắm được các cấu trúc ngôn ngữ, các quy luật
ngôn ngữ nên người nói đã vô tình vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại,
nhưng cũng có khi người nói cố ý nhằm thể hiện điều muốn nói hoặc giả vì
tôn trọng phương châm này mà người nói lại vi phạm phương châm khác.
Chính sự vi phạm ấy đã làm nảy sinh hàm ý, đôi khi còn làm cho sự giao
tiếp lệch lạc đi.
Xin lưu ý, ý kiến của Cao Xuân Hạo có nhiều điểm mới. Như chúng
ta đều biết, Grice chỉ thừa nhận là hàm ngôn khi chúng chỉ là kết quả cố ý
của chủ thể phát ngôn, còn một ý nghóa hàm ẩn do "vụng về" hoặc do tương
tác ngữ cảnh nảy sinh, H.P. Grice đều gạt ra ngoài đối tượng nghiên cứu.

Nhưng như Trònh Sâm đã chỉ ra, trong giao tiếp, thật khó lòng phân biệt hàm
ngôn nào là do chủ đích, hàm ngôn nào là không do chủ đích: tức là nói theo
H.Grice, làm sao biết hàm ngôn nào là non natural meaning, hàm ngôn nào
thuộc natural meaning [89, 92]. Chúng tôi sẽ khai thác vấn đề này và coi việc
vi phạm phương châm hội thoại là một trong những chiến lược giao tiếp, là
một phương thức tạo hàm ngôn rất đắc đòa.
Có thể nói, đã có rất nhiều tác giả đề cập đến sự vi phạm nguyên
tắc công tác hội thoại làm nảy sinh hàm ngôn của Grice, tuy nhiên có lẽ
7
đây là tác phẩm miêu tả tỉ mỉ nhất, kó lưỡng nhất. Điều quan trọng hơn là
việc tác giả đưa ra lí do của hàm ngôn, đó là những nhân tố chủ yếu đưa
đến việc sử dụng hàm ngôn. Và khẳng đònh: "Hàm ngôn là một sản phẩm
của hai xu hướng cố hữu của con người- xu hướng chơi chữ và xu hướng
thẩm mó- vốn rất gần nhau trong thế giới tâm lí: hàm ngôn cũng là một trò
chơi chữ như "chơi chữ", và chơi chữ cũng đã bắt đầu là một nghệ thuật ".
Vậy thì hàm ngôn cũng là một nghệ thuật.
Trong "Câu trong tiếng Việt", Cao Xuân Hạo (chủ biên) cũng đã
bàn đến vấn đề hiển ngôn, hàm ngôn và tiền giả đònh trong câu.Theo tác
giả thì hiển ngôn bao gồm tiền giả đònh và hiển nghóa, còn hàm ngôn thì
không được hiểu trực tiếp qua câu chữ mà phải suy ra từ nguyên văn, từ
các nghóa trong cấu trúc và từ ngôn cảnh. Trong hàm ngôn có hàm nghóa
và ẩn ý.
Như vậy, ở đây có sự khác biệt trong quan niệm, trong công trình
trước đây, Cao Xuân Hạo cho rằng: ý nghóa hàm ẩn= tiền giả đònh+ hàm ý,
trong cuốn sách sau (chủ biên), tác giả lại chủ trương: hiển ngôn= tiền giả
đònh+ hiển nghóa. Có thể nói rằng, chúng tôi không đủ tri thức để nhận
đònh về sự chọn lựa không nhất quán này. Tuy nhiên, để tiện làm việc,
chúng tôi chấp nhận cách lí giải trước.
Hoàng Tuệ kế thừa quan điểm của các nhà ngôn ngữ học nước
ngoài như Ducrot, Paul Grice, Catherine Kerbrat- Orecchioni để đưa ra các

thuật ngữ về hiển ngôn, hàm ngôn, tiền giả đònh.
Dẫn theo cách phân tích của Ducrot, ông đã xem hiển ngôn là nghóa
trên bề mặt của phát ngôn trong cấu tạo từ vựng và cú pháp của nó. Tiền
giả đònh là nghóa không có quan hệ trực tiếp với phát ngôn mà nó là cái
tiền đề để xây dựng phát ngôn, nghóa tiền giả đònh và nghóa ẩn ý tạo nên
hàm ngôn.
Trong cuốn "Ngữ dụng học" [27,25], Nguyễn Đức Dân có đề cập đến
các phương châm hội thoại của H.P. Grice: phương châm về lượng, phương
8
châm về chất, phương châm cách thức và phương châm quan hệ. Theo tác giả,
khi giao tiếp có trường hợp vi phạm không cố ý các phương châm này. Đó là
những tình huống mà các phương châm hội thoại không hoà hợp với nhau.
Tuy nhiên, đôi khi vì tôn trọng phương châm này lại phải vi phạm phương
châm khác hoặc người nói cố tình vi phạm một trong các phương châm này để
thể hiện điều mình muốn nói mà lại không phải trực tiếp nói ra. Và như thế
thì khai thác các nguyên tắc hội thoại cũng là một cơ sở quan trọng để tạo
hàm ngôn.
Trong cuốn sách "Giáo trình nhập môn lô gích hình thức" [31,37],
Nguyễn Đức Dân cũng đã đề cập đến một số phương thức tạo hàm ngôn
như suy luận, lập luận. Suy luận logic bao gồm suy luận diễn dòch và suy
luận quy nạp, suy luận tương tự. Suy luận dùng cho cả người lập văn bản
cũng như người tiếp nhận văn bản. Bởi vì suy luận rất có giá trò trong việc
xây dựng cũng như giải mã hàm ngôn. Đặc biệt, tác giả còn đưa ra hệ
thống lí thuyết lập luận. Có thể nói đây là vấn đề rất mới mẻ và lí thú,
nhất là hệ thống lí lẽ chung, hay còn gọi là những lẽ thường (topos). Những
lẽ thường có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hàm ngôn cũng như
việc hiểu hàm ngôn của văn bản.
Trong công trình "Lô gích và tiếng Việt" [26], Nguyễn Đức Dân đã
đưa ra những thuật ngữ có liên quan đến hàm ngôn và phân tích mối quan
hệ giữa chúng, ông dùng thuật ngữ hiển ngôn để đối lập với hàm ngôn.

Theo ông thì hàm ngôn bao gồm tiền giả đònh và hàm ý. Tiền giả đònh có
hai loại là: tiền giả đònh ngữ nghóa và tiền giả đònh ngữ dụng. Hàm ý có hai
loại là hàm ý ngôn ngữ và hàm ý ngữ dụng (Nếu hàm ý của một phát ngôn
được hình thành trong một tình huống giao tiếp cụ thể thì gọi là hàm ý hội
thoại hay hàm ý ngữ dụng). Sau đó tác giả đi vào nghiên cứu hàm ý của
những câu trỏ quan hệ nhân- quả có các cặp từ nối như: nếu thì; vì nên;
hễ là Loại câu kiểu này thường mang nghóa tường minh nhưng đôi khi
có những câu lại chứa đựng hàm ý. Người nghe muốn nhận biết được hàm
9
ý của những câu như vậy thì phải thông qua sự suy luận. Và điều kiện cần
để một câu nhân- quả có hàm ý là người nghe thấy ngay điều hiển nhiên
đúng ở một vế nào đó của nó.
Khi đánh giá cao vai trò của lập luận trong giao tiếp, trong bài viết
về "Phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lí", Nguyễn Đức Dân và Lê
Tô Thuý Quỳnh đưa ra hai phương thức lập luận chính như sau: lập luận
dùng đúng đắn lo gích hình thức và lập luận không hình thức dựa trên
những lí lẽ chung (lẽ thường, topos). Theo hai tác giả thì lập luận dùng
đúng đắn lo gích hình thức có sức thuyết phục nhất. Tuy nhiên, trong cuộc
sống người ta lại hay dùng lập luận dựa trên những lí lẽ chung. Hai tác giả
đã đi vào tìm hiểu hệ thống lí lẽ chung của người Việt và phương thức lập
luận dùng những lí lẽ ngôn từ trong tranh cãi pháp lí.
Trong cuốn "Ngôn ngữ học: Lónh vực- Khái niệm- Khuynh hướng"
của ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nguyễn Đức Dân có một phần viết
về tiền giả đònh và tiêu điểm. Theo ông, khái niệm tiền giả đònh và tiêu
điểm được dùng để giải thích ngữ nghóa của câu qua cấu trúc nổi. Giữa
tiêu điểm và tiền giả đònh có mối quan hệ với nhau trong câu hỏi và câu
đáp. Khi tiêu điểm của một câu thay đổi thì tiền giả đònh của câu cũng
thay đổi. Như thế sẽ tạo ra hiện tượng mơ hồ về tiền giả đònh.
Trong nhận thức của chúng tôi sự mơ hồ về tiền giả đònh hay vi
phạm tiền giả đònh cũng là một cơ sở tạo hàm ngôn.

Công trình "Đại cương ngôn ngữ học- Ngữ dụng học" của Đỗ Hữu
Châu đã đề cập đến nhiều vấn đề có giá trò thiết thực đối với luận văn của
chúng tôi. Trong chương IV "Lí thuyết lập luận", tác giả chỉ ra bản chất ngữ
dụng của lập luận cũng như đặc tính của quan hệ lập luận. Đặc biệt là việc
xác lập các lẽ thường (topos) trong lập luận. Trong luận văn, chúng tôi đã vận
dụng vấn đề này vào việc xác lập phương thức tạo hàm ngôn là: phương thức
lập luận và hàm ngôn dựa trên những lẽ thường.
10
Chương VI với tiêu đề "Y# nghóa hàm ẩn và ý nghóa tường minh (hiển
ngôn)", tác giả đã dựa trên quan điểm của Grice về ý nghóa hàm ẩn để
phân loại ý nghóa hàm ẩn, các phương thức thực hiện ý nghóa tường minh và
ý nghóa hàm ẩn và bản chất các cơ chế suy ý đi từ ý nghóa tường minh đến
ý nghóa hàm ẩn [11,361]. Theo ông, ý nghóa hàm ẩn bao gồm hàm ngôn và
tiền giả đònh. Từ đó ông phân tích quan hệ giữa tiền giả đònh và hàm ngôn
rồi tiến hành phân loại hàm ngôn và phân loại tiền giả đònh.
Trong "Dụng học Việt ngữ", Nguyễn Thiện Giáp đã đề cập tới nhiều
vấn đề liên quan đến đề tài như: chiến lược giao tiếp, nghóa hàm ngôn và
nghóa hàm ẩn, tiền đề, nguyên tắc hợp tác và hàm ý trong hội thoại. Trong
đó chiến lược giao tiếp, phương thức tạo tiền đề và phương châm hội thoại
là những phương thức tạo hàm ngôn rất hữu hiệu.
Khi đề cập đến khái niệm tiền giả đònh và phân loại tiền giả đònh,
George Yule trong cuốn "Dụng học" cho rằng có tiền giả đònh từ vựng và
tiền giả đònh cấu trúc. Tác giả còn đưa ra cách hiểu thế nào là hàm ý, đó là
cái thông báo nhiều hơn cái được nói ra. Dựa trên nguyên tắc cộng tác của
Grice, ông chia hàm ý thành hai loại: hàm ý hội thoại và hàm ý quy ước.
Hàm ý hội thoại bao gồm hàm ý hội thoại dùng chung, hàm ý hội thoại
thang độ, hàm ý hội thoại dùng riêng. Ông cho rằng hàm ý hội thoại phụ
thuộc vào nguyên tắc cộng tác của Grice, tức là dựa trên các phương châm
hội thoại như: phương châm về chất, phương châm về lượng, phương châm
cách thức và phương châm quan hệ. Còn hàm ý quy ước không liên quan

đến nguyên tắc cộng tác mà "liên quan đến những từ riêng biệt và được rút
ra từ những ý nghóa phụ thêm có được truyền đạt khi những từ này được
dùng" [124,92], ví dụ: nhưng, ngay, cả
Khi tìm hiểu các khái niệm như: tiền giả đònh và hàm ý, trong cuốn
""Phân tích diễn ngôn", Gillian Brown và George Yule cho rằng tiền giả
đònh là "cái mà người nói xem là cơ sở chung của những người cùng tham
gia hội thoại" [38,55]. Hai tác giả đã chia hàm ý ra làm hai loại là hàm ý
11
hội thoại và hàm ý quy ước như George Yule đã phân loại trong cuốn
"Dụng học".
Trong công trình "Lô gích ngôn ngữ học", Hoàng Phê cho rằng khi
nghiên cứu ngữ nghóa học nói chung và ngữ nghóa học tiếng Việt nói riêng
thì trước tiên phải nghiên cứu những vấn đề ngữ nghóa của từ. Tuy nhiên,
ngữ nghóa của từ không tách rời ngữ nghóa của câu và ngữ nghóa của văn
bản. Điều đó có nghóa là phải đặt từ vào trong các đơn vò lớn hơn mới thấy
được đầy đủ những nét nghóa tinh tế và phức tạp của từ. Tác giả đi sâu vào
vấn đề hàm ngôn, hiển ngôn, tiền giả đònh, hàm ý và ngụ ý cũng như phân
tích cụ thể mối quan hệ giữa các thuật ngữ trên. Đồng thời, ông áp dụng
phương pháp "giải toán ngữ nghóa" để phân tích những lời nói có hàm ngôn
trong tác phẩm Sống mòn của Nam Cao.
Lê Đông có bài viết về vai trò của hư từ như: "Ngữ nghóa- ngữ dụng
của hư từ tiếng Việt: Y# nghóa đánh giá của các hư từ". Theo tác giả thì hư
từ có thuộc tính đánh giá, là phương tiện để đưa vào câu, vào văn bản
những nội dung hàm ẩn khác nhau, tham gia vào việc tạo nên chiều sâu
của văn bản và tổ chức, liên kết các kiểu nội dung hiển ngôn. Như vậy,
theo quan điểm ngữ nghóa- ngữ dụng, tác giả đã miêu tả và xác đònh khá
rõ ý nghóa đánh giá của hư từ và vai trò của nó trong việc hình thành nghóa
hàm ẩn.
Trong bài "Phương thức liên kết của từ nối", Nguyễn Đức Dân và Lê
Đông cũng đưa ra các phương thức liên kết của từ nối như: liên kết giữa

hiển ngôn và hàm ngôn; liên kết giữa hai hàm ngôn và liên kết giữa hàm
ngôn và tiền giả đònh. Hai tác giả nhận đònh: "Trong tiếng Việt, hư từ có
một vò trí khá quan trọng", đặc biệt trong việc xây dựng lối nói có hàm
ngôn. Khi bàn về vai trò của hư từ, trong bài viết ""Tiểu từ tình thái cuối
câu nhé
: Hàm ý của người nói", Nguyễn Thò Ngọc Hân đã đi vào tìm hiểu
vai trò tạo hàm ngôn của tiểu từ "nhé" khi nó đứng ở cuối câu.
12
Trong bài "Ngữ nghóa ngữ dụng của cặp liên từ lo gic
Nếu thì "[92,7], Phạm Văn Tình đã khai thác giá trò lập luận của cặp liên
từ này theo hướng ngữ dụng (vấn đề này được Nguyễn Đức Dân đề cập
đến trong [26]). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là việc nhận đònh về sự
thể hiện của các topos trong giao tiếp và vai trò của tiền giả đònh trong
việc hình thành các topos. Tác giả kết luận: "Hiệu lực lập luận của các
phát ngôn chủ yếu được suy ra một cách ngầm ẩn. Như vậy, hàm ngôn chính
là giá trò cơ bản của các lập luận có kết tử". Khi đi sâu vào "Tỉnh lược yếu
tố cấu trúc- Một thủ pháp trong truyện cười" [93,7], tác giả đã đề cập đến
vai trò của tỉnh lược trong việc hình thành hàm ngôn. Việc tỉnh lược một yếu
tố ngôn ngữ nào đó đã có ở phát ngôn trước mà dựa vào ngữ cảnh có thể
khôi phục được sẽ giúp cho văn bản ngắn gọn, súc tích hơn. Tuy nhiên, nếu
tỉnh lược không đúng chỗ, không biết cách thì nó lại là con dao hai lưỡi khi
tạo ra những câu mơ hồ, câu tối nghóa mà người đọc có thể hiểu theo những
cách khác nhau. Cũng theo tác giả, "Im lặng- Một dạng tỉnh lược ngữ dụng"
[94,26] cũng có thể chứa đựng một ý đồ có chủ ý. Có thể là người nói chưa
tìm ra cách thích hợp để trao lời, không muốn tiếp tục cuộc hội thoại hoặc
để dồn người khác vào một thế lúng túng. Do đó, đôi khi im lặng có giá trò
hơn rất nhiều lần so với lời nói ra.
Như vậy, tỉnh lược không chỉ có vai trò quan trọng trong việc tạo nên
nghóa hàm ẩn trong truyện cười mà còn trong giao tiếp nói chung.
Bàn về "lẽ thường", Lê Bá Miên cũng có bài "Lẽ thường trong giao

tiếp, cơ sở của các hàm ngôn (hay hàm ý)". Theo tác giả, trong giao tiếp
thông thường hay giao tiếp nghệ thuật người ta thường dùng các hàm ngôn.
Hàm ngôn thường phụ thuộc sâu sắc vào hoàn cảnh giao tiếp mà cơ sở là
các lẽ thường (topos), "lẽ thường là những tiền đề, là cái phông chung để
người nói và người nghe hiểu nhau" [69,83]. Tác giả đưa ra một số lẽ
thường của hàm ẩn không tự nhiên- một thuật ngữ của H.Grice như đã
nhắc ở trên.
13
Trònh Thanh Trà có bài viết về "Hành vi điều khiển trong sự kiện lời
nói có hàm ẩn" cho rằng: "Lời nói điều khiển hàm ẩn là sự kiện lời nói có
hành vi chủ hướng điều khiển được thực hiện dưới hình thức của một hành
vi ở lời khác nhưng lại có hiệu lực gián tiếp điều khiển" [114,9]. Đó là hành
vi điều khiển gián tiếp. Để thực hiện hành vi loại này có nhiều cách khác
nhau. Tác giả chỉ đi vào các sự kiện lời nói có hành vi chủ hướng điều
khiển được thực hiện gián tiếp thông qua hành vi hỏi. Theo chúng tôi thì
loại câu hỏi là loại câu được sử dụng nhiều nhất trong việc hình thành hàm
ngôn. Bởi vì câu hỏi không phải chỉ dùng với mục đích là để hỏi mà nó
còn được dùng với nhiều mục đích khác : hỏi để chửi, hỏi để thanh minh,
hỏi để khẳng đònh, hỏi để khen, chê
Huỳnh Công Hiển trong "Điều kiện- Tiền đề của ý nghóa hàm ẩn
trong phát ngôn [48], trên cơ sở vận dụng bộ máy khái niệm của Hồ Lê đã
đi vào phân tích hai thuật ngữ: ý nghóa hiển hiện và ý nghóa hàm ẩn. Theo
tác giả thì ý nghóa hiển hiện có hiển nghóa và hiển ý; ý nghóa hàm ẩn có
hàm nghóa và hàm ý. Tác giả đã phân biệt ý nghóa hiển hiện và ý nghóa
hàm ẩn trên các phương diện như: sự thể hiện, môi trường tồn tại, mục đích
sử dụng, con đường lónh hội. Với quan điểm "con đường lónh hội" là quan
trọng nhất, tác giả đã đưa ra những điều kiện để hình thành nghóa hàm ẩn
như: điều kiện về cơ chế nội tại của phát ngôn (gồm điều kiện về cấu trúc
ngôn ngữ và điều kiện từ vựng- ngữ nghóa); nhóm các điều kiện nằm ngoài
cơ chế nội tại của phát ngôn (gồm điều kiện tiền giả đònh bách khoa, điều

kiện ngữ huống, điều kiện hành vi ngôn ngữ ).

2.2. Bên trên, luận văn đã điểm qua một số ý kiến quan yếu liên quan đến
đề tài từ cách tiếp cận lí thuyết và một số miêu tả trên ngữ liệu tiếng Việt.
Phần sau sẽ xem xét vấn đề từ góc nhìn những thủ pháp miêu tả và việc
giảng dạy hàm ngôn.
14
Với bài "Những phương thức cấu tạo hàm ngôn trong hội thoại", Đỗ
Thò Kim Liên đã đưa ra điều kiện để xét hàm ngôn và một số phương thức
tạo hàm ngôn trong hội thoại. Theo tác giả, có ba điều kiện để xét hàm
ngôn đó là: Dựa vào quan hệ phi cấu trúc giữa các từ trong phát ngôn, dựa
vào những quan hệ bất bình thường trong phát ngôn và dựa vào mối quan
hệ như thế nào đó giữa người nói và người nghe trong ngôn cảnh, ngữ cảnh
giao tiếp cụ thể [64,60]. Sau đó tác giả đưa ra những phương thức cấu tạo
hàm ngôn như: phương thức chơi chữ, phương thức thay đổi vò trí các từ
trong câu, phương thức suy luận
Theo chúng tôi, bài viết đã kế thừa ý kiến của Hồ Lê bước đầu tiếp
cận được một số phương thức tạo hàm ngôn thường gặp. Tuy nhiên trên
thực tế trong hội thoại còn rất nhiều phương thức tạo hàm ngôn khá đa
dạng và phức tạp. Đó là một trong những vấn đề mà chúng tôi quan tâm.
Với bài viết "Hàm ngôn và dạy hàm ngôn" [67], Lê Xuân Mậu đã
nhận diện hàm ngôn và đề cập đến vấn đề dạy hàm ngôn trong trường phổ
thông trung học hiện nay. Theo tác giả thì việc dùng các thuật ngữ giữa
các nhà ngôn ngữ học thiếu thống nhất. Chẳng hạn, trong ngôn ngữ dùng
thuật ngữ hiển ngôn và hàm ngôn còn trong sách giáo khoa lại dùng nghóa
tường minh và nghóa hàm ẩn. Mặt khác, việc chọn và phân bố kiến thức
dường như thiếu tinh lọc. Các mẫu câu đưa ra còn xa lạ đối với học sinh
dẫn đến việc học sinh không biết giải mã các hàm ngôn trong cuộc sống.
Điều thiếu sót nữa là trong việc thực hành, các thí dụ lấy từ trong các tác
phẩm văn học thiếu các thông tin về tình huống giao tiếp, học sinh sẽ

không có dữ kiện để giải bài tập. Từ thực trạng đó, tác giả đưa ra một số ý
kiến về việc dạy hàm ngôn ở bậc phổ thông trung học là nên dạy hàm
ngôn hướng tới cả người nói và người nghe. Tức là người nói biết tạo ra
hàm ngôn còn người nghe biết nhận diện hàm ngôn cũng như biết giải mã
hàm ngôn đó. Quả vậy, hàm ngôn, bản thân nó đã là một vấn đề phức tạp
và việc giảng dạy hàm ngôn lại càng phức tạp hơn.
15
Lê Dân cũng đề cập đến vấn đề dạy hàm ngôn trong chương trình phổ
thông trung học. Tuy nhiên, tác giả chỉ đi vào một khía cạnh nhỏ là "Tục ngữ
và dạy hàm ngôn" [20,33]. Theo tác giả, việc nhận đònh hàm ngôn trong tục
ngữ chính là nghóa bóng và nghóa khái quát là chưa đúng. Vì hàm ngôn
thường phụ thuộc vào phát ngôn cụ thể mà tục ngữ là những câu nói đã
đònh hình, có nghóa xác đònh. Cho nên, muốn tục ngữ có hàm ngôn thì phải
đặt vào những hoàn cảnh phát ngôn cụ thể chứ không phải là nghóa bóng
hay nghóa khái quát của tục ngữ. Nói rõ hơn, hàm ngôn hay ý nghóa hàm
ẩn là vấn đề ngữ dụng, nó gắn liền với ngữ cảnh giao tiếp.
Trong "Tài chơi chữ của Nguyễn Khuyến" [97,10], Đào Thản đã xem
chơi chữ không chỉ "làm xiếc ngôn từ" mà còn là một biện pháp tu từ. Khi
khai thác hiện tượng này, ta thường gặp hai tầng nghóa: "nghóa mặt chữ và
nghóa bóng, nghóa ngầm". Tác giả đã phân tích một số biện pháp chơi chữ
mà Nguyễn Khuyến đã sử dụng trong thơ. Thiết nghó, biện pháp chơi chữ
không phải chỉ được vận dụng trong thơ mà trong cuộc sống hàng ngày, đó
là một phương thức cấu tạo hàm ngôn rất hữu hiệu.
Trong bài viết "Tiếng cười trong phong cách ngôn ngữ của Bác. Qua
các tác phẩm bằng tiếng Việt" [120,1], Bùi Khắc Viện cho rằng biện pháp
gây cười được chia làm hai loại: phi ngôn ngữ học và ngôn ngữ học. Biện
pháp phi ngôn ngữ học gồm những thao tác: lựa chọn, sắp xếp các tình tiết
và bình luận. Biện pháp này có tính chất phổ quát có thể áp dụng cho tất
cả các ngôn ngữ. Biện pháp ngôn ngữ học là biện pháp đặc thù nhằm khai
thác những đặc điểm riêng của từng ngôn ngữ để gây cười. Tác giả đã liệt

kê ra một số biện pháp gây cười mà Bác sử dụng để tạo hàm ý như: kó
thuật tương phản, chơi chữ Văn thơ của Bác lời ít ý nhiều, dễ hiểu mà
sâu sắc, đặc biệt là những câu châm biếm, hài hước.
Về mặt lí thuyết, sự lưỡng phân thành hai biện pháp ngôn ngữ học và
phi ngôn ngữ học cần phải xem xét lại. Tuy nhiên, về mặt phân tích cụ thể,
16
bài viết có nhiều khám phá, trong đó kó thuật phân tích hàm ngôn đáng được
chú ý.
Khi nghiên cứu về "Nghệ thuật tổ chức văn bản trong truyện cười Bác
Ba Phi" [88], Trònh Sâm đã coi văn bản như một chỉnh thể giao tiếp nghệ
thuật và tiến hành mô hình hoá chúng. Tác giả đã chỉ ra một số thủ pháp
nghệ thuật về tổ chức văn bản. Qua khảo sát 56 truyện cười Bác Ba Phi, tác
giả tìm được 4 cấu trúc chính: cấu trúc tuyến tính, cấu trúc đảo trình tự, cấu
trúc song hành và cấu trúc hỗn hợp và 3 biện pháp tổ chức văn bản bao trùm
lên tất cả các cấu trúc vừa nhắc là: thủ pháp chuẩn bò ngữ cảnh, thủ pháp
khuyếch đại và thủ pháp tăng tiến. Trong bài viết, tác giả đã tập trung phân
tích, biện giải hai cấu trúc là cấu trúc tuyến tính và cấu trúc đảo trật tự.
Cũng về truyện cười Bác Ba Phi, Trần Hoàng lại đi vào khía cạnh
"Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian Nam Bộ qua truyện kể Ba
Phi" [53,8]. Tác giả rút ra một số biện pháp gây cười là ngoa dụ (cường
điệu, phúng dụ, khoa trương) và một số biện pháp tu từ văn bản (đó là
phương thức mở rộng), đặc biệt nhất vẫn là giọng điệu thuần khẩu ngữ
Nam Bộ (thể hiện qua việc dùng các từ xưng hô, tiểu từ, từ đòa phương,
quán ngữ, thành ngữ, cách ví von, miêu tả ). Có thể nói rằng những
phương thức mà tác giả đã nêu trên không chỉ tạo nên tiếng cười trong
truyện cười Ba Phi mà cũng có thể được coi là các phương thức tạo nên
tiếng cười nói chung trong cuộc sống. Bởi vì chúng có khả năng tạo nên
một giá trò hàm ẩn khá lí thú.
Trong "Hành trình vào xứ sở cười", Vũ Ngọc Khánh đã đi vào tìm
hiểu về tiếng cười của người Việt. Theo tác giả có ba phương pháp chính

gây cười trong các truyện cười của người Việt Nam, đó là: Biến hoá ngôn
ngữ để gây cười (gồm chơi chữ và nói lái), cưỡng chế ngôn ngữ để gây cười
(như: gài bẫy đối tượng, tạo bất ngờ, những câu chuyện phi lí, cường điệu)
và tạo trò đùa và mẫu nhân vật để gây cười [55,30]. Tác giả minh chứng
điều đó qua một số chuyện cười tiêu biểu.
17
Sở dó chúng tôi đưa vấn đề này ra bởi vì hàm ngôn thể hiện sâu sắc
nhất trong truyện cười. Hay nói đúng hơn thì truyện cười nào cũng chứa đựng
hàm ngôn. Trong số những phương thức tạo hàm ngôn mà chúng tôi đưa ra
cũng có một số phương thức liên quan đến phương pháp gây cười mà tác giả
đã đề cập.
Khi đề cập đến "Nói ngược, nói mát và việc hiểu nghóa văn bản"
[16,9], Mai Ngọc Chừ cho rằng: muốn để một từ nào đó được hiểu với ý
nghóa ngược lại, người ta thường kéo dài giọng và nhấn mạnh các từ đó để
gây sự chú ý của người nghe. Các từ ngữ được dùng để nói ngược, nói mát
thường là tính từ. Quả thật, trong cuộc sống có những cách nói ngược thật
dễ hiểu (như những bài hát đồng dao, các bài vè nói ngược) nhưng cũng có
những cách nói ngược không dễ gì hiểu ngay được nếu không dựa vào
trọng âm hay vào từ ngữ.
Theo chúng tôi thì dựa vào trọng âm và từ ngữ để hiểu những câu
nói ngược, nói mát là chưa thực sự đầy đủ, mà điều quan trọng nhất có lẽ
vẫn là ngữ cảnh. Vì hàm ngôn phụ thuộc sâu sắc vào ngữ cảnh, bao gồm
ngữ cảnh ngôn ngữ và ngữ cảnh văn hoá.
Với đề tài "Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn
ngữ Nguyễn Công Hoan" [42], Nguyễn Văn Hương đã dựa trên quan điểm
của một số nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước để nêu ra đònh nghóa về hàm
ngôn và phân tích mối quan hệ giữa thuật ngữ hàm ngôn và một số thuật
ngữ hữu quan như: hiển ngôn, tiền giả đònh, hàm ý. Sau đó tác giả vận dụng
vào nghiên cứu vai trò của hư từ đối với việc hình thành hàm ý trong ngôn
ngữ Nguyễn Công Hoan. Đề tài có giá trò thực tiễn, giúp cho chúng ta hiểu

sâu hơn những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan. Đặc biệt là những tác
phẩm giảng dạy trong chương trình phổ thông trung học.
Trong "Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt" [50], Hồ Lê- Lê Trung Hoa
đề cập đến ý nghóa của việc chơi chữ và cách ứng dụng. Hai tác giả đưa ra
13 kiểu chơi chữ trong tiếng Việt. Có những lối chơi chữ rất quen thuộc
18
thường dùng nên được mọi người biết đến như: nói lái, chơi chữ dựa vào từ
đồng âm, chơi chữ dùng trường nghóa, chiết tự Có những cách chơi chữ
khá độc đáo rất hiếm gặp như: chơi chữ sử dụng nghóa phái sinh của từ đa
nghóa Đặc biệt, hai ông còn đi vào tìm hiểu lối chơi chữ trong thành ngữ,
tục ngữ, ca dao và trong truyện Kiều.
Trong giao tiếp, thỉnh thoảng người nói thường chêm xen vào những
câu nói thông thường một vài thành ngữ, tục ngữ, một câu ca dao hay một
câu Kiều. Chính vì thế mà việc khai thác lối chơi chữ trên ngữ liệu dân
gian và truyện Kiều có vai trò rất quan trọng bởi vì chúng có một lượng
thông tin tương đối cao và hầu hết chúng đều chứa hàm ý. Như đã nói ở
trên, chúng tôi xem chơi chữ là một trong những phương thức tạo hàm
ngôn hữu hiệu mà luận văn sẽ đề cập đến.
2.3. Như vậy, trên bình diện lí thuyết cũng như trên bình diện phân
tích cụ thể, các công trình trên đây đã đề cập khá toàn diện đến hàm ngôn
và những vấn đề hữu quan. Trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, luận
văn sẽ đi vào cách thức tổ chức văn bản và cố gắng lược quy thành những
phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt.
3. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Hàm ngôn là một vấn đề phức tạp vẫn còn để ngỏ. Các nhà
nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm tòi và khám phá nó. Thực tế cho thấy, hiện
nay chưa có sự thống nhất về thuật ngữ này cũng như các thuật ngữ có liên
quan.
Luận văn của chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu các cách đònh nghóa của
các nhà ngôn ngữ về hàm ngôn và dó nhiên là cả các thuật ngữ có liên

quan đến hàm ngôn như: hàm ẩn, tiền giả đònh, hàm ý để từ đi đó đến
một cách hiểu tương đối bao quát nhất về hàm ngôn. Sau đó, chúng tôi tiến
hành phân loại hàm ngôn và làm sáng tỏ chức năng ý nghóa của nó.
Trên cơ sở này, luận văn tập trung đi vào nghiên cứu một số phương thức
hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt . Mỗi một phương thức, chúng tôi sẽ
19
đưa ra ví dụ minh họa rồi tiến hành miêu tả để thấy được cơ chế hoạt động của
nó. Có những phương thức, chúng tôi chỉ miêu tả sơ lược vì đó là những phương
thức khá quen thuộc, hơn nữa ví dụ cũng dễ nhận biết. Tuy nhiên, có những
phương thức chúng tôi phải đưa ra nhiều ví dụ và miêu tả tỉ mỉ vì đó là phương
thức mới, ít gặp hoặc cách hiểu hàm ngôn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác. Đó chính là những trường hợp phụ thuộc vào ngữ cảnh. Như chúng ta
đều biết, về nguyên tắc các loại văn bản nghệ thuật, các diễn ngôn hội
thoại đều có khả năng tạo hàm ngôn, nhưng phải thừa nhận do nhiều lí do
trong và ngoài ngôn ngữ, hầu hết truyện cười đều tập trung khá đều đặn
các phương thức hàm ngôn.
3.2. Về khái niệm truyện cười tiếng Việt, chúng tôi nhận thức như
sau: Đó là những văn bản mà trong tổ chức ngôn từ (hiểu theo nghóa rộng)
theo một cách thức nào đó để gây nên tiếng cười. Do vậy, truyện cười
được hiểu rất rộng, chứ không bó hẹp trong truyện cười dân gian. Đó cũng
là lí do giải thích vì sao chúng tôi sưu tập cả những ngữ liệu trong tác phẩm
văn chương lẫn truyện cười hiện đại. Nói rộng ra, hễ văn bản nào có chứa
các yếu tố gây cười do các phương tiện ngôn ngữ, bao gồm ở các cấp độ từ
ngữ và đến tổ chức văn bản đều là đối tượng khảo sát của luận văn này.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung đề tài trải dài trên một bình diện rộng, lại liên quan đến nhiều
chuyên ngành khác nên luận văn dùng nhiều phương pháp và thủ pháp khác
nhau.
Về phương pháp chung, hai phương pháp được vận dụng là phương

pháp phân tích hệ thống cấu trúc và phương pháp ngữ dụng. Chúng tôi
hình dung mỗi văn bản dù dài hay ngắn đều là một chỉnh thể, có một hệ
thống cấu trúc riêng, trong đó các cấu tố có quan hệ gắn bó với nhau.
Chính nhờ vào mối quan hệ này mà người thụ ngôn có thể giải mã được.
20
Về các thủ pháp, chúng tôi sử dụng thủ pháp miêu tả phân loại theo
hướng vừa phân tích vừa tổng hợp, tuỳ theo yêu cầu của việc khảo sát.
4.2. Nguồn tài liệu tham khảo
Tài liệu lí thuyết là các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ
trong nước và các tài liệu dòch của nước ngoài. Chủ yếu là các tài liệu về ngữ
dụng học.
Ngoài ra, nguồn dẫn liệu được sử dụng chính là các truyện cười Việt
như: Hành trình đến xứ sở cười, cười hở mười cái răng, chuyện vui chữ nghóa,
chuyện đố nhòn được cười, cười cong cả lưng, truyện cười dân gian Việt Nam
v.v. và một số truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề lí thuyết mà
thông qua những phân tích miêu tả cụ thể, sẽ khái quát một số phương
thức tạo hàm ngôn nhằm cung cấp thêm một cái nhìn toàn diện về cơ
chế tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt. Đây cũng là những gợi
ý tốt cho việc giảng dạy hàm ngôn, một vấn đề rất có ý nghóa ở nhà
trường phổ thông mà do nhiều lí do hiện nay rất được đội ngũ giáo viên
quan tâm chú ý. Từ đó, dựa vào các cơ chế tạo hàm ngôn này chúng ta
có thể sản sinh ra truyện cười.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Nguồn gốc các
cứ liệu trích liệu, luận văn được trình bày trong hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương này chúng tôi tổng quan các cách tiếp cận của các nhà ngôn
ngữ học để tìm hiểu về khái niệm về thuật ngữ hàm ngôn và các thuật ngữ

hữu quan như tiền giả đònh, nghóa hiển ngôn đồng thời, phân tích mối
quan hệ giữa ý nghóa hàm ngôn với các thuật ngữ đã nêu. Chúng tôi sẽ
tiến hành phân loại ý nghóa hàm ngôn, tìm hiểu về chức năng của nó cũng
như một số vấn đề về văn hoá ngôn ngữ học của ý nghóa hàm ngôn.
21
Chương 2: Một số phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi phân loại và miêu tả các phương thức
tạo hàm ngôn phổ biến. Nguồn ngữ liệu để phân tích miêu tả là các truyện
cười chính danh và một số văn bản tiếng Việt có chứa yếu tố gây cười.






22
Chương một:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG

1.1. Thuật ngữ hàm ngôn và các thuật ngữ hữu quan
Trong phần này, chúng tôi đi vào tìm hiểu thuật ngữ hàm ngôn và
một số thuật ngữ có liên quan như: hiển ngôn, tiền giả đònh, hàm ý
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nghóa hàm ngôn là nghóa
không hiện ngay ra trên bề mặt phát ngôn, đối lập với nghóa hiển ngôn là
nghóa hiện rõ từ hình thức bề mặt của phát ngôn. Paul Grice cho rằng: nói
một cách hiển ngôn là "nói một điều gì đó", nói một cách hàm ngôn là
"làm cho ai đó nghó tới một điều gì đó", Catherine Kerbart- Oreechioni
cũng ghi nhận: hiển ngôn là "cái người ta nói ra", còn hàm ngôn là "cái
người ta muốn nói mà không nói ra".
a) Theo Hoàng Tuệ [118,927], các cách nhận đònh bên trên đều

đúng và tương đối khái quát, ngắn gọn, dễ nhớ nhưng phải nhấn mạnh tới:
quan hệ mật thiết giữa hiển ngôn và hàm ngôn; sự đối lập giữa hiển ngôn
và hàm ngôn. Dựa vào đònh nghóa của Catherine Kerbart- Oreechioni,
Hoàng Tuệ phát biểu:
Tiền giả đònh bao gồm những thông tin tuy không được nói ra, nhưng
một cách tự động, được ghi vào phát ngôn, từ phát ngôn được suy ra.
Nghóa ẩn ý là những thông tin được chuyển đến bằng một phát ngôn,
nhưng sự hiện thực hoá chúng vẫn phải phụ thuộc vào những điều kiện của
tình huống cụ thể.
Nghóa ẩn ý + tiền giả đònh = hàm ngôn (điều không nói ra). Tuy
nhiên, tiền giả đònh và ẩn ý có sự khác nhau quan trọng. Nghóa hàm ẩn đòi
hỏi có sự giải mã đặc biệt. Ngoài mã ngôn ngữ phải có mã tâm lí xã hội,
mã văn hoá
23
b) Cao Xuân Hạo [44,468] đã đưa ra khái niệm về nghóa hiển ngôn
và hàm ngôn như sau: Mỗi câu nói đều truyền đạt đến người nghe một
thông báo nhất đònh. Thông báo này gồm hai phần:
Phần thứ nhất là những gì người nghe có thể trực tiếp nhận ra nhờ
nghóa nguyên văn (gồm có nghóa đen và một số nghóa bóng quen thuộc)
của những từ ngữ có mặt trong câu và nhờ những mối quan hệ cú pháp
giữa các từ ngữ ấy. Đó là nghóa hiển ngôn của câu nói.
Phần thứ hai là những gì không có sẵn trong nghóa nguyên văn của các
từ ngữ và trong những mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người
nghe thông qua một sự suy diễn: đó là nghóa hàm ẩn của câu nói.
Ta thấy mỗi câu nói, ngoài cái nội dung mà nó trực tiếp nói rõ ra bằng
từ ngữ (nghóa hiển ngôn), còn có thể thông báo cho người nghe nhiều điều
không thấy có trong nghóa nguyên văn của từ ngữ (nghóa hàm ẩn).
Nghóa hàm ẩn có một vò trí hết sức quan trọng trong sự giao tiếp bằng
ngôn ngữ. Nhiều khi nó còn quan trọng hơn cả nghóa hiển ngôn. Không hiểu
nghóa hàm ẩn của một câu nói là chưa thật sự hiểu câu nói đó.

Về khái niệm tiền giả đònh và hàm ý, tác giả nhận đònh:
Tiền giả đònh của một câu nói là một điều gì phải được giả đònh là
đã có trước khi nói câu nói đó, vì nếu không có điều này thì không thể có
câu nói đó được (câu nói đó sẽ trở thành phi lí hoặc không thể hiểu được).
Hàm ý của một câu nói là một điều gì mà khi nghe câu ấy, người
nghe phải rút ra như một hệ quả tất nhiên.
Tiền giả đònh và hàm ý được người nghe hiểu qua hai hướng suy
diễn:
- Tiền giả đònh là cái diễn ra trước khi nói hoặc đã có sẵn trong khi
nói câu nói ấy.
- Hàm ý là cái diễn ra hay phải có sau khi hoặc ngay khi câu ấy
được nói ra.
24
Tiền giả đònh và hàm ý có thể toát ra từ nghóa nguyên văn của cả
câu với sự đóng góp của ngữ cảnh và tình huống; nhưng bên trong câu có
những từ mà nghóa chứa đựng tiền giả đònh và hàm ý.
c) Cao Xuân Hạo, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất
Tươm gọi hiển ngôn là thông báo có thể được tiếp nhận ngay ở cái nghóa
bề mặt của câu nói, chỉ cần một ngữ cảnh để nắm được những sở chỉ cần
biết trong câu. Không có một ý lắt léo, một thâm ý nào ẩn náu trong câu.
Đó là một câu chỉ có "nghóa nguyên văn", một câu chỉ có nghóa hiển ngôn.
Cái làm cho người nghe tiếp nhận một thông báo với điều kiện giả
đònh là tiền đề của câu là có thật, là đúng. Những tiền đề được giả đònh là
đúng trong hiển ngôn gọi là tiền giả đònh của câu. Câu chỉ có nghóa đúng
hay sai khi tiền giả đònh là đúng. Những tiền đề được giả đònh là đúng
trong hiển ngôn gọi là tiền giả đònh của câu. Câu sẽ vô nghóa, vô giá trò,
không làm được gì trong chức năng giao tiếp khi tiền giả đònh của nó là
không có thật, là sai.
Tiền giả đònh không có giá trò thông báo, không thuộc nội dung của
hiển nghóa nhưng nó là điều kiện tiên quyết để hiển nghóa của câu có thể

đúng hay sai. Nếu bò vu oan một điều gì với một tiền giả đònh ngụy tạo thì
phải bác bỏ ngay cái tiền giả đònh ngụy tạo ấy chứ không được bác bỏ cái
hiển nghóa của câu. Nếu tiền giả đònh được bác bỏ thì hiển nghóa của câu
không còn giá trò nữa.
Hàm ngôn là những ý nghóa không được biểu đạt trực tiếp qua nguyên
văn mà phải suy ra từ quan hệ giữa các nghóa trong cấu trúc và từ ngôn cảnh
nguyên văn và:
+ Nếu ý suy ra vẫn còn diễn đạt được bằng ít nhiều chữ nghóa trong
nguyên văn thì đó là hàm nghóa.
+ Nếu ý suy ra chỉ có thể thấy trong ngôn cảnh, thì người nghe rất có
thể không nhận ra, nhưng nếu nhận ra mà phản ứng chống lại thì người nói
hoàn toàn có thể chối rằng mình không hề nói như thế. Cái ý ẩn đằng sau
25
nguyên văn, không hề được diễn ra bằng lời ấy gọi là ẩn ý. Trong giao
tiếp, ẩn ý của người nói còn thể hiện qua dụng ý lạc đề, vi phạm nguyên
tắc cộng tác trong hội thoại (xem 4 phương châm hội thoại của Grice).
Nhưng ẩn ý không được diễn đạt ra nên cũng rất dễ chối, vì nhận ra thái
độ không bằng lòng của người nghe đối với câu có ẩn ý.
d) Gillian Brown- Georrge Yule cho rằng khái niệm tiền giả đònh
cần thiết trong phân tích diễn ngôn tiền giả đònh ngữ dụng, có nghóa là "nó
được đònh nghóa trên cơ sở các giả đònh về những điều mà theo người nói thì
người nghe có thể chấp nhận không tranh cãi" [38,56]. Khái niệm về "cơ sở
chung" được thừa nhận cũng liên quan đến việc nêu rõ đặc điểm của tiền
giả đònh và có thể thấy trong đònh nghóa sau đây của Stalnaker: Tiền giả
đònh là cái mà người nói xem là cơ sở chung của những người tham gia hội
thoại.
Nguồn được giả đònh của tiền giả đònh là của người nói chứ không
phải là tiền giả đònh của câu hay mệnh đề.
Thuật ngữ "hàm ý" được Grice dùng để giải thích điều người nói ngụ
ý, đề nghò hay muốn, khác với điều anh ta thực tế nói ra. Có những hàm ý

quy ước mà theo Grice, "được quyết đònh bởi quy ước của từ".
Hàm ý hội thoại xuất phát từ nguyên lí chung trong hội thoại và một
số châm ngôn (maxim) mà người nói thường tuân theo. Một số nguyên tắc
nhưng là nguyên tắc hợp tác được Grice đònh nghóa như sau: Hãy đóng góp
cho hội thoại theo như yêu cầu của hội thoại, đúng thời điểm, theo mục
đích và phương hướng đã được chấp nhận trong cuộc trao đổi mà bạn tham
gia. Những quy ước hội thoại hay châm ngôn hỗ trợ cho nguyên lí trên gồm
có: lượng; chất; quan hệ và cách thức.
Ngoài ra, Grice còn xếp châm ngôn lòch sự cũng thường được tuân
theo; trong số các châm ngôn trên châm ngôn về phương cách không được
áp dụng rộng rãi trong hội thoại.

×