Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.16 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC
VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG
NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
GIẢNG VIÊN : TS. NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
NHÓM LỚP : 53 CA 2 THỨ 2
HÀ NỘI – 2013
DANH SÁCH NHÓM 8 :
1. Nguyễn Thị Giang (nhóm trưởng)
2. Hoàng Thị Thu
3. Trần Thùy Linh
4. Chu Thị Thu Hiền
5. Nguyễn Minh Tú
6. Lê Thị Hạnh
7. Phan Thị Kim Anh
8. Cao Quỳnh Anh.
2
MỤC LỤC
Mục lục 3
Phần A : MỞ ĐẦU 4
I. Tính cấp thiết của đề tài 4
II. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 5
III. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
IV. Ý nghĩa của đề tài 6
Phần B: Nội dung 7
I. Khái quát Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 7
1. Định nghĩa về văn hóa 7
2. Vị trí và vai trò của văn hóa 7
3. Tính chất của nền văn hóa 7


4. Chức năng của văn hóa 8
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục 8
1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục 9
2. Nội dung giáo dục 13
3. Phương châm, phương pháp giáo dục 15
3.1. Phương châm giáo dục 15
3.2. Phương pháp giáo dục 16
4. Đội ngũ giáo viên 18
III. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam
hiện nay 19
1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc vận dụng sang tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc đổi mới tư tưởng trong thời đại mới 19
2.Những thành tựu đã đạt được của giáo dục 20
3. Những hạnh chế,yếu kém 22
4. Nguyên nhân 24
5. Giải pháp 24
Phần C : Kết luận 26
I. Kết luận 26
II. Học sinh, sinh viên đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục 27
3
Phần A : MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận thiên tài của cách
mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hoá của
dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc và sáng
tạo. Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người thì tư tưởng về văn hoá chiếm
một vị trí quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là một hệ thống các quan điểm lý luận
mang tính khoa học và cách mạng về văn hoá và xây dựng nền văn hoá Việt Nam.
Nó chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương

Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, trong đó cốt lõi là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác -Lênin với tinh hoa và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và cơ sở hạ tầng, văn hoá
với kinh tế -chính trị, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Văn hoá là một kiến
trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển, có thực mới vực được đạo, xã hội
thế nào thì văn hoá thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hoá là động
lực của sự phát triển xã hội và "văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi".
Đối với nước ta hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân,song đó phải là sự phát
triển bền vững, hài hoà giữa kinh tế và văn hoá. Vì vậy, chúng ta không chỉ xây
dựng nền kinh tế mới mà còn phải xây dựng nền văn hoá “tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc".
Năm 1945, cùng với thắng lợi chính trị, nhân dân ta đã xóa đi một nên giáo
dục đồi bại, xảo trá của thực dân Pháp: Chỉ dạy cho nhân dân sùng bái những
kẻ mạnh hơn mình; dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc
của mình; dạy cho thanh niên khinh rẻ nguồn gốc, dòng giống mình…Đó là một
nền giáo dục nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Chế độ mới ra đời, cùng với việc thiết
lập nền cộng hòa dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải quyết nạn dốt là
4
một tronh những nhiệm vụ cấp bách. Bởi vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
“Yếu thì dại, dại thì hèn”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là phải làm cho nhân dân
biết đọc, biết viết, từng bước nâng cao dân trí. Bởi vì nước ta là một nước dân chủ,
dân là chủ và dân làm chủ. Công việc kháng chiến kiến quốc, đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Chúng ta phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho
dân. Muốn làm được điều đó, cần phải có giáo dục và giáo dục lại nhân dân.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng em đã chọn đề tài : “Quan điểm của Hồ
Chí Minh về văn hóa giáo dục và ý nghĩa của quan điểm đó trong việc xây
dựng nền văn hóa giáo dục nước ta hiện nay” làm đề tài thảo luận của nhóm 8
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích
Làm rõ quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục qua đó thấy
được ý nghĩa của quan điểm đó trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục Việt
Nam hiện nay.
2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, bài thảo luận cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
- Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục.
- Nêu ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục trong việc xây
dựng nền văn hóa giáo dục Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá có phạm vi rất rộng, trong bài thảo luận
này, chúng em chủ yếu tập trung nghiên cứu : Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn
hóa giáo dục và ý nghĩa của văn hóa giáo dục trong việc xây dựng nền giáo dục
nước ta hiện nay.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh dựa trên lập trường, quan điểm, phương
pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
5
Việt Nam
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh dựa trên các quan điểm: quan điểm thực
tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm toàn diện và hệ thống, quan điểm kế thừa và phát triển…
2. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp khái quát, tổng hợp, phân
tích, so sánh, phương pháp logic…
IV. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con
người vĩ đại Hồ Chí Minh, đồng thời nâng cao năng lực, tư duy lý luận và
phương pháp công tác trong thời đại hiện nay. Cụ thể việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa giáo dục giúp chúng ta nắm được những quan điểm của
người về văn hóa giáo dục qua đó đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và
phát triển nền giáo dục nước ta hiện nay.
6
PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1. Định nghĩa về văn hóa
Trước năm 1945, Hồ Chí Minh định nghĩa văn hóa ở phạm vi rộng:
“ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự tồn tại”.
Sau CMT8 Hồ Chí Minh quan điểm văn hóa ở phạm vi hẹp: Văn hóa được Hồ
Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng
tầng của xã hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo
thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Bốn vấn đề đó có quan hệ mật thiết
với nhau, cùng tác động lẫn nhau.
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc mới là:
+Xây dựng tâm lý: là xây dựng tinh thần độc lập tự cường.
+Xây dựng luận lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
+Xây dựng xã hội :mọi sự nghiệp phải liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
+Xây dựng chính trị: dân quyền.
+Xây dựng kinh tế: phát triển kinh tế để đảm bảo đời sống cho nhân dân, xây

dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
2. Vị trí và vai trò của văn hóa
Thứ nhất : Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội thuộc kiến trúc thượng
tầng, văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo thành bốn vấn
đề chủ yếu của đời sống xã hội và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Thứ hai : văn hóa không thể đứng ngoài mà đứng trong kinh tế và chính trị.
3. Tính chất của nền văn hóa
Tính dân tộc : là cốt cách dân tộc làm nên bản chất đặc trưng của nền văn hóa
7
dân tộc.
Tính khoa học : nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Tính đại chúng: nền văn hóa phụ thuộc nhân dân do nhân dân xây dựng nên.
4. Chức năng của văn hóa
Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh,
hướng con người đến chân thiện mỹ để hoàn thiện bản thân.
II. TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quý giá của Đảng và dân tộc ta, trong đó có tư tưởng về văn hóa giáo dục - bộ
phận quan trọng trong vấn đề xây dựng nhân tố con người.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều công sức
phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị tư tưởng cho việc
xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này.
Hồ Chí Minh đã phê phán gay gắt nền giáo dục phong kiến: tầm chương,
kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ….; và nền giáo dục
thực dân: ngu dốt, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả là sự dốt nát.
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập được Hồ Chí Minh chuẩn bị từ

những lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng trong những năm của thế kí XX, thực sự
ra đời sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và phát triển cùng với sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục
của nước Việt Nam mới phải được coi là một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp
bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “… làm cho
dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân
tộc xứng đáng vs nước Việt Nam độc lập”.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và toàn diện, định hướng cho nền
giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
8
1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục
Để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục là : Giáo dục để mở
mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp,
những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân; Giáo dục để
đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo
dục để đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm
chủ để đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Giáo dục còn là
để “cải tạo trí thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực hiện “công nông tri thức hóa”,
xây dựng đổi ngũ tri thức ngày càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao. Nền văn
hóa giáo dục còn phải đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất
nước giàu mạnh sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy chính sách
ngu dân hết sức thâm độc của thực dân Pháp. Người cũng sớm có thực tế cụ thể và
nhận thức sâu sắc về loại trường tiểu học Pháp - Việt do thực dân Pháp mở nhỏ
giọt từ năm 1905 ở các thành phố và tỉnh lớn nhằm đào tạo “những tay hợp tác,
những công dân bản xứ trả lương ít tốn hơn cho ngân sách thuộc địa…, huấn
luyện quen việc các nhà cầm quyền bản xứ”. Vì vậy, ngay trong những năm đầu
hoạt động ở nước ngoài, Người đã lên án mạnh mẽ chính sách đó của thực dân

Pháp và đòi quyền lợi cho dân tộc mình. Năm 1919, trong bản Yêu sách mà
Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị Véc-
xây có điều khoản 6 đòi hỏi: “Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên
nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh”. Đến năm 1920, tại Đại hội thành lập
Đảng Cộng sản Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã không quên lưu ý tình trạng:
“Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm, vì chúng tôi không có quyền tự
do học tập”. Đặc biệt trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái
Quốc đã dành hẳn một chương để vạch trần chính sách ngu dân, một tội ác ngang
với sự áp bức chính trị và bóc lột kinh tế tàn khốc, ngang với sự đầu độc bằng
rượu cồn và thuốc phiện đối với nhân dân Việt Nam của thực dân Pháp.
Trong sự nghiệp cách mạng thì việc “xây dựng con người” là một chiến
lược quyết định; trong sự nghiệp “xây dựng con người” thì chiến lược giáo dục
đứng ở vị trí hàng đầu; trung tâm chiến lược giáo dục là xây dựng và hoàn thiện
9
con người. Sự phát triển phồn vinh của đất nước, sự thành công của sự nghiệp xây
dựng CNXH là tiền đồ của dân tộc đòi hỏi phải xây dựng một nền giáo dục có
chất lượng và đạt hiệu quả cao. Hồ Chí Minh sáng lập nền giáo dục mới nhằm đào
tạo các em trở thành những công dân hữu ích cho đất nước Việt Nam, và làm phát
triển năng lưc sẵn có của các em, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đảm nhiệm tốt trọng
trách, nhiệm vụ của mỗi công dân, người cán bộ, chiến sĩ trong quá trình xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, coi trọng, đề cao dân trí với mong muốn tột bậc “nhân dân ai
cũng được học hành” và quyết tâm xây dựng một nền giáo dục mới, hướng tới con
người, vì con người là một trong những mục tiêu cách mạng trong quá trình tìm
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã khai sinh ra
nền giáo dục mới, nền giáo dục nhân dân: Khoa học, dân tộc và đại chúng…
Trong bối cảnh vận mệnh quốc gia, dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Chí
Minh vẫn khẳng định vị trí, vai trò của nền giáo dục. Ngay trong khoá họp đầu
tiên của Chính phủ (3/9/1945), Người đã nêu lên nhiệm vụ diệt “giặc dốt”, “giặc

đói”, giặc ngoại xâm”, Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi
đồng ý mở chiến dịch chống nạn mù chữ”. Tư tưởng đó đã trở thành một phong
trào sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển trong nhân dân. Phong trào Bình dân học vụ mở
đầu cho việc xây dựng và hoàn thiện con người mới.
Mục tiêu đó đã được Người xác định trong lưu bút ở trang đầu cuốn sổ
vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc tháng 9 năm 1940 là: “Học để Làm việc – Làm
người – Làm cán bộ”. Học để phụng sự đoàn thể - Phụng sự giai cấp công nhân và
nhân dân - Phụng sự giai cấp và nhân loại”.
Năm 1952, trong “Thư gửi giáo sư và sinh viên trường dự bị đại học ở Thanh
Hóa, Bác Hồ đã nêu rõ mục đích của giáo dục. Với phong cách ngắn gọn, ngay sau
lời cảm ơn và thăm hỏi thân mật, Bác đã viết: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và
vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật
thà phụng sự nhân dân.Các cháu (học sinh) thì học tập cần gắn liền với thực hành để
mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân”.
Toàn bộ mục đích này gói gọn trong 6 chữ. Hai hoạt động cơ bản và bao trùm
10
của thầy là dạy và của trò là học đều hướng vào cùng mục đích, đồng thời cũng là
mục đích chung của ngành Giáo dục. Mục đích gồm sáu chữ này nhấn mạnh yêu
cầu làm việc trung thực và tận tụy, hết lòng hết sức để cống hiến hết mình, tất cả
vì dân, cho dân. Sản phẩm đào tạo theo Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh sẽ phải đạt
được yêu cầu như vậy.
Năm 1955, khi viết “Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi
đồng” nhân dịp năm học mới, Bác Hồ đã căn dặn: “Trường của chúng ta là trường
học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán
bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà…Và cần xây dựng tư tưởng:
dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Dù ngôn từ dài ngắn có khác nhau nhưng nội dung cơ bản vẫn thống nhất về
mục đích chung của giáo dục.
Tới năm 1959, khi căn dặn giáo viên mẫu giáo, Bác Hồ lại viết: “Công tác
giáo viên và mẫu giáo có khác nhau, nhưng cùng chung mục đích đào tạo những

công dân tốt, cán bộ tốt, cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội”.
Nhiệm vụ của ngành giáo dục rất quan trọng và vẻ vang nhằm xây dựng và
hoàn thiện con người mới, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hồ Chí Minh
từng căn dặn cán bộ: Ta xây dựng con người phải có ý định rõ ràng như kiến trúc
sư định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi, cát mà xây
dựng lên. Con người mới mà nền giáo dục Việt Nam cần xây dựng theo Người là
những công dân “vừa hồng, vừa chuyên”. Hồ Chí Minh coi trọng cả tài lẫn đức,
tài đức kết hợp chặt chẽ với nhau trong một con người và phải lấy đức làm gốc.
Đức ở đây không phải là đạo đức nói chung chung, không phải là đạo đức, lễ giáo
phong kiến mà là đạo đức cách mạng, đã được Người mở rộng, nâng lên một tầm
cao mới với những chuẩn mực cao đẹp: “Trung với nước, hiếu với dân, cần - kiệm
– liêm – chính – chí công vô tư”. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với
cách mạng, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Mối quan hệ
chặt chẽ giữa tài và đức, vị trí, vai trò của mỗi mặt đức, tài được Người chỉ rõ:
“Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”, “Có tài phải có đức,
có tài mà không có đức thì tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức mà không có
tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp được ai”. “Cũng như sông thì có
11
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức…”. Đó chính là cái gốc của con
người mới mà nhờ đó con người mới phát triển, hoàn thiện mình. Sự trưởng thành,
phát triển của con người” phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện
suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong
muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người,
"trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội
chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý

tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người
toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người
xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Cần phải học
văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu
tranh và công tác hàng ngày.
Xây dựng và hoàn thiện con người mới phát triển toàn diện thông qua hoạt
động giáo dục và tự giáo dục, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục
đã vạch ra phương hướng cơ bản của chiến lược con người, chiến lược giáo dục ở
nước ta. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, về mục tiêu giáo dục
nói riêng là tài sản vô giá được Đảng và Nhà nước ta kế thừa, vận dụng một cách
đúng đắn, sáng tạo trong quá trình xây dựng, phát triển nền giáo dục Việt Nam,
đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay. Văn kiện Hội nghị lần
thứ Hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định quan điểm của
Đảng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư có hiệu quả
nhất, qua đó đã đề ra mục tiêu cơ bản của giáo dục là: “Nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có
12
năng lực tiếp thu văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc Việt Nam, có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức, kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” và “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
2. Nội dung giáo dục
Theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Muốn đạt được mục tiêu đó thì nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn
hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề ngiệp, các nghành nghề liên
quan trực tiếp tới công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và

miền núi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo luôn thể hiện yêu cầu nội dung
giáo dục toàn diện, đào tạo con người vừa có tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh
khoa học kỹ thuật lại vừa có đức; trong đó, Người coi đức là gốc của con người,
của cách mạng, của công việc . Đây là tư tưởng then chốt của Hồ Chí Minh về
giáo dục – đào tạo. Chính vì vậy mà trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng cần
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp người thừa kế vừa hồng vừa
chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết”.
Người nhấn mạnh nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng là: “Phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn
liền với sản xuất và đời sống nhân dân”. Giáo dục phải tạo ra được những người
lao động mới. Đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước,
hiếu với dân”, có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy
sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết
kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khỏe để trở thành những người chủ
tương lai của đất nước, “những người kế thừa xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội vừa
hồng vừa chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh
không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người
có ích cho Tổ quốc.Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường đầu tiên của nước
13
Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho học sinh, một bức thư đầy tình cảm và tâm
huyết: “Các em hoc sinh! Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Tôi đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp
tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi…Nhưng sung sướng hơn nữa, từ
giờ phút này trở đi, các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt
Nam”. Nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam ấy, theo Bác là: “Một nền giáo dục của
một nước Độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công
dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những

năng lực sẵn có của các em” .
Theo quan điểm của Người, các nội dung giáo dục có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Nếu không có trình độ học vấn thì không học tập được kĩ thuật, không
học được kĩ thuật thì không theo kịp thời đại mà cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, và như vậy ngày càng tụt hậu xa hơn
so với các nước, không khoa học – kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh
tế nước nhà, học tập khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời
đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, và Bác viết:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Ngày 4 tháng 10 năm
1945, trên Báo Cứu quốc, Bác lại viết: “Muốn giữ vững nền độc lập. Muốn làm
cho dân mạnh, nước giàu. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà”.
Một điều quan trọng trong nội dung giáo dục đó là phải học tập chính trị. Bởi
nếu chỉ học tập văn hóa, kĩ thụât, chuyên môn mà không chính trị thì như người
nhắm mắt mà đi. Giáo dục chính trị là nền tảng, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng
văn hóa và chuyên môn.
Học chính trị là học chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Học để nắm vững quan điểm, lập trường, có tính nguyên tắc
của Đảng, thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Học chính
trị không phải là thuộc sách Mác-Lênin làu làu, không phải học một cách giáo
14
điều, mà là “Học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình”. . là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta” .
Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ nên Người cho
rằng phải tiến hành cải cách giáo dục, nhằm xây dựng chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học thật khoa học, hợp lý,đáp ứng đòi hỏi của cách mạng.

Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với
chương trình, nội dung dạy và học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng.
3. Phương châm, phương pháp giáo dục
3.1. Phương châm giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục thiết thực, cụ
thể và khoa học. Như chúng ta đã biết, cách mạng tháng Tám thành công; chỉ sau
ngày đọc Tuyên ngôn độc lập một ngày, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ, ngay trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu
mới giành được độc lập, mặc dù bộn bề biết bao công việc, giữa lúc kinh tế kiệt
quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu
diệt cách mạng, Bác đã kêu gọi toàn dân đoàn kết chống: “Giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm” và ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để thực hiện
chống mù chữ. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biến một đất nước dốt nát thành một nước có nền
văn hóa cao, khoa học phát triển”. Người cho rằng: “học để làm việc, làm người,
làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại”.Trong thư gửi các học sinh Trường sư phạm miền núi Trung ương nhân dip
trường khai giảng ( ngày 13 tháng 3 năm 1955), vì đây là đối tượng đặc biệt nên
được Bác quan tâm căn dặn: “ Ngày nay, các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến
bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến
giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà”;
đồng thời Bác cũng giao nhiêm vụ: “Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để
sau này góp phần cho việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước
Việt Nam yêu quý của chúng ta”. Bác cũng đã chỉ ra phương châm giáo dục hết
sức khoa học: “giáo dục phải phục vụ đường lối của Đảng và Chính phủ, gắn liền
15
với sản xuất và đời sống nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền
với thực tế”.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công
tác giáo dục phải nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, phải coi giáo dục –

đào tạo là sự nghiệp của quần chúng, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong bức
thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục (ngày 15.10.1968) Bác chỉ rõ: “ Giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa
học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ đó…Các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải
thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt,
đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”. Trong công tác quản
lý giáo dục, Người đã chỉ thị: “phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh
nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; kết hợp chặt chẽ chủ trương
chính sách của trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu và phong
phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương”.Mặc dù bận trăm công nghìn
việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, điển
hình như phong trào thi đua “Hai tốt”được phát động bắt đầu từ tiếng trống khai
trường của trường cấp II Bắc Lý năm 1961, phong trào “kế hoạch nhỏ”, công tác
Trần Quốc Toản…cho thiếu niên, nhi đồng nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn
và thuận lợi cho công tác giáo dục.
Đúc kết lại, phương châm giáo dục của tư tưởng Hồ Chí Minh là học đi đôi
với hành, lí luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động, phải
kết hợp thật chặt chẽ 3 khâu: gia đình, nhà trường và xã hội. Tthực hiện dân chủ
bình đẳng trong giáo dục.Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người, học suốt đời.
Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
3.2. Phương pháp giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người
vạch đường, chỉ lối, người tổ chức, lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi,
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thầy giáo với ý nghĩa đã trực tiếp giảng dạy,
16
đào tạo, bồi dưỡng nên bao thế hệ cán bộ của cách mạng Việt Nam.
Mục đích giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc
dạy tri thức nâng cao trình độ học vấn, mà hơn thế giáo dục nhằm đào tạo những

con người phát triển toàn diện về nhân cách, vừa đủ đức, đủ tài. Vì vậy, trong quá
trình giáo dục, Bác đặc biệt quan tâm đến phương pháp giáo dục, giáo dục phải
làm sao cho khoa học, phong phú, đa dạng và mẫu mực.
Bác luôn luôn căn dặn: “Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải
ra sức làm nhưng làm vội cũng không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước
thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba mới đến bước thứ ba. Vội thì
ngã. Phải làm có kế hoạch, có từng bước”
Phương pháp giáo dục được sử dụng trong giảng dạy phải dựa vào nhu cầu
của người học. Giáo dục phải căn cứ vào “trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt,
trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực
của quần chúng" . Trong giáo dục, phải tạo được môi trường dân chủ, thẳng thắn
và đối thoại. Hồ Chí Minh chỉ rõ: mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý
kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng
quanh. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do
tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. Từ đó Hồ Chí Minh kêu gọi cán
bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối
với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Theo Bác, phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh, phải dung
biện pháp nêu gương gắn liền với phong trào thi đua… Cuộc đời và sự nghiệp của
Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Phương pháp nêu
gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc
làm. Người dạy “mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi
công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt tinh thần, vật chất và
văn hoá" . Nêu gương là một phương pháp giáo dục quan trọng. Người dạy:
những gương người tốt, việc tốt muôn hình, muôn vẻ, là vật liệu quý để xây dựng
con người, lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không
17
tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết “giáo dục dù trong

nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết
quả cũng không hoàn toàn” .
Một lần nữa phải khẳng định rằng muốn có một nền giáo dục tốt thì phải có
phương pháp giáo dục tốt.
4. Đội ngũ giáo viên
Trong di sản để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo
dục, coi trọng vị trí nhà giáo, Người nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan
trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… Không có giáo
dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Người khẳng định:
“Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những anh hùng vô
danh. Ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa”. Để làm tròn
nhiệm vụ vẻ vang đó, Bác đòi hỏi “thầy giáo xứng đáng là thầy giáo”, xứng đáng
với danh hiệu “Người kỹ sư tâm hồn”.
Để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo phát triển, để đào tạo nên những
lớp người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của người thầy giáo; Bác chỉ rõ vấn đề
then chốt có ý nghĩa quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một
đội ngũ đông đảo người làm công tác giáo dục thực sự yêu người, yêu nghề, hết
lòng chăm sóc giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Theo Hồ Chí Minh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn
tuyên truyền”, thầy cô giáo là những người đi khai sáng trí tuệ, mở mang tri thức,
thắp sáng ngọn lửa tâm hồn cho học sinh
Đến nói chuyện với lớp học chính trị của giáo viên năm 1959, Bác nói:
“Các cô, các chú đều biết , giáo viên ngày nay không phải là “Gõ đầu trẻ kiếm
cơm”, mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến
bộ cho dân tộc. Nhiệm vụ ấy là rất vẻ vang. Các cô, các chú phải ngày càng tiến
bộ, để dạy cho con em ngày càng tiến bộ”. Người còn nói: “Trẻ em như cái gương
trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, cho nên phải
chú ý giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ

18
về tư tưởng. Người còn nhấn mạnh: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo
tốt hay xấu…Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…cho nên thầy
(cô) phải gương mẫu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt người thầy giáo ở vị trí cao quý, nhưng Người
cũng luôn đòi hỏi ở các thầy, cô giáo một trách nhiệm nặng nề. Trong thư gửi hội
nghị giáo dục toàn quốc (tháng 3/1965), Người chỉ rõ: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ
vang của người dạy học là: Chăm lo dạy dỗ con em nhân dân thành người công dân
tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”.
Người cho rằng sự nghiệp “trồng người” là rất lâu dài, khó khăn và rất quan
trọng; do đó, trong một lần đến thăm lớp bồi dưỡng chính trị cho giáo viên toàn
miền Bắc (tháng 9/1958), Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây;
vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Trong bức thư cuối cùng gửi cho các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân
viên, học sinh, sinh viên nhân dịp khai giảng năm học mới 1968-1969 mà ngành
giáo dục coi như một Di chúc của Bác, Người dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng
phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh
đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm
thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian
không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”.
Tóm lại, đội ngũ giáo viên cần phải quan tâm xây dựng bồi dưỡng được đội
ngũ giáo viên có đạo đức cách mạng, yêu nghề, yên tâm công tác đoàn kết và hợp
tác với đồng nghiệp , giỏi về chuyên môn thuần thục về phương pháp. Mỗi giáo
viên phải là tấm gương sáng về đạo đức về học tập “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Để xứng đáng là “người thầy” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi
thầy giáo, cô giáo cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn những lời dạy quý
báu của Người: “Người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công
việc của mình…”.
III. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY
DỰNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc vận dụng sang tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong việc đổi mới tư tưởng trong thời đại mới
19
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới, Đảng ta đề ra mục tiêu
của giáo dục là " Xây dựng cho được một độ ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và
quản lý kinh tế đông đảo vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành
nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp
công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học
kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và quy luật xã
hội, có năng lực tổ chức và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề
khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế do thực tế nước ta đề ra và có khả năng tiến
kịp trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.” ;
Mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới:( theo nghị quyết hội nghị TW 8
khóa XI)
• Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu
học tập của nhân dân.
• Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
• Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý
tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập;
bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa,
xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
• Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực
2.Những thành tựu đã đạt được của giáo dục
a. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền
giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng

cao được trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động.
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi
vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các
cấp ngày một tăng. Năm học 2004 - 2005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên
theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.
20
b. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với
người dân tộc thiểu số, người nghèo, lao động nông thôn, đối tượng chính sách và
người có hoàn cảnh khó khăn. Bình đẳng giới trong giáo dục được bảo đảm.
-Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu
học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã
đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy
chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu
số mù chữ giảm mạnh.
-Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong thập
niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc gia đề ra là đạt
97% vào năm 2005). Nếu như năm học 1997-1998, tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc
tiểu học đạt 68% thì đến năm học 2004-2005, tỷ lệ này đã đạt từ 99%-100% ở các
vùng miền và tăng nhanh ở khu vực Tây Nguyên.
c. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu
nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học
sinh, sinh viên Việt Nam đạt kết quả cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực.
Nhân lực nước ta đã làm chủ được một số công nghệ hiện đại.
-Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào
tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần dần được
đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu hướng thế giới là
tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng giáo dục tinh hoa.
-Năm 2012, Việt Nam cử 7 đoàn gồm 34 học sinh tham dự các kỳ thi Olympic
khu vực và quốc tế các môn: Vật lý, Hóa học, Toán học, Sinh học, Tin học và Hội
thi Nghiên cứu khoa học-kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF).

-Trong số các em tham dự các môn thi, đội tuyển Việt Nam đã giành được 8
Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc và 11 Huy chương Đồng.Lần đầu tiên
trong lịch sử dự thi Olympic khu vực và quốc tế các môn văn hóa dành cho học
sinh THPT, cả 31 học sinh của tất cả các đội tuyển đều đoạt huy chương, trong đó
có 5 HCV; 11 HCĐ. Đây cũng là lần đầu tiên, một nhóm 3 học sinh đoạt giải, và
là giải Nhất Hội thi Intel ISEF.
d. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực.
21
e. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình
độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên nói chung được chú trọng đặc biệt. Mạng
lưới trường sư phạm rộng khắp cả nước với 10 trường đại học sư phạm, 11
trường đại học đa ngành được nâng cấp từ cao đẳng sư phạm (trong đó chủ yếu
là đào tạo sư phạm), trên 80 trường cao đẳng tham gia đào tạo giáo viên.
f. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng cường
và từng bước hiện đại hóa.
Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu
chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương đương
với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm
non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung học cơ sở và phổ thông
trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
g. Xã hội hóa giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả
quan trọng.
3. Những hạnh chế,yếu kém
a. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là ở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, là một trong những nguyên nhân
làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục còn nặng bệnh
thành tích; đánh giá kết quả ở nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu thực chất.
Và mới đây tại diễn đàn của kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI, nhiều vị đại biểu
Quốc hội đã bày tỏ bức xúc trước yếu kém này của ngành Giáo dục. Còn nhớ,

trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2003, có tới 5.700 thí sinh có cả ba
môn thi bị điểm không; 86% số thí sinh có ba môn dưới 15 điểm. Kết quả này
được công bố đã gây "sốc" cho các vị quản lý ngành Giáo dục. Người ta đã hoài
nghi: phải chăng có sự sai lệch trong quá trình chấm thi của các trường. Và
thanh tra Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chọn 1.297 bài bị điểm không để chấm lại, kết
quả chỉ có 2 bài được nâng điểm, còn 1.295 bài vẫn giữ nguyên điểm không như
kết quả chấm ban đầu. Theo đoàn thanh tra, các bài bị điểm không là do thí sinh
hổng kiến thức cơ bản, và họ đã kết luận: trình độ của thí sinh yếu kém thật sự.
b. Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương
22
pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất cập. Thiếu gắn kết giữa
đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh.
c. Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, thiếu tính liên thông giữa các trình độ
đào tạo và các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế. Chưa gắn kết đào tạo với sử dụng và nhu cầu của thị
trường lao động.
Số sinh viên sau khi ra trường chưa tìm kiếm được việc làm hay làm trái
ngành là một con số không nhỏ.Trong khi đó các công ty,các nhà tuyển dụng khá
dè dặt trong việc tuyển dụng các sinh viên mới ra trường do đa phần cách dạy và
học hiện nay nên sinh viên thiếu những kiến thức và kỹ năng thực tiễn.Và nếu có
tuyển dụng thì họ thường phải mất một khoảng thời gian và tiền bạc để đào tạo số
nhân viên mới này.
d. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Một số hiện tượng tiêu cực
kéo dài trong giáo dục, chậm được khắc phục, có việc còn trầm trọng hơn, gây
bức xúc xã hội. Chưa coi trọng đúng mức đánh giá hiệu quả quản lý và hiệu quả
đầu tư cho giáo dục.
Có thể thấy rằng, tình trạng giáo dục thiên về "dạy chữ" lơi lỏng về "dạy
người" vẫn còn phổ biến. Bàn về công tác đào tạo, gần đây, tại diễn đàn Hội nghị
giáo dục, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét: chất lượng đào tạo của ta còn yếu,
đào tạo ít gắn với sản xuất và đời sống, với nghiên cứu khoa học. "Giáo dục lao

động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã
hội chủ nghĩa…" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh giờ đây đã trở thành xa
vời đối với nhiều trường phổ thông, thay vào đó là "dạy chay", "học chay", dạy
thêm, học thêm tràn lan, làm cho học sinh không còn thời gian để nghỉ ngơi, giải
trí. Nhu cầu học thêm bị lợi dụng bởi một bộ phận giáo viên với động cơ không
trong sáng. Nhiều giáo viên dạy không sâu sát chương trình, thậm chí theo như
lời của một cán bộ lâu năm trong ngành Giáo dục thì cách dạy quá hời hợt, cứ y
như "chuồn chuồn đạp nước" nhằm ép học sinh đi học thêm, bắt học sinh học
thêm để thu tiền thông qua nhu cầu học thêm giả tạo, dưới hình thức "tự nguyện"
(?!).
e. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất
23
lượng, số lượng và cơ cấu; thiếu động lực tự học và đổi mới; chưa bắt kịp yêu cầu
của đổi mới giáo dục.
f. Nhiều chính sách và cơ chế tài chính lạc hậu, phân bổ tài chính mang tính
bình quân, dàn trải. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu và
lạc hậu, chưa đạt chuẩn quy định, thiếu quỹ đất dành cho phát triển giáo dục.
Cơ sở hạ tầng giáo dục hiện này còn thiếu thốn nhiều. Trường học phòng ốc
đã thiếu còn cũ kỹ mục nát. Hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm hầu như chưa có
cơ sở nào đạt chuẩn quốc tế . Các giáo cụ, tài liệu học tập cũng còn rất hạn chế.
Hiện nay, cả nước vẫn còn 170.000 phòng học có nhu cầu để xây dựng, sửa chữa
đòi hỏi chi phí hơn 25.000 tỷ đồng. Cùng đó, nhà ở công vụ cho giáo viên ở các
vùng núi, vùng khó khăn còn thiếu gần 65.000 căn, trị giá xây dựng là 3.370 tỷ
đồng…
4. Nguyên nhân
• Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn
chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và
chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
• Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình

thức, hư danh, chạy theo bằng cấp chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng
hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã
hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
• Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ
sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra,
giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của
phần đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.
5. Giải pháp
a.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với giáo
dục và đào tạo.
Đảng luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng nền giáo dục của
quốc gia. Giống như người cầm lái để đưa con thuyền giáo dục đi đúng hướng và
24
cập bến.
b Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
c. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết
quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.
d. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở,
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
e. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ,
thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào
tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
g. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục và đào tạo.
h. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của
toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
i. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.

k. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục,
đào tạo.
25

×