CHƯƠNG VII
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
A. Mục đích, yêu cầu
- Mục đích:
Nghiên cứu làm rõ những nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và
xây dựng con người mới, từ đó thấy được giá trị to lớn và cần thiết học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh
- Yêu cầu: Người học cần nắm vững nội dung các vấn đề sau:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
+ Nghiên cứu chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa, đạo đức và xây dựng con người
mơi cần đứng vững trên lập trường và quan điểm mác xít, đường lối chỉ đạo của Đảng ta
+ Sinh viên cần nghiên cứu tài liệu trước khi lên lớp
B. Cấu trúc chương: gồm 4 phần
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
II. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
Kết luận
C. Thời gian giảng: 5 tiết
D. Phương pháp:
- Phương pháp chủ yếu: thuyết trình, phát vấn
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: thảo luận, xêmina, so sánh, lôgíc,…
E. Tài liệu học tập: (dành cho người học)
1. Giáo trình của Bộ giáo dục và đào tạo biên soạn, HN, 2009
2. Sách tham khảo:
2.1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh Hội đồng chỉ đạo biên soạn TW
2.2. Nguyễn Thế Thắng, Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb. Lao
động, H, 2002
2.3. Bùi Đình Phong, Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Nxb. Lao động, H,
2001
2.4. Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh, Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục
đội ngũ cán bộ, Đảng viên hiện nay, Nxb. CTQG, H, 2008
2.5. Ngoài ra, nếu có điều kiện có thể nghiên cứu nguồn tài liệu gốc: Hồ Chí Minh Toàn
tập (12 tập); Tìm hiểu các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành…
1
CHƯƠNG VII
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Định nghĩa về văn hóa
- Văn hóa là một khái niệm rộng, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy
nhiên, vẫn có một điểm chung được mọi người thừa nhận: Văn hóa là một hệ thống các
giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử ( Song
Thành: Hồ Chí Minh nhà Tư tưởng lỗi lạc, HN, 2005)
- Năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu lên định nghĩa về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
hoá, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn.”(tập 3, tr.431)
- Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khác phục được tính phiến diện trong quan niệm
về văn hóa trong lịch sử và hiện tại:
+ Văn hóa không chỉ là một hiện tượng tinh thần tách rời đời sống vật chất mà
bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử
+ Văn hóa cũng không chỉ thu hẹp trong lĩnh vực văn học – nghệ thuật mà văn
hóa bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội
+ Văn hóa cũng không phải chỉ thu hẹp trong lĩnh vực giáo dục, không chỉ
phản ánh trình độ học vấn của một người, mà là thước đo trình độ phát triển của
toàn xã hội: về sản xuất, khoa học - kỹ thuật, chính trị, tôn giáo, văn học – nghệ
thuật, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán,…
2
b. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh đã đưa ra 5 điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng lý luận: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có lien quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế” (tập 3, tr.431)
Có thể thấy: từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới văn hóa trong đời
sống xã hội. Ta hiểu vì sao ngay sau khi giành được độc lập, Người đã đưa
văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
a. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội
- Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng,
Hồ Chí Minh xác định: văn hoá có mối quan hệ mật thiết với kinh tế,
chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và văn
hoá, quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội
+ Trong quan hệ với chính trị, xã hội
-> Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải
phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói:
“Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến,
nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát
triển được”.
-> Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ
thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở
đường cho văn hoá phát triển. (Quan điểm này của Người đã được thực tiễn
cách mạng tháng 8/1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn)
3
+ Trong quan hệ với kinh tế
Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn
hoá. Người chỉ rõ: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây
dựng văn hoá, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Người cho rằng “Cơ sở hạ
tầng xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện
phát triển được”. Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế phải đi trước một bước.
- Hai là, Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn
hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Hồ Chí Minh chỉ rõ “Kinh tế có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết
được”, nhưng điều đó không có nghĩa là văn hoá “thụ động” chờ cho kinh tế
phát triển xong rồi mới đến lượt mình phát triển. Văn hoá có tính tích cực,
chủ động, đóng vai trò to lớn, thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển như
một động lực.
“Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (tập
8, tr.281)
+ Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị
-> Văn hoá ở trong chính trị tức văn hoá phải tham gia vào nhiệm vụ
chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá”,
hoặc đường lối “kháng chiến toàn diện”, thi đua trên mọi lĩnh vực… là với ý
nghĩa như vậy.
-> Văn hoá ở trong kinh tế, tức là văn hoá phải phục vụ, thúc đẩy việc
xây dựng và phát triển kinh tế.
4
+ Kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa
Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị, cũng có nghĩa là chính trị và kinh
tế phải có “tính văn hoá”. Đây là một đòi hỏi chính đáng của văn hoá hiện
đại. Làm chính trị, làm kinh tế phải có văn hoá…
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra khẩu hiệu “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng
chiến”. cũng là theo tinh thần ấy. Ngày nay, đi vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta cũng đòi hỏi văn hóa phải thâm nhập sâu vào kinh tế và chính
trị. Hiện nay, chúng ta đang nói đến văn hóa kinh doanh, văn hóa tiếp thị,
văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo,v.v…đều theo nghĩa ấy.
Từ đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có 4
vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa” (Báo cứu quốc, số ra ngày 8-10-1945). Trong mối quan hệ
giữa văn hóa với phát triển chúng ta cần phải quán triệt đầy đủ quan điểm
nay. Năm 1988, mở đầu “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa”, Tổng giám
độc UNESCO đã phát biểu: “Văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với
nhau…Hễ nước nào tự đặt mục tiêu phát triển mà tách ròi môi trường văn
hóa thì sẽ xẩy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn
hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu nhiều”… “Văn hóa cần
coi mình là nguồn cổ vũ trực tiếp cho phát triển và ngược lại, phát triển cần
thiết nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội” (Tạp chí
Thông tin UNESCO, tháng 11 -1988, tr.5)
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, tư tưởng đó cảu Hồ Chí Minh đã được thực
tế chứng minh là sáng suốt. Đại hội VIII, Đảng ta cũng khẳng định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”
b. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
Trong Đề cương văn hóa phát biểu năm 1943, lần đầu tiên Đảng nêu lên
ba tính chất
5
Của cuộc vận động xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại
chúng.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nhắc lại ba tính chất này. Ngày 7/9/1945, khi tiếp các đại
biểu của Uỷ ban văn hoá lâm thời các Bộ, Hồ Chí Minh nói: “Tôi mong rằng
các ngài trong giới văn hoá nhận thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này
là củng cố nền độc lập của Việt Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một
nền văn hoá mới. Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu
tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hoá mới. Cái văn hoá mới này
cần phải có tính khoa học, tính đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hoá
của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta có độc lập, tinh thần được giải phóng cần
phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của
nhân dân”
Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội II (1951), Người khẳng định
phải “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học,
đại chúng” (tập 6, tr.173)
Ba tính chất của nền văn hóa mới do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu lên đã trở thành tư tưởng chỉ đạo và định hướng phấn đấu của các nhà
văn hóa – nghệ thật phấn đấu gần 2/3 thế kỷ qua.
* Tính dân tộc của văn hóa
- Văn hóa dân tộc phải có đặc điểm, bản sắc riêng
Văn hóa là cái “cốt”, cái tinh túy bên trong đặc trưng của nền văn hoá
dân tộc. Nó phân biệt, không nhầm lẫn với văn hoá của các dân tộc khác.
“Cốt cách dân tộc phải “nhất thành bất biến”. Trong diễn văn khai mạc Hội
nghị văn hóa toàn quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải “trau dồi
cho văn hóa văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam”, phải “lột cho hết
tinh thần dân tộc”. “Nếu dân tộc hóa phát triển đến cực điểm thì tức là đến
chỗ thế giới hóa nó, vì lúc bấy giờ văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa
của mình và văn hóa của mình sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn
hóa thế giới” (Báo cứu quốc, số ra ngày 9-10-1945)
6
- Tính dân tộc của văn hóa được biểu hiện:
+ Ở chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường của dân tộc. Văn hóa
phải thể hiện ở nội dung tuyên truyền cho “lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” và
tinh thần “vì nước quên mình”
+ Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn
con người Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết,
thương người,…tóm lại là tất cả những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và tính
cách Việt Nam đã được hun đúc qua hang ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước
Muốn thực hiện được yêu cầu này, Người đòi hỏi các nhà văn hóa – văn nghệ
phải đi sâu vào quần chúng nhân dân. Có như vậy mới phát hiện, mô tả được
chiều sâu của tính cách và tâm hồn quần chúng. Người yêu cầu phải học lịch sử
và hiểu truyền thống dân tộc, truyền thống văn hóa – nghệ thuật. Người căn dặn
văn nghệ sĩ: “Nghệ thuật của ông cha hay lắm, tốt lắm, cố gắng mà giữ gìn”,
“Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm
được đâu”
+ Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương diện
diễn đạt. Mỗi dân tộc có nếp cảm, nếp nghĩ riêng, có hình thức diễn đạt riêng đi
thẳng vào long người, lay động sâu xa tâm hồn họ. Người nhắc nhở: “Nhân dân ta
có truyền thống kể chuyện ngắn gọn và có duyên. Cácchus phải học cách kể
chuyện của nhân dân” (tập 12, tr.553)
Về mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: “Tiếng nói là một thứ của cả rất quý báu
của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa, rất toàn diện và sâu
sắc, từ nội dung đến hình thức diễn đạt. Bản thân Người là nhà văn hóa kiệt xuất,
là biểu tượng cao đẹp của bản sắc, tính cách, tâm hồn dân tộc, là tấm gương cho
các nhà văn hóa – văn nghệ noi theo
7
* Tính khoa học của văn hóa
- Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào
lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại: hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
+ Để đảm bảo tính khoa học của văn hóa dòi hỏi đội ngũ những người làm
công tác văn hoá: có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến, có lý luận và xây dựng
được một chiến lược văn hoá…
+ Tính khoa học của nền văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì
trái với khao học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, chống chủ
nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan
- Phải kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại
Để làm tốt được điều này, Người nhắc nhở ngành văn hóa: trong việc khôi
phục vốn cũ, “chỉ nên khôi phục cái tốt, cái gì không tốt thì phải loại dần ra”,
không được “khôi phục cả đồng bóng, rước sách thần thánh”. Phải tiếp thu những
tinh hoa văn hóa của nhân loại, bổ sung làm phong phú thêm đời sống văn hóa của
dân tộc
Người cũng yêu cầu ngành giáo dục phải: “dạy cho các cháu thiếu niên về
khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ thủa nhỏ đã biết yêu khoa học để mai
sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt, làm việc theo khoa
học” (tập 11, tr.80)
Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, nhằm tổ
chức lại các quan hệ văn hóa từ trong một nhà, một làng, một trường học đến một
cơ quan, đơn vị bộ đội,…sao cho việc làm, ăn, ở, học tập, lao động,…phải tuân
theo đời sống mới, bài trừ các phong tục, tập quán cổ hủ, làm cho nếp sống xã hội
ngày một tiến bộ hơn, hợp với khoa học và văn minh
8
* Tính đại chúng của văn hóa
- Tính đại chúng của nền văn hóa được thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân
dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Văn hóa phục vụ ai? Và
Người khẳng định dứt khoát: văn hóa phải pục vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về
đại chúng, phải phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Người thường
xuyên nhắc nhở người cầm bút: “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai?
– Viết cho đại đa số công – nông – binh
Viết để làm gì?
- Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình
- Để phục vụ quần chúng
Tại Hội nghị những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng (2-1960),
Người nói: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng
cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”.
- Văn hóa là trình độ phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải trở về
phục vụ con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh giải phóng dân tộc để đem lại tự
do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có văn hóa. Đó là tính nhất quán trong sự
nghiệp cách mạng của Người
c. Quan điểm về chức năng của văn hóa
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người – Đây là chức năng
cao quý nhất của văn hóa
+ Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn
Văn hoá thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là
vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của xã hội. Vì vậy, theo Hồ Chí
Minh, văn hoá phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng
hàng đầu là bồi dưỡng, nâng cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho
con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm, tình cảm thấp hèn có
thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người
9
+ Bồi dưỡng lý tưởng cho một Đảng, một dân tộc
Đối với nhân dân Việt Nam, lý tưởng đó là độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Một khi con người đã phai nhạt lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống cách
mạng.
Văn hóa phải “làm cho mọi người đều có lý tưởng, tự chủ, độc lập, tự
do” và “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích
riêng”
+ Bồi dưỡng tình cảm lớn
Hồ Chí Minh yêu cầu: phải đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng
những tình cảm lớn như: lòng yêu nước, thương yêu con người, đề cao cái
chân, thiện, mỹ… sống thẳng thắn, thuỷ chung, ghét thói hư tật xấu, căm
thù mọi thứ giặc nội xâm (quan liêu, lãng phí, tham ô…)
Tình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ tốt đẹp: gia đình,
quê hương; với bạn bè, an hem, đồng chí…
Văn hoá còn góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào
tiền đồ của cách mạng.
- Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
+ Dân trí là trình độ hiểu biết, vốn kiến thức của người dân
Nâng cao dân trí phải biết bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có hiểu
biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: kinh tế, chính trị, lịch sử,
khoa học – kỹ thuật, thực tiễn lịch sử Việt Nam và thế giới…Nâng cao dân
trí chỉ có thể thực hiện được khi chính trị được giải phóng. Bác nêu rõ: “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (tập4, tr.8)
“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng
ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”
(t.4, tr.8)
10
+ Văn hóa có chức năng nâng cao trình độ dân trí nhằm đáp ứng với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng
mới:
“biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời
sống vui tươi hạnh phúc” (tập 8, tr. 494). Đó cũng mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng đã vạch ra trong công
cuộc đổi mới hiện nay.
- Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh, luôn
hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ, không ngừng hoàn thiện bản thân
Quan điểm này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường cách mệnh”,
“Sửa đổi lối làm việc”, “Đời sống mới”, “Nâng cao đạo đức cách mạng”,…
và thể hiện ngay trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
+ Về những phẩm chất cần có của mỗi người trong xã hội
Hồ Chí Minh thường nêu cao những phẩm chất chủ yếu sau: Trung với
nước, hiếu với dân; Hết lòng yêu thương con người; Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng…
+ Về phong cách sống
Người chú trọng tới đức tính khiêm tốn, giản dị, thật thà, dũng cảm; nói
đi đôi với làm, gương mẫu về đạo đức; tin yêu, đoàn kết với mọi người;
nghiêm minh với bản thân, bao dung, độ lượng với người khác
+ Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, muốn có được những phẩm chất và phong cách
đó, tự bản thân con người rèn luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hoá đóng
chức năng rất quan trọng.
-> Văn hoá phải tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa,
xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền lực, tham quyền cố vị dẫn tơới sự tha hoá
con người.
-> Văn hoá giúp cho con người phân biệt được cái tốt với cái xấu, cái
lạc hậu và cái tiến bộ… -> Từ đó hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ
11
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục
- Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến
Nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục từ chương, kinh viện xa thực
tế, không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh sách thánh hiến là đỉnh cao tri
thức. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến là kẻ sĩ, người quân tử, là bậc
trượng phu, hoàn toàn khác với kẻ bình dân. Phụ nữ bị tước quyền học vấn
- Hồ Chí Minh tố cáo nền giáo dục thực dân
Nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân không phải là để mở
mang dân trí, trái lại chỉ làm cho họ đần độn thêm. Đó là một nền giáo dục
đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Nó “chỉ dạy cho họ một lòng
“trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sung bái những kẻ mạnh hơn mình,
chỉ giáo dục cho họ thái độ thờ ơ với xã hội, xa dời đời sống xã hội và đấu
trnh của nhân dân. Mục đích của nền giáo dục đó là đào tạo những người
phục vụ cho chính quyền thực dân
- Xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam mới
Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục mới của Việt
Nam là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài. Nền giáo
dục đó sẽ “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu
nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”
(tập 4, tr. 8)
- Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục tập trung ở những điểm
sau đây:
+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng
giáo dục (bằng dạy và học)
Giáo dục để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng
đúng đắn, tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành
mạnh cho nhân dân
-> Đó là đào tạo ra những con người vừa có đức vừa có tài, học để làm
việc, làm người, làm cán bộ
12
-> Đó là “cải tạo trí thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực hiện “công
nông trí thức hóa”, “trí thức công nông hóa”. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày
càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao.
Nền văn hóa giáo dục còn phải đào tạo những lớp người kế cận sự
nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh và văn minh để theo kịp
các nước khác trên hoàn cầu, “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”,
tinh thần ấy được cô đọng trong câu nói của Bác: “vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
+ Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với
chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những
bước phát triển của nước ta
-> Nội dung của giáo dục bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ
thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động.
-> Phương châm, phương pháp giáo dục.
Hồ Chí Minh nói: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (t.8,
tr.496)
Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường – gia đình – xã hội;
thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự
học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.
Phương pháp giáo dục: phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo
dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy
từ dễ đến khó, kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải
dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.
Người viết: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra
sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực
tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ
những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
13
Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy trẻ phải nhẹ
nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc
biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ của các cháu” (t.8, tr.81)
Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, không có giáo viên thì
không thể có giáo dục. Người yêu cầu, phải xây dựng đội ngũ giáo viên có
phẩm chất, yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng; phải yên tâm công tác,
đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. Bản thân
người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, không tự cho
mình là đã biết rồi.
Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới
làm được công việc huấn luyện của mình. Lênin khuyên chúng ta: ‘Học, học
nữa, học mãi”. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó, những
người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết…” (t.6, tr.46)
+ Học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự
đào tạo và đào tạo lại
+ Phải không ngừng nâng cao Đảng trí
=> Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục là một hệ
thống những quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Nếu những quan điểm
ấy đã được thực hiện , từ đó đem lại những thành tựu và niềm tự hào to lớn
cho nền giáo dục Việt Nam trong mấy thập niên của cách mạng kháng chiến,
thì sự suy thoái của nền giáo dục nước ta hiện nay đòi hỏi chúng ta lại phải
nghiên cứu để quán triệt hơn nữa những quan điểm ấy, nhằm tiếp tục đưa sự
nghiệp giáo dục tiến lên phía trước.
* Văn hóa văn nghệ
- Thứ nhất, văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ
khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới
+ Văn nghệ là mặt trận
-> Văn nghệ một bộ phận của cách mạng. “Mặt trận” là thể hiện tính
chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác phẩm văn nghệ và ngòi bút của các văn
14
nghệ sỹ phải là vũ khí sắc bén, là “phò chính trừ tà”, vạch trần, tố cáo tội ác,
âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hoá…
Đồng thời, văn nghệ có vai trò thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh thần
đấu tranh, tổ chức lực lượng, động viên dân chúng phấn khởi, tin tưởng thực
hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước.
-> Khi đã có chính quyền: tính chất mặt trận của văn nghệ vẫn không
giảm, mà còn tăng lên, nặng nề hơn. Bởi lẽ, xây dựng nền văn nghệ cách
mạng là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài. Văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng
đúng đắn, bóc trần những thói hư tật xấu: tham ô, lãng phí, quan liêu… là
những lực cản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Văn nghệ sỹ là chiến sỹ
Để làm tròn vai trò người chiến sỹ, văn nghệ sỹ cần :
-> có lập trường, tư tưởng đúng đắn
-> Đặt lợi ích và nhiệm vụ phụng sự tổ quốc và nhân dân lên trên hết.
-> không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, nghiệp vụ, đặc
biệt, phải có phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng tạo ra những sản phẩm
tinh thần phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
- Hai là, văn nghệ phải gắn với đời sống thực tiễn của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho những sáng
tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống, còn nếu nhà văn quên điều đó
thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta.
+ Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hoá, văn
nghệ
Đó là: Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng… của nhân
dân ->đây chính là nguồn chất liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho
văn nghệ sáng tác.
Người cũng chỉ rõ: văn nghệ có quyền hư cấu, song phải xuất phát và
trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của sinh hoạt.
15
Hồ Chí Minh đã Chỉ ra biện pháp để làm được điều đó: “phải từ quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng” ; “phải liên hệ và đi sâu vào đời sống của
nhân dân” để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần chúng.
+ Quần chúng là người làm ra lịch sử, sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần
Do vậy, không những họ là nguồn thực tiễn cho sáng tác, mà nhân dân
còn là những người đánh giá tác phẩm văn nghệ trung thực, khách quan và
chính xác (là người hưởng thụ các giá trị tinh thần)
+ Ngoài ra, quần chúng nhân dân còn là những người sáng tác ra những tác
phẩm văn nghệ đặc biệt
Hồ Chí Minh đánh giá: “đó là hòn ngọc quý” và yêu cầu: Các văn nghệ
sỹ cần phải nghiên cứu, học tập, tiếp thu và phát huy những tác phẩm ấy
- Ba là, văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại
+ Đây là một khía cạnh phản ánh văn nghệ phục vụ quần chúng. Muốn
phục vụ tốt quần chúng thì phải nâng cao chất lượng và hình thức của tác
phẩm. Bởi vì, quần chúng cần những tác phẩm hay, chân thật, hùng hồn, tạo
cho họ sự đam mê, chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm
có nội dung chân thật và phong phú; hình thức phải trong sáng, vui tươi,
khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích. Các văn nghệ sỹ cần
làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ
được ăn một món thôi, cũng như vào vườn hoa cần cho mọi người thấy
được nhiều loại hoa đẹp”
-> Tác phẩm “hay” là tác phẩm cần diễn đạt vừa đủ những điều đáng
nói, ai đọc cũng “hiểu” được.
-> Là tác phẩm phản ánh được những giá trị truyền thống của dân tộc,
mang được hơi thở của thời đại vừa phải ca ngợi cái chân thật của người tốt,
việc tốt, vừa phải “phê phán” cái giả, cái ác, cái sai.
=> Trên đây là những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá, văn
nghệ rất thiết thực và đúng đắn, chúng ta cần nghiên cứu và phát triển tốt vào
công tác văn hoá, văn nghệ hiện nay.
16
* Về văn hoá đời sống
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng văn hoá đời sống tức là xây dựng đời
sống mới. Đây là điều Hồ Chí Minh quan tâm rất sớm. Ngay từ khi mới
giành được chính quyền, bắt đầu xây dựng đời sống mới, Hồ Chí Minh đã
quan tâm đến xây dựng đời sống mới (tháng 1/1946), đến tháng 4/1946,
thành lập Ban TW vận động đời sống mới, tháng 3/1947 viết tác phẩm “Đời
sống mới”
- Văn hoá đời sống thực chất là “đời sống mới” với ba nội dung (gồm: đạo đức mới,
lối sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất)
+ Đạo đức mới:
-> Đạo đức mới trong đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính.
Người chỉ rõ: nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân. Nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm,
chính tức là nhen lửa cho đời sống mới.
-> Theo Hồ Chí Minh, đạo đức mới chính là đạo đức cách mạng, là
“gốc” của người cách mạng, là “nền tảng của người cách mạng”
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới -> là cơ sở của lối
sống mới và nếp sống mới.
=> Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng.
+ Lối sống mới
-> Là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hoà truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại tạo nên lối sống văn
minh, tiên tiến.
-> Biểu hiện cụ thể của lối sống mới: thể hiện ở cách ăn, mặc, ở, làm
việc của mỗi người.
Người viết: Việc xây dựng đời sống mới cần “sửa đổi những việc rất
cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách
ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc…” (tập 5, tr.95)
Lối sống mới còn được thể hiện ở phong cách sống và làm việc của
mọi người. Phải xây dựng một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng
mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý trọng thời gian, ít lòng
17
ham muốn về vật chất, chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân,
bạn bè, đồng chí thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng yêu thương,
quý trọng con người; đối với mình thì nghiêm, đối với người thì khoan dung,
độ lượng.
Sửa đổi cách làm việc là phải có tác phong quần chúng, tác phong tập
thể dân chủ, tác phong khoa học. Đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng
viên, Người yêu cầu phải có cách sống, cách làm việc hợp lòng dân.
Người nhắc nhở: “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ
lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt. Nói năng cần chân thật, dễ hiểu mà tế nhị, mộc
mạc, bình dân mà không thô thiển. Phong cách làm việc phải tận tuỵ, làm
đến nơi đến chốn, hết lòng vì nước, vì dân, thấy việc tốt thì dù nhỏ cũng
làm…”
+ Nếp sống mới:
Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng những thói
quen và phong tục, tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những
thuần phụng, mỹ tục lâu đời của dân tộc.
Trong tác phẩm “Đời sống mới” (1947), Người quan niệm: “Đời sống
mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới…
Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức
thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển
thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm” (tập 5, tr.94-95), phải bổ sung,
xây dựng thuần phong mỹ tục trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay,
cưới hỏi… đồng thời, phải chống các hủ tục như cờ bạc, hút xách…
-> Hồ Chí Minh chỉ rõ: xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp
vì: thói quen rất khó sửa đổi, nó có sức ỳ cản trở ta
-> Yêu cầu để xây dựng nếp sống mới:
Quá trình đổi mới nếp sống mới phải rất cẩn thận, chịu khó, lâu dài,
không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu
Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn
thận, khôn khéo, mềm mỏng…
Phải dùng biện pháp nêu gương: người nêu gương, nhà làm gương, làng
làm gương… nói đi đôi với làm mới đạt kết quả.
18
=> Tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới nói riêng và văn hoá đời
sống nói chung là một hình thức quan điểm, phương pháp thiết thực, rất cần
thiết đối với quá trình xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá hiện
nay của chúng ta. Cần xem xét, nghiên cứu và quán triệt tốt hơn nữa vào quá
trình đổi mới của ta trong giai đoạn hiện nay.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
a. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc:
- Truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc
“Người trồng cây hạnh, người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau”
(Ca dao Việt Nam)
“Trồng cây đức cho con ăn quả”
(Tục ngữ Việt Nam)
- Truyền thống yêu nước, hiếu học, thủy chung, đoàn kết của người Việt Nam
+ Truyền thống yêu nước – truyền thống quý báu của dân tộc
-> Lòng yêu nước là phẩm chất hang đầu trong đạo lý làm người của
dân tộc Việt Nam. Đó là tiêu chí để nhận định đúng – sai, đánh giá tốt – xấu
đối với mỗi con người bình thường cũng như để bình chọn những danh nhân
kiệt xuất của dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay
nhiều lòng yêu nước. Lòng yêu nước ở người Việt Nam ngày càng phát triển
cùng lịch sử dựng nước và giữ nước, trở thành đạo lý làm người, trở thành hệ
tư tưởng, đạo đức. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy
của lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại càng sôi nổi, nó kết thành một
làn song vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
19
-> Chính Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng yêu nước, của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh từng đặt tên minh là Ái Quốc, để biểu thị
lòng yêu nước mạnh mẽ và quyết tâm tìm đường cứu nước, cứu dân. Yêu
nước là động lực tinh thần giúp người vượt qua mọi gian khó, hiểm nguy.
Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”
+ Truyền thống hiếu học
Người Việt Nam có truyền thống hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội
Việt Nam thời phong kiến trước đây, người sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu. Họ
thường là những người học cao, hiểu rộng, có đạo đức thanh cao. Có con học
giỏi là một vinh hạnh của cha mẹ. Cho nên dù nghèo đói đến đâu, cha mẹ
cũng cố tìm cách cho con cái được học hành. “Nửa bụng chữ bằng một hũ
vàng” là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình, ham muốn có học thức của
người Việt Nam.
Dân tộc ta sớm có quan niệm học theo nghĩa rộng. Muốn học để nắm
bắt được tri thức văn hóa, kinh nghiệm sản xuất chiến đấu của dân tộc và
loài người. Coi trọng việc học giao tiếp, quan hệ, lễ nghĩa, kiến thức thực tế
để trở thành người có ích cho xã hội. “Học ăn, học nói, học gói, học mở”,
“Nhân bất học, bất tri lý”
+ Truyền thống thủy chung, đoàn kết
Người Việt Nam có tinh thần đào kết và ý thức cộng đồng sâu sắc. Đức
tính này được chung đúc từ cuộc đấu tranh giann khổ dựng nước và giữ nước
mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc. Với người Việt Nam chỉ có lien kết chặt
chẽ với nhau mới có thể chống nổi thiên tai, bão lụt thường xuyên hết năm
này đến năm khác. Chỉ có đoàn kết một lòng, một dạ thì cộng đồng người
Việt Nam mới có thể tồn tại được trước những âm mưu đồng hóa, xâm lược
của mọi đế chế phương Bắc. Chỉ có đoàn kết, cộng đồng người Việt mới có
thể thắng được các cuộc chiến tranh xâm lược thường xuyên của các đế chế
lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Cho nên tình đoàn kết, ý thức cộng đồng
dân tộc của người Việt Nam hình thành từ rất sớm và trở thành lẽ sống của
con người. Bởi vì:
20
“Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
- Đức tính trọng hiếu thảo của người Việt Nam
Người Việt Nam trân trọng đức tính hiếu thảo với cha mẹ. Mỗi con
người dường như tự biết ơn công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu
nghĩa được coi là một trong những phẩm chất đạo đức hàng đầu của con
người. Người Việt Nam trọng tình thủy chung, sự hòa thuận, bình đẳng trong
đạo vợ, nghĩa chồng “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Coi
trọng tình an hem, nghĩa thầy trò, tình bè bạn. Và nói chung người Việt Nam
nặng tình cảm, nhẹ duy lý. Hết sức trọng tinh thần và đạo đức làm người
=> Đạo đức truyền thống góp phần quan trọng vào việc hình thành tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh
b. Tinh hoa đạo đức nhân loại
* Tinh hoa đạo đức phương Đông
- Nho giáo:
Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản nhất, bao quát nhất của Nho giáo, của
học thuyết Khổng – Mạnh. Về vũ trụ quan, nói đến trời, đất, muôn vật thế
nào đi chăng nữa, chung quy quan trọng hơn cả cũng là chuyện đạo và đức.
Trời có đạo của trời, đức của trời. Đất có đạo của đát, đức của đất. Muôn vật
cũng có đạo và đức của muôn vật
Nho giáo là một học thuyết chính trị đạo đức của giai cấp phong kiến,
tuy có nhiều điểm không đúng, nhưng cũng đã có những cống hiến tích cực
trong việc khuyên bảo, dạy dỗ con người sống, thương yêu lẫn nhau, quan hệ
theo đúng phép tắc, kỷ cương của xã hội, thông qua các khái niệm cơ bản
như Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Nhân, Trí, Dũng, Lễ,..
Vào năm 1927, Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chúng ta hãy tự hoàn
thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và
về mặt cách mạng thì đọc các tác phẩm của Lênin” (tập 2, tr. 454)
=> Nho giáo quan niệm: “Đạo đức là nhân nghĩa”
21
- Phật giáo:
Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong phong tục, tín ngưỡng, tâm lý, đạo
đức và lối sống của nhân dân ta. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao tư tưởng đạo
đức của Phật giáo và Phật Thích Ca.
Người nói: “Đức phật là đai từ bi, cứu khổ, cứu nạn. Muốn cứu chúng
sinh ra khỏi khổ nạn. Người phải hy sinh, tranh đấu, diệt lũ ác ma…chúng ta
làm theo lòng đại từ bi của đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi
ra khỏi cái khổ nô lệ”
Tư tưởng “từ bi hỷ xả” của Phật giáo làm cho nó sống mãi trong lòng
dân
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, sử dụng những tinh hoa đạo đức của Phật
giáo, có quan hệ tốt đẹp với đồng bào theo đạo Phật ở nước ta. Và ngược lại,
đồng bào theo Phật giáo cũng hết sức ngưỡng mộ Người, nhất là về đạo đức.
Đồng bào gọi Người là: “Bậc đại anh hùng đại lực, kiên cố, bất thối chuyển”
(HCM với phật giáo Việt Nam, NXB CTQG, HN, 1997, tr.98)
- Tinh hoa đạo đức phương Tây
+ Thiên chúa giáo:
Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Tôn giáo GiêSu có ưu điểm là lòng nhân
ái cao cả”, “Chúa Cơ đốc hy sinh để cứu loài người khỏi ách nô lệ, đưa
loài người về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do” (HCM về tôn giáo tín
ngưỡng. NXB KHXH, 1996, tr. 152, tr.220)
Đạo thiên chúa khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác.
Chính Ăngghen đã đánh giá cao lý tưởng đạo đức của Thiên chúa Giáo,
nhất là khi nó mới ra đời, so sánh nó với lý tưởng cộng sản. Năm 1894, trong
tác phẩm “Bàn về lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ”, ông viết: “cả đạo Cơ Đốc lẫn
chủ nghĩa xã hội công nhân đều tuyên truyền sự giải phóng con người
trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo khổ; đạo Cơ Đốc tìm sự giải thoát
ấy trong cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, còn chủ nghĩa
xã hội thì tìm nó ở thế giới này, ở việc tổ chức lại xã hội” (Mác – Ăngghen
toàn tập, tập 22, NXB CTQG, 1995, tr.663)
22
+ Tư tưởng tự do, bình đẳng cho con người của các cuộc cách mạng tư sản
phương Tây (Anh, Pháp…)
Chủ nghĩa nhân đạo, chữ la tinh là Humanus nghĩa là coi trọng con
người. Đó là tổng hợp nhứng quan điểm thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và
quyền của con người, sự chăm lo đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện.
Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu, chủ nghĩa nhân đạo
đặc trưng cho hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Nó kiên quyết đấu tranh chống
chế độ phong kiến với những quan điểm thần học thời kỳ trung cổ và những
tệ nạn đạo đức xã hội
Chủ nghĩa nhân đao phương Tây tuyên bố tư do cho con người, phản
đối chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, tán thành quyền của con người được hưởng
thụ các nhu cầu tinh thần vầ vật chất trong cuộc sống. “Tôi là con người, và
không có cái gì của con người là xa lạ đối với tôi”
Chủ nghĩa nhân đạo Phương Tây tuyên bố những khẩu hiệu tự do, bình
đẳng, bác ái, bảo vệ quyền con người được tự do phát triển “bản tính tự
nhiên của mình”. Những điều cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo tư sản phuơng
Tây được biểu hiện tập trung trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ
(1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp
(1789
=> Góp phần hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tấm gương đạo đức của các nhà sáng lập
- Quan điểm về đạo đức cộng sản: chủ trương giải phóng giai cấp, giải phóng con người
+ Quan điểm của Mác - Ăngghen
Từ rất sớm, Mác đã có những quan điểm về đạo đức và vai trò của đạo
đức đối với người làm cách mạng. Mác đã xác định cho mình một lý tưởng
sống là đấu tranh cho hạnh phúc của nhân loại. Mác đã đề ra một phương
châm, có thể được coi là tuyên ngôn của cả nhân loại: “Những ai đem hạnh
phúc cho một số lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc nhất… Nếu
chúng ta đã lựa chọn một nghề mà trong đó chúng ta có thể lao động nhiều
nhất cho loài người thì chúng ta sẽ không oằn lưng dưới gánh nặng của nó,
23
bởi gánh nặng ấy là sự hy sinh vì mọi người. Khi ấy, điều chúng ta cảm nhận
được không phải là một niềm vui thảm hại, hạn hẹp, vị kỷ, mà niềm hạnh
phúc của chúng ta thuộc về hàng triệu người, lúc đó, sự nghiệp của chúng ta
sẽ sống một cuộc sống thầm lặng, nhưng có hiệu lực vĩnh hằng, và những con
người cao thượng sẽ rơi những giọt lệ cháy bỏng trước thi hài chúng ta”( Mác
– Ăngghen: Toàn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr.18)
Sự nghiệp đấu tranh cho hạnh phúc của tất cả mọi người, xây dựng một
xã hội mới mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người là sự nghiệp cao cả của chủ nghĩa cộng sản.
Sống, chiến đấu cho lý tưởng cộng sản là nguyên tắc hàng đầu của đạo đức
cộng sản, hệ tư tưởng đạo đức của giai cấp công nhân, đấu tranh cho lợi ích
của toàn nhân loại và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Ph. Ăngghen đánh giá vai trò của đạo đức vô sản với xã hội là một động
lực của cách mạng vô sản và sẽ phát triển ngày một rộng rãi cùng với phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân. ông khẳng định: “Chúng ra thấy rằng,
ba giai cấp trong xã hội hiện đại: giai cấp quý tộc phong kiến, giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản, mỗi giai cấp đều có đạo đức riêng của mình, nhưng tất
nhiên thứ đạo đức hiện nay tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi
ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản – là thứ đạo đức có một số lượng
nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”
1
.
Ăngghen tin tưởng rằng đạo đức vô sản sẽ phát triển cùng với sự phát triển
không ngừng của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Đó là một sự thật, một tất
yếu khách quan không có gì thay đổi nổi. Cũng như là sự sụp đổ của giai cấp tư
sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau.
Mác đã nêu lên bản chất nhân đạo của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Đó là mục tiêu, lý tưởng của giai cấp vô sản, vì hạnh phúc con người. “Chủ
nghĩa cộng sản coi như là sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha
hoá ấy của con người – và do đó, coi như sự chiếm hữu một cách thật sự bản
chất con người và vì con người” (C.Mác: Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, Nxb. Sự
thật, H, 1962, tr. 128)
1
24
+ Quan điểm của Lênin:
Lênin tiếp tục sự nghiệp của Mác – Ăngghen đấu tranh chống lại những
quan điểm phi mác xít về đạo đưc. Cũng như Mác, Ăngghen, Lênin bác bỏ
những luận điệu duy tâm của giai cấp tư sản về đạo đức, sự xuyên tạc của
giai cấp tư sản đối với vấn đề đạo đức của giai cấp vô sản và người cộng sản,
vạch rõ bản chất giai cấp của đạo đức nói chung và đạo đức cộng sản nói
riêng. Lênin là người đầu tiên nêu lên khái niệm “đạo đức cộng sản” và
những nguyên tắc của đạo đức cộng sản. Đồng thời, bản thân Lênin tự nêu
một gương mẫu cao đẹp về đạo đức cộng sản mà sau này Hồ Chí Minh hết
lòng ngưỡng mộ và noi theo. Hồ Chí Minh nhận định: “Không phải chỉ thiên
tài của Người, mà chính tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời
tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của
người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho
trái tim cúa họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi” (Hồ Chí Minh: Toàn
tập, tập 1, Sđd, tr. 295)
Bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, Lênin
đặt câu hỏi: “Có đạo đức cộng sản hay không, có lý luận cộng sản hay không?”
và Người cho rằng: “Tất nhiên là có. Người ta thường bảo chúng ta không có
đạo đức của chúng ta và giai cấp tư sản buộc tội những người cộng sản chúng ta
là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách đánh lộn sòng các khái niệm làm
công nhân và nông dân bị lầm lạc” (Lênin: Toàn tập, tập 41, Sđd, tr. 366). Ông phân
tích rằng những người cộng sản chỉ bác bỏ những luận thuyết cho rằng đạo đức
là do giới luật của Thượng đế mà có, bác bỏ những quan niệm về một thứ đạo
đức phi tính lịch sử, giai cấp công nhân và nhân loại kiểu ông Đuy-rinh đã từng
nêu ra trong thời kỳ Mác – Ăngghen hoạt động, đó là những lý thuyết dối trá,
mị dân.
Lênin đã nêu rõ bản chất của đạo đức cộng sản: “Đối với chúng ta, đạo đức
phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản” (Lênin:
Toàn tập, tập 41, Sđd, tr. 371). Lênin đã đưa ra định nghĩa và nhữn nội dung cách
25