Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Thực trạng tình hình thu Bảo hiểm y tế và một số biện pháp nhằm tăng nguồn thu ở Bảo hiểm y tế Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.75 KB, 81 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cuộc sống con người luôn gặp phải nhiều loại rủi ro, một trong những
loại rủi ro thường nhật mà con người gặp phải thường ngày là ốm đau bệnh tật, từ
đó phát sinh các khoản chi phí khám chữa bệnh. Do đó việc đảm bảo khả năng tài
chính cho việc chi trả các khoản chi phí khám chữa bệnh là rất quan trọng đối với
tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì các khoản chi phí khám chữa bệnh của
người bệnh cũng không còn được bao cấp miễn phí như trước đây nữa.
Mặt khác khi thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế xã hội, khả năng bao
cấp của Nhà nước trong việc thực hiện khám chữa bệnh không còn phù hợp nữa.
Do vậy, BHYT ra đời theo Nghị định 229/HĐBT ngày 15/08/1992 chính là phương
thức trợ giúp hữu hiệu nhất đối với người không may gặp phải rủi ro ồm đau bệnh
tật với điều kiện có tham gia BHYT.
Với cơ chế huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và của cả cộng đồng
xã hội để từ đó hình thành nên nguồn quỹ phục vụ cho công tác khám chữa bệnh.
Từ điều này cho thấy, nguồn thu BHYT để hình thành nên quỹ là rất quan trọng nó
quyết định đến chất lượng công tác khám chữa bệnh và quan trọng hơn nữa nó còn
quyết định đến sự thành bại của chính sách này. Do vậy trong quá trình thực tập ở
Phòng Khai Thác - BHYT Hà nội, với tinh thần muốn hiểu sâu hơn về nguồn thu
cũng như công tác huy động nguồn thu ở tại cơ quan trên địa bàn thành phố tôi đã
chọn đề tài: “Thực trạng tình hình thu Bảo hiểm y tế và một số biện pháp nhằm
tăng nguồn thu ở Bảo hiểm y tế Hà Nội”.
Kết cấu của chuyên đề gồm các phần sau:
Phần I: Khái quát chung về BHYT.
Phần II: Thực trạng của việc huy động nguồn thu ở BHYT Hà Nội.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần III: Một số vấn đề tồn tại và những biện pháp nhằm tăng cường nguồn
thu cho BHYT Hà Nội.
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHYT


I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA BHYT.
1. Sự cần thiết khách quan của BHYT.
Con người trong cuộc sống, cũng như trong quá trình lao động luôn phải chịu
ảnh hưởng và chịu sự tác động của môi trường xung quanh. Sự tác động này bao
gồm các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại
hoá, loài người lại chịu ảnh hưởng của những thứ do chính mình gây ra, đó là nền
sản xuất công nghiệp đã phá vỡ môi trường sinh thái do chất thải từ các khu công
nghiệp tạo ra. Thêm vào đó lao động không còn đơn thuần là một hành vi có ý thức
của con người, không chịu bất cứ một ảnh hưởng hay tác động nào khác, mà ở
nhiều nơi, nhiều người đã phải làm việc ở những môi trường nguy hiểm, độc hại.
Môi trường xung quanh có tác động lớn đến sức khoẻ của con người, nên ốm đau
bệnh tật là khó ai tránh khỏi.
Đặc biệt ở nước ta, hậu quả do chiến tranh để lại là rất nặng nề từ đó ảnh
hưởng lớn đến sức khoẻ của nhân dân. Chính vì vậy mà nhu cầu được chăm sóc sức
khoẻ, bảo vệ sức khoẻ là một nhu cầu tất yếu của mọi người dân trong cộng đồng
xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu này càng tăng lên. Tuy vậy khi ốm đau
không phải ai cũng đủ khả năng để trang trải các khoản chi phí khám chữa bệnh,
đặc biệt là những người nghèo. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định BHYT là
một trong những loại hình hoạt động có bản chất nhân văn, nhân đạo cần phải được
triển khai.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, ngành y tế cũng đã có
những bước chuyển biến lớn, đi sát với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, do đó
mà phương tiện khám chữa bệnh ngày càng hiện đại và đắt tiền. Hệ thống dịch vụ
được nâng cấp, đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo ngày một chu đáo hơn, lành nghề
hơn, trình độ quản lý kinh tế và hệ thống y tế ngày càng chặt chẽ hơn, từ đó làm
cho chi phí khám chữa bệnh tăng lên rất nhiều. Đặc biệt, ngày nay y học đã phát
triển mạnh mẽ, nhiều loại thuốc đặc trị ra đời, nên việc chăm sóc sức khoẻ và chữa
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bệnh ngày càng đắt đỏ. Tình trạng này làm cho một bộ phận lớn dân cư không có

khả năng chi trả khi ốm đau, bệnh tật, buộc phải có sự hỗ trợ của BHYT.
Mặt khác khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, dịch vụ khám chữa bệnh
thường đắt đỏ, có thể nói là cao nhất trong tất cả các dịch vụ xã hội. Khi không
may bị ốm đau bệnh tật bất ngờ, đại đa số người dân không đủ khả năng tài chính
để bảo vệ sức khoẻ của mình cũng như gia đình. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải
có một giải pháp để giải quyết vấn đề trên và Bảo hiểm y tế ra đời trên cơ sở đó.
Hơn nữa nền kinh tế tăng trưởng, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao,
tuổi thọ của người dân ngày càng được tăng lên, cơ cấu dân số được chuyển dịch
theo chiều hướng số người già nhiều lên, làm cho nhu cầu khám chữa bệnh không
ngừng tăng lên. Vì vậy hệ thống khám chữa bệnh, cơ sở vật chất y tế chưa đáp ứng
nổi, đặc biệt ngân sách Nhà nước không thể thoả mãn được nhu cầu này. Chính vì
thế chỉ có BHYT mới đáp ứng được với tính chất huy động sự đóng góp của số
đông người khoẻ mạnh để bù đắp cho số ít người ốm đau, giúp các gia đình, doanh
nghiệp tháo gỡ được khó khăn.
ở nước ta đã có một thời gian dài, Nhà nước dùng tiền từ ngân sách để lo việc
chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay khả năng đó rất hạn chế vì nhu cầu chữa bệnh
ngày càng tăng, chi phí y tế ngày càng đắt, trong khi đó cơ sở vật chất ngành y tế
ngày càng giảm sút, cần phải sửa chữa cũng như cần có thêm các phương tiện để
điều trị hữu hiệu.
Việc thu một phần viện phí trong những năm qua không những không đủ chi
phí cho ngành y tế, vì mức thu được là quá ít so với thực chi khám chữa bệnh, mà
còn tạo ra sự bất công mới, gây khó khăn cho người nghèo. Để khắc phục từng
bước những điều chưa tốt trong việc thu viện phí cần phải sớm tổ chức thực hiện
BHYT.
Từ những vấn đề trên, BHYT ra đời là tối cần thiết vì nó đáp ứng được nguyện
vọng của đại đa số người dân trong xã hội.
2. Vai trò và tầm quan trọng của BHYT.
BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy
động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và cá
nhân có nhu cầu được bảo hiểm, từ đó hình thành nên một quỹ và quỹ này sẽ được

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh, khi một người nào đó không may mắc
phải bệnh tật mà họ có tham gia BHYT.
Mặc dù ở mỗi nước khác nhau thì sẽ có các hình thức tổ chức khác nhau, có
nước tổ chức độc lập với loại hình bảo hiểm khác, có nước lại coi đây là một trong
những chế độ của BHXH. Ở nước ta BHYT đã xác nhập vào BHXH kể từ ngày
24/01/2002. Nhưng mặc dù được tổ chức như thế nào đi chăng nữa, thì BHYT vẫn
có vai trò riêng biệt mang tính xã hội rộng rãi như sau:
+ Thứ nhất BHYT chính là biện pháp để xoá đi sự bất công giữa người giàu và
người nghèo, để mọi người có bệnh đều được điều trị với điều kiện họ có tham gia
BHYT. Với BHYT, mọi người sẽ được bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh, đây
là một đặc trưng ưu việt của BHYT. BHYT mang tính nhân đạo cao cả và được xã
hội hoá theo nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Số đông người tham gia để hình thành
quỹ và quỹ này được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho một số ít người
không may gặp phải rủi ro bệnh tật. Tham gia BHYT vừa có lợi cho mình, vừa có
lợi cho xã hội. Sự đóng góp của mọi người chỉ là đóng góp phần nhỏ so với chi phí
khám chữa bệnh khi họ gặp phải rủi ro ốm đau, thậm chí sự đóng góp của cả một
đời người cũng không đủ cho một lần chi phí khi mắc bệnh hiểm nghèo. Do vậy sự
đóng góp của cộng đồng xã hội để hình thành nên quỹ BHYT là tối cần thiết và
được thực hiện theo phương trâm: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, khi
khoẻ thì để hỗ trợ người ốm đau, khi không may ốm đau thì ta lại nhận được sự
đóng góp của cộng đồng, điều này đã thực sự mang lại sự công bằng trong khám
chữa bệnh.
+ Thứ hai: BHYT giúp cho người tham gia khắc phục khó khăn cũng như ổn
định về mặt tài chính khi không may gặp phải rủi ro ốm đau. Nhờ có BHYT, người
dân sẽ an tâm được phần nào về sức khoẻ cũng như kinh tế, bởi vì họ đã có một
phần như là quỹ dự phòng của mình giành riêng cho vấn đề chăm sóc sức khoẻ, đặc
biệt với những người nghèo chẳng may mắc bệnh. Như vậy BHYT ra đời có tác
dụng khắc phục hậu quả và kịp thời ổn định được cuộc sống cho người dân khi họ

bị ốm đau, tạo cho họ một niềm lạc quan trong cuộc sống, từ đó giúp họ yên tâm
lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho chính bản thân họ và sau đó là cho xã
hội, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Thứ ba: Bảo hiểm y tế ra đời còn góp phần giáo dục cho mọi người dân
trong xã hội về tính nhân đạo theo phương châm: “Lá lành đùm lá rách”, đặc biệt là
giúp giáo dục cho trẻ em ngay từ khi còn nhỏ tuổi về tính cộng đồng thông qua loại
hình BHYT học sinh - sinh viên.
+ Thứ tư: BHYT làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông
qua hoạt động quỹ BHYT đầu tư. Lúc đó trang thiết bị về y tế sẽ hiện đại hơn, có
kinh phí để sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa bệnh hiểm nghèo, có điều kiện nâng
cấp các cơ sở khám chữa bệnh một cách có hệ thống và hoàn thiện hơn, giúp người
dân đi khám chữa bệnh được thuận lợi. Đồng thời đội ngũ cán bộ y tế sẽ được đào
tạo tốt hơn, các y, bác sỹ sẽ có điều kiện nâng cao tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm,
có trách nhiệm đối với công việc hơn, dẫn đến sự quản lý dễ dàng và chặt chẽ hơn
trong khám chữa bệnh.
+ Thứ năm: BHYT còn có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân
sách Nhà nước. Hiện nay kinh phí cho y tế được cấu thành chủ yếu từ 4 nguồn:
- Từ ngân sách Nhà nước.
- Từ quỹ BHYT.
- Thu một phần viện phí và dịch vụ y tế.
- Tiền đóng góp của các tổ chức quần chúng, của các tổ chức từ thiện và viện
trợ quốc tế.
Trong bốn nguồn trên từ khi chưa có BHYT thì nguồn do ngân sách Nhà nươc
cấp là chủ yếu. Do vậy BHYT ra đời đã thực sự góp phần giảm bớt gánh nặng cho
ngân sách Nhà nước.
+ Thứ sáu: Chỉ tiêu phúc lợi xã hội trong mỗi nước cũng biểu hiện trình độ
phát triển của nước đó. Do vậy, BHYT là một công cụ vĩ mô của Nhà nước để thực
hiện tốt phúc lợi xã hội, đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt

động chăm sóc sức khoẻ của người dân.
+ Thứ bảy: BHYT còn góp phần đề phòng và hạn chế những bệnh hiểm nghèo
theo phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Với việc kết hợp với các cơ sở
khám chữa bệnh BHYT kiểm tra sức khoẻ, chăm sóc sức khoẻ cho đại đa số những
người tham gia BHYT, từ đó phát hiện kịp thời những căn bệnh hiểm nghèo và có
phương pháp chữa trị kịp thời, tránh được những hậu quả xấu, mà nếu không tham
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gia BHYT tâm lý người dân thường sợ tốn kém khi đi bệnh viện, do đó mà coi
thường hoặc bỏ qua những căn bệnh có thể dẫn đến tử vong.
+ Thứ tám: Bảo hiểm y tế còn góp phần đổi mới cơ chế quản lý y tế, cụ thể:
- Để có một lực lượng lao động trong xã hội có thể lực và trí lực, không thể
không chăm sóc bà mẹ và trẻ em, không thể để người lao động làm việc trong điều
kiện vệ sinh không đảm bảo, môi trường ô nhiễm... Vì thế việc chăm lo bảo vệ sức
khoẻ là nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp và cũng là nhiệm
vụ chung của toàn xã hội. Đồng thời để đảm bảo cho mọi người lao động khi ốm
đau được khám chữa bệnh một cách thuận tiện, an toàn, chất lượng thì cần có mạng
lưới y tế đa dạng và rộng khắp, có đội ngũ thầy thuốc giỏi và tận tâm với người
bệnh, có cơ sở vật chất y tế đầy đủ, hiện đại... Thông qua BHYT, mạng lưới khám
chữa bệnh sẽ được sắp xếp lại, sẽ không còn phân tuyến theo địa giới hành chính
một cách máy móc, mà phân theo tuyến kỹ thuật, đảm bảo thuận lợi cho người
bệnh, tạo điều kiện cho họ lựa chọn cơ sở điều trị có chất lượng phù hợp.
- BHYT ra đời đòi hỏi người được sử dụng dịch vụ y tế và người cung cấp
dịch vụ này phải biết rõ chi phí của một lần khám chữa bệnh đã hợp lý chưa, chi
phí cho quá trình vận hành bộ máy của khu vực khám chữa bệnh đã đảm bảo chưa,
những chi phí đó phải được hạch toán và quỹ bảo hiểm phải được trang trải, thông
qua tình hình đó đòi hỏi cơ chế quản lý của ngành y tế phải đổi mới, để tạo ra chất
lượng mới trong dịch vụ y tế.
Như vậy, BHYT ra đời không những giúp cho người tham gia BHYT khắc
phục khó khăn về kinh tế khi rủi ro ốm đau xảy ra, mà còn giảm bớt gánh nặng cho

ngân sách Nhà nước, góp phần đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng và
công bằng trong khám chữa bệnh.
II. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM Y TẾ.
1. Sự ra đời và phát triển của BHYT ở một số nước trên thế giới.
Bảo hiểm y tế là một bộ phận của chính sách xã hội đã được Chính phủ các
nước quan tâm và người dân nhiệt tình hưởng ứng. Cho đến nay hàng trăm nước
trên thế giới đã thực hiện BHYT với nhiều hình thức, mức độ, phạm vi hoạt động
khác nhau. Tuy vậy về mục đích triển khai, BHYT là tương đối thống nhất, đó là:
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho mọi người dân trong cộng
đồng.
+ Giảm bớt phần nào khó khăn đối với những gia đình nghèo khó, thu nhập
thấp trên cơ sở tham gia BHYT cộng đồng đóng góp.
+ Góp phần nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh, trang bị thiết bị y tế hiện đại.
Để hiểu rõ hơn sự ra đời và phát triển của BHYT, ta xem xét Bảo hiểm y tế ở
một số nước:
1.1. BHYT ở Pháp.
Hệ thống BHYT Pháp nằm trong hệ thống chung về BHXH và hoạt động rất
có hiệu quả với sự tham gia của 99% đối tượng bắt buộc và 69,3% đối tượng tự
nguyện. Nhiệm vụ của BHYT là thanh toán từng phần hay toàn bộ chi phí trong
dịch vụ y tế cho người được bảo hiểm và bù lại phần lương bị mất khi người bảo
hiểm bị nghỉ việc làm để đi khám chữa bệnh (chế độ trợ cấp tiền lương).
BHYT Pháp được thực hiện tốt nhất hiện nay với mô hình sau:
+ Thành lập tiểu ban BHYT thuộc Bộ y tế - xã hội, tiểu ban này được chia
thành bốn bộ phận:
- Bộ phận chỉ đạo các cơ sở y tế.
- Bộ phận chỉ đạo quan hệ các đối tượng bảo hiểm, các hoạt động y tế xã hội
và bộ phận dự phòng.
- Bộ phận chỉ đạo nhiệm vụ y dược và trang thiết bị.

- Bộ phận chỉ đạo BHYT không hưởng lương.
+ Tổ chức BHYT của Pháp quan tâm đến các vấn đề sau:
- Giáo dục sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng.
- Dự phòng khi có những việc bất trắc trong xã hội xảy ra.
- Tuyên truyền vận động tham gia BHYT.
- Thông tin y tế.
Tổ chức BHYT Pháp bao gồm: 97.000 nhân viên ngành BHYT.
150 cơ quan BHYT.
11.000 cơ sở khám chữa bệnh và y tế xã hội.
22.345 thầy thuốc tư vấn hoạt động cho ngành
BHYT nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia, quỹ
này được phân thành 3 cấp:
- Quỹ BHYT trung ương: đặt tại Paris (là cơ quan quản lý Nhà nước), gồm có
Hội đồng quản lý và Ban quản lý.
- Quỹ BHYT địa phương: tự hạch toán hoạt động nhưng theo quy chế của Nhà
nước, bao gồm: 16 quỹ khu vực (liên tỉnh).
129 quỹ cơ sở (cỡ tỉnh, thành).
4 quỹ BHYT hải ngoại (4 vùng hải đảo).
- Quỹ BHYT cơ sở.
Mỗi loại quỹ này đều phải tổ chức quản lý chặt chẽ dưới sự điều hành của tiểu
ban BHYT và được hạch toán theo cơ chế cân đối thu chi.
Bảo hiểm y tế ơ Pháp cũng được thực hiện dưới hai hình thức bắt buộc và tự
nguyện. Bắt buộc đối với người làm công ăn lương. Cả hai loại đối tượng này khi
đi khám chữa bệnh và điều trị đều có quyền bình đẳng ngang nhau. Vấn đề thanh
toán được thực hiện theo phương thức thực thanh, thực chi.
Nguồn thu BHYT của Pháp bao gồm:
- Người sử dụng lao động đóng góp 66% của quỹ BHYT.

- Người lao động đóng góp 29,5% của quỹ BHYT.
- Nhà nước hỗ trợ 1,9% của quỹ BHYT.
- Các nguồn khác 2,6% của quỹ BHYT.
1.2. Bảo hiểm y tế ở Hàn Quốc.
Hàn Quốc đã xây dựng luật BHYT từ năm 1963. Lúc đầu Chính phủ Hàn
Quốc áp dụng chương trình BHYT tự nguyện, nhưng hầu như không có người tham
gia, dẫn đến luật này bị vô hiệu hoá. Mãi đến năm 1976 Chính phủ Hàn Quốc đã
xây dựng luật BHYT mới dựa trên cơ sở BHYT bắt buộc. Từ tháng 7 năm 1977,
theo luật mới này những doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên tham gia đóng
BHYT bắt buộc. Đến năm 1978 thì những doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên
bắt buộc phải tham gia BHYT. Năm 1981 BHYT được mở rộng thí điểm đến cả
những người lao động tự do, ở cả nông thôn và thành thị.
Ngay từ khi thực hiện, Nhà nước đã xác định và giao nhiệm vụ cho ngành y tế
phải từng bước nâng cao trách nhiệm chăm sóc người bệnh, đáp ứng có hiệu quả
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- BHYT Hàn Quốc được chia thành 4 loại:
+ Bảo hiểm cho công nhân các xí nghiệp công thương chiếm 53,2%.
+ Bảo hiểm cho cán bộ Nhà nước và giáo viên trường tư chiếm 15,4%.
+ Bảo hiểm cho các nhóm lao động cá thể chiếm 1%.
+ Bảo hiểm cho người lao động ở nông thôn chiếm 27,3%.
- Nguồn quỹ BHYT ở đây được hình thành từ 3 loại sau:
+ Thu từ các đơn vị tổ chức xã hội.
+ Thu từ các tầng lớp dân cư.
+ Thu từ các tổ chức, hiệp hội từ thiện.
Trong các nguồn thu nói trên, thu từ phí BHYT vấn là chủ yếu, chiếm xấp xỉ
82%.
Quỹ này được sử dụng như sau:
+ Chi phí khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu chiếm 80%.

+ Chi cho quản lý chiếm 12%.
+ Phần còn lại lập quỹ dự phòng, riêng việc nâng cấp các cơ sở khám chữa
bệnh thì Nhà nước tài trợ là chủ yếu.
Mức đóng góp được quy định cụ thể như sau:
+ Viên chức đóng góp từ 2-8% tiền lương hàng tháng hoặc thu nhập của mình.
+ Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp đóng góp từ 5-7% thu nhập.
+ Nếu căn cứ vào mối quan hệ trong quá trình lao động thì người sử dụng lao
động phải đóng góp từ 34-50%, phần còn lại người lao động đóng góp từ 50-66%.
Ngoài việc thu phí đóng BHYT, quỹ BHYT của Hàn Quốc trong thời gian đầu
còn được Nhà nước cấp kinh phí cho một loạt các công việc sau:
+ Trợ cấp cho các đối tượng xã hội.
+ Sử dụng cho thông tin y tế.
+ Kinh phí giáo dục sức khoẻ.
+ Cho một số mục đích nhân đạo.
Tuy vậy, từ năm 1990 trở lại đây kinh phí cấp cho giáo dục y tế và thông tin
Nhà nước đã cắt, vì vậy những khoản này đã phải lấy vào quỹ.
- Cơ chế BHYT Hàn Quốc được sắp xếp như sau:
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BHYT do sự phối hợp giữa cơ quan là Bộ Y Tế và Bộ Lao Động - Xã Hội thực
hiện, tuy vậy vẫn có sự tài trợ của Nhà nước về nhiều mặt, do đó thành lập Hội
đồng quản trị để đứng ra tổ chức quản lý, hội đồng này do Bộ y tế chủ trì.
Cơ sở khám chữa bệnh ở Hàn Quốc được Nhà nước quy định thống nhất ở một
số nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Tổ chức khám chữa bệnh cho người có thẻ theo đúng Luật BHYT và Luật
Dân sự.
+ Tự nâng cấp cơ sở khám chữa bệnh của mình, đặc biệt là thời đầu mới thành
lập được Nhà nước tài trợ thêm.
+ Thường xuyên liên hệ giao dịch thanh toán trên cơ sở chứng từ hoá đơn do
Bộ Tài Chính quy định đối với cơ quan BHYT.

Cơ quan BHYT được Nhà nước giao cho những nhiệm vụ sau:
+ Tư vấn cho Nhà nước mà đại diện là Bộ y tế và Bộ lao động - Xã hội để
hoàn thiện đạo luật BHYT.
+ Tổ chức thực hiện luật BHYT một cách toàn diện và triệt để, bao gồm: thanh
tra, kiểm tra các cơ sở khám chữa bệnh; tổ chức bán bảo hiểm; giải quyết đơn thư
khiếu nại của các bên; thanh quyết toán quỹ BHYT.
1.3. Bảo hiểm y tế ở Nhật Bản.
Bảo hiểm y tế ở Nhật Bản ra đời năm 1922, đến nay đã phát triển với hiệu quả
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. BHYT
thực sự góp phần làm tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong những năm của thập
kỷ 80 và 90.
- Đối tượng tham gia BHYT.
+ BHYT bắt buộc với những người làm công ăn lương tại các doanh nghiệp
thường xuyên thuê ít nhất 5 người và những người làm việc cho các tổ chức cơ
quan Nhà nước, đoàn thể xã hội; những người về hưu được chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ tại cac nghiệp đoàn BHYT quản lý.
+ Đối tượng BHYT tự nguyện là những người không thuộc diện tham gia
BHYT bắt buộc, ngoài ra còn có những người ăn theo là thân nhân của người được
BHYT, bao gồm: bố, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con cháu ruột, anh chị em người được
hưởng BHYT.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Nguồn tài chính của BHYT ở Nhật Bản bao gồm: tiền đóng góp BHYT của
những người tham gia và tiền trợ cấp của Nhà nước. Mức đóng góp BHYT do
Chính phủ quản lý trong phạm vi từ 6,6% đến 9,1% thu nhập, trong đó người lao
động đóng góp 50%, người sử dụng lao động đóng góp 50%. Mức đóng BHYT do
nghiệp đoàn quản lý, phạm vi từ 3% đến 9,5% thu nhập, trong đó người lao động
đóng 43% và người sử dụng lao động đóng 57%. Nhà nước hỗ trợ tài chính cho phí
hành chính của BHYT trong phạm vi từ 16,4% đến 20% nhu cầu chăm sóc BHYT.
- Quyền lợi của người tham gia BHYT:

Cơ quan BHYT chi trả chi phí cho người tham gia BHYT và người ăn theo khi
họ ốm đau, thương tật, thất nghiệp, họ được chăm sóc y tế theo mức đóng.
2. Sự ra đời và phát triển của BHYT Việt Nam.
Nhận thức được sự cần thiết của BHYT trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà
nước ta đã chính thức giao cho Bộ y tế và Bộ tài chính xem xét và thực hiện chính
sách BHYT ở Việt Nam, và lấy Hải Phòng làm nơi thí điểm đầu tiên vào năm 1989.
Thêm vào đó ngay khi Chính phủ đang xem xét ban hành Nghị định về BHYT, Bộ
y tế đã tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ tương lai của BHYT, trang bị
cho họ những kiến thức cơ bản về tổ chức hoạt động của BHYT. Đây là một việc
làm hết sức cần thiết và kịp thời đón nhận sự ra đời của hệ thống BHYT tại Việt
Nam.
Ngày 25/08/1992, căn cứ vào luật tổ chức HĐBH ngày 04/07/1981 và căn cứ
vào Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ y tế, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định NĐ 299/HĐBT chính
thức công bố sự ra đời của BHYT tại nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và
có hiệu lực từ ngày 01/10/1992, kèm theo NĐ 299/HĐBT có điều lệ BHYT cùng:
- Chỉ thị 05/BYT/CT ngày 26/08/1992.
- Quyết định 958/BYT- QĐ ngày 11/09/1992.
- Thông tư 11/BYT-TT ngày 15/12/1992.
- Thông tư 12/LB: Bộ Y Tế. Tài Chính. Bộ LĐTBXH ngày 18/09/1992.
- Thông tư 16/BYT-TT ngày 15/12/1992.
- Và một số thông tư, chỉ thị khác.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các văn bản pháp quy trên đã đánh dấu sự ra đời của BHYT tại Việt Nam. Sau
NĐ 299/HĐBT, đến cuối năm 1992, đã có 53 cơ quan BHYT bao gồm 51 cơ quan
BHYT tỉnh thành phố và BHYT Việt Nam, chi nhánh BHYT Việt Nam tại thành
phố Hồ Chí Minh đã được thành lập, còn 2 địa phương Hải Phòng và Gia Lai đến
tháng 4/1993 mới được thành lập cơ quan BHYT. Đến năm 1996 cả nước có 59 cơ
quan bao gồm 53 tỉnh thành phố, 4 BHYT của các ngành: Dầu khí (1656/TCLĐ

ngày 5/3/1993), Cao su (6403/TCLĐ ngày 5/10/1993), Giao thông (7083/TCLĐ
ngày 1/10/1993), Than (1870/TCLĐ ngày 25/4/1994) cùng với BHYT Việt Nam và
chi nhánh của BHYT tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều BHYT tỉnh, thành phố đã
xây dựng chi nhánh BHYT tại các huyện và khu vực, những nơi BHYT tự nguyện
phát triển đã có BHYT ở xã, phường, cho đến nay cả nước ta đã có 66 cơ quan
BHYT.
Đi đối với sự phát triển của hệ thống BHYT là sự lớn mạnh không ngừng của
đội ngũ cán bộ ngành BHYT. Từ khi ra đời cho đến nay đã có trên 2000 cán bộ làm
việc trong hệ thống BHYT với tỷ lệ được đào tạo từ đại học trở lên chiếm hơn 50%
trong tổng số lao động đang tham gia làm việc ở hệ thống BHYT. Với sự lớn mạnh
và phát triển không ngừng, BHYT đã thực sự khẳng định được vai trò của mình
trong giai đoạn mới.
Trong giai đoạn đầu thực hiện điều lệ 299/HĐBT, Bộ y tế giao cho BHYT Việt
Nam chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện trong phạm vi toàn quốc. Ngoài chức năng
quản lý về chuyên môn nghiệp vụ đối với BHYT các tỉnh thành phố trực thuộc
Trung ương và các ngành đặc thù trong cả nước, BHYT Việt Nam còn trực tiếp
khai thác và quản lý các cơ quan xí nghiệp thuộc Trung ương đóng trên địa bàn
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Qua sáu năm hoạt động (1992-1998), tuy thời gian chưa dài song với kết quả
và hiệu quả đạt được đã góp phần khẳng định chính sách BHYT của Đảng và Nhà
nước là đúng đắn và tiềm năng phát triển của BHYT là rất lớn. Theo số liệu thống
kê ta thấy số người tham gia BHYT ngày càng tăng qua các năm, cụ thể: năm 1993
có 3.799.000 người tham gia, năm 1995 là 7.104.000 người, năm 1997 là 9.551.000
người, năm 1998 con số này tăng lên là 9.800.000 người chiếm hơn 12,6% dân số
trong cả nước, với số thu được xấp xỉ 670 tỷ đồng, đến năm 2001 đã có hơn 12,5
triệu người tham gia BHYT với số thu hơn 1.150 tỷ đồng. Ngoài ra hàng năm
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BHYT cũng tiến hành chi trả cho hàng chục triệu người đi khám chữa bệnh, cụ thể
năm 1996 số người đi khám chữa bệnh theo chế độ là 11 triệu lượt người, năm

1997 con số này được nâng lên 14 triệu lượt người đi khám chữa bệnh, năm 1998
hơn 15 triệu lượt người. Trong số những người tham gia khám chữa bệnh có rất
nhiều người mắc các căn bệnh hiểm nghèo, nếu như họ không có thẻ BHYT thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn, thế nhưng nhờ có thẻ BHYT họ đã được chi trả toàn bộ chi
phí khám chữa bệnh. Như vậy BHYT thực sự đem lại lợi ích cho người tham gia,
đặc biệt là những người nghỉ hưu, người mất sức lao động, người không nơi nương
tựa. Bên cạnh những kết quả thu được, sau một thời gian cọ sát với thực tế và quá
trình đổi mới đất nước, chính sách BHYT đã bộc lộ những điểm chưa phù hợp làm
hạn chế hiệu quả BHYT và gây ra sự mất an toàn của quỹ BHYT. Điều lệ ban hành
kèm Nghị định NĐ 299/HĐBT quy định mức đóng BHYT theo một tỷ lệ nhất định,
nhưng mức đóng thấp trong khi mức hưởng lại không hạn chế, mặt khác nhu cầu
khám chữa bệnh ngày càng tăng, và do áp dụng tiến bộ khoa học trong việc chữa trị
nhiều địa phương đã không cân đối được thu chi gây thất thu nguồn quỹ BHYT.
Môi trường pháp lý để hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT chưa được hoàn
chỉnh, cơ chế hoạt động của BHYT chưa được rõ, việc phân cấp quản lý từ Trung
ương tới địa phương không thống nhất, tổ chức BHYT được quản lý riêng rẽ ở từng
địa phương dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện chính sách, việc điều
hoà kinh phí khám chữa bệnh giữa các vùng không thực hiện được. Việc tổ chức
BHYT tự nguyện còn gặp nhiều khó khăn do chưa có những quy định phù hợp để
có thể mở rộng cho đông đảo nhân dân tham gia, trong đó chưa có chế độ BHYT
cho đối tượng ưu đãi xã hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cán bộ công tác
tại xã phường.
Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay và khắc phục những điểm
chưa phù hợp trong cơ chế tổ chức quản lý BHYT, tạo điều kiện cho BHYT hoạt
động có hiệu quả và ngày càng lớn mạnh, ngày 13/08/1998 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 58/1998/NĐ-CP và điều lệ mới về BHYT. Có thể nói Nghị định
58/CP đã đánh dấu một bước đổi mới quan trọng, nó đã giải quyết được những điều
bất hợp lý trong thời gian trước đây, đồng thời hoà nhập vào quỹ đạo của nền kinh
tế thị trường mà vẫn giữ vững và phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc.
13

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Điều lệ BHYT mới ban hành kèm theo Nghị định số 58/CP có một số điểm
mới cơ bản so với điều lệ cũ ban hành kèm theo Nghị định 299/HĐBT, đó là:
+ Mở rộng các đối tượng tham gia BHYT.
+ Tăng cường quyền lợi của người có thẻ BHYT.
+ Thực hiện người tham gia cùng chi trả 20% chi phí khám chữa bệnh điều
này giảm được phần nào gánh nặng cho quỹ BHYT, cúng như nâng cao được ý
thức của người tham gia BHYT.
+ Tổ chức hệ thống theo ngành dọc, quản lý quý thống nhất trong toàn quốc.
+ Quy định chi tiết mức đóng, trách nhiệm đóng BHYT, chế độ BHYT quyền
và trách nhiệm của các bên tham gia.
+ Có những quy định pháp lý cơ bản đảm bảo cho việc triển khai thực hiện
BHYT tự nguyện.
Sau hơn 3 năm thực hiện theo Nghị định 58/CP BHYT đã thu được những kết
quả quan trọng, cụ thể:
N
ăm
Chỉ tiêu
1999 2000 2001
Tổng số
người tham gia
(người)
9.660.525 10.500.000 12.500.000
Tổng thu
phí BHYT (triệu
đ)
661.494 943.800 1.150.000
(Nguồn: Tạp trí BHYT + Chuyên đề Bảo hiểm tự chọn)
Cho đến ngày 24/01/2002 BHYT Việt Nam đã sác nhập vào BHXH Việt Nam,
việc này nhằm mục đích cải cách bộ máy quản lý cũng như phục vụ tốt hơn các đối

tượng tham gia BHYT.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHYT VIỆT NAM.
1. Đặc điểm của BHYT Việt Nam.
BHYT Việt Nam là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện,
nhằm huy động đóng góp của người sử dụng lao động, các tổ chức và cá nhân để
thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT khi không may bị ốm
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đau. Chính vì vậy mà nó là một tổ chức tự hạch toán không thu lợi nhuận nhằm
phục vụ công tác bảo vệ sức khoẻ và công bằng xã hội trong khám chữa bệnh.
Bản chất của BHYT là sự san sẻ rủi ro, nhằm giảm nhẹ những khó khăn cho
người bệnh và gia đình họ khi không may mắc phải ốm đau, bệnh tật mà vẫn đảm
bảo được yêu cầu chữa trị tốt nhất, giảm thiểu sự ảnh hưởng xấu đến kinh tế của gia
đình họ, góp phần chăm sóc sức khoẻ cho dân cư.
Bảo hiểm y tế không phải là hoạt động y tế mà chỉ là lĩnh vực liên quan trực
tiếp đến việc chữa trị bệnh cho người tham gia khi có phát sinh bệnh tật trong
khuôn khổ quy định của cơ quan BHYT.
Việc triển khai BHYT nói chung cũng như BHYT Việt Nam nói riêng nó có
các đặc điểm cơ bản sau:
+ Đối tượng của BHYT là rộng rãi nhất, vì vậy nõ cũng phức tạp nhất, nếu
thực hiện tốt nó sẽ đảm bảo được quy luật lấy số đông bù số ít. Quy luật này đối
với bảo hiểm nói chung và BHYT nói riêng là vô cùng quan trọng, nó quyết định
đến sự tồn tại hay không tồn tại của bảo hiểm. Nếu quy luật này được đảm bảo nó
sẽ là một trong những nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm
nói chung và BHYT nói riêng. Và ngược lại nếu quy luật này không được bảo đảm
thì chắc chắn bảo hiểm sẽ không hoạt động được.
+ Bảo hiểm y tế là một loại hình bảo hiểm mang tính chất nhân đạo, nó đáp
ứng được những nhu cầu chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao đối với
đại bộ phận dân cư. Với BHYT mọi ngưới sẽ bình đẳng hơn, được điều trị theo
bệnh. Đây là đặc trưng ưu việt thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của BHYT, tham gia

BHYT vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho xã hội.
+ Việc triển khai BHYT liên quan chặt chẽ đến toàn bộ ngành y tế kể cả những
y bác sỹ, cơ sơ vật chất kỹ thuật, cơ chế hoạt động của ngành y tế. Bởi vì người
tham gia bảo hiểm đóng tiền BHYT cho cơ quan BHYT nhưng cơ quan BHYT
không trực tiếp đứng ra tổ chức khám chữa bệnh cho người được BHYT khi họ
không may gặp phải rủi ro ốm đau bệnh tật mà cơ quan BHYT chỉ là trung gian
thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia thông qua hợp đồng khám
chữa bệnh với các cơ sở y tế.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Bảo hiểm y tế góp phần cùng với các loại hình bảo hiểm con người khác
khắc phục nhanh tróng những hậu quả xảy ra đối với con người. Vì vậy nó luôn
được Chính phủ các nước quan tâm.
+ Bảo hiểm y tế còn góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và điều
trị, nâng cấp các cơ sở y tế, từ đó làm cho chất lượng phục vụ của ngành y tế không
ngừng được nâng cao. Trong khi nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho y tế còn
hạn hẹp thì việc huy động các nguồn vốn khác bổ sung cho chi tiêu của ngành còn
triển khai rất chậm và thiếu đồng bộ. Việc thu viện phí chỉ thu được khối lượng rất
ít song lại tạo rất nhiều khe hở cho rất nhiều loại tiêu cực phát triển, dẫn đến một
thực tế là trong khi bệnh nhân phải tăng phí tổn khám chữa bệnh, đầu tư ngân sách
Nhà nước không hề bị giảm bớt mà bệnh viện vẫn xuống cấp. Bên canh đó, việc
khai thác các nguồn đóng góp của nhân dân, của các tổ chức kinh tế, nguồn viện trợ
trực tiếp chậm được thể chế hoá và chưa được hoà chung vào ngân sách y tế làm
hạn chế việc phát huy các nguồn vốn quan trọng này. Do đó khi thực hiện, BHYT
sẽ tạo ra một nguồn kinh phí hỗ trợ cho ngành y tế nhằm góp phần nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh và điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế, làm cho chất lượng
phục vụ của ngành y tế ngày càng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu về chăm sóc sức
khoẻ nhân dân trong giai đoạn hiện nay, cũng như quá trình xã hội hoá công tác
chăm sóc sức khẻo trong tương lai.
2. Tổ chức của hệ thống BHYT Việt Nam.

Hệ thống BHYT Việt Nam, hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống các mối quan
hệ ba bên: tổ chức BHYT, người tham gia BHYT và cơ sở khám chữa bệnh theo
hợp đồng BHYT. Trong đó, tham gia BHYT bao gồm 3 đối tượng là: người sử
dụng lao động kết hợp với người lao động và người tham gia BHYT tự nguyện.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thì hệ thống BHYT chỉ bao gồm các bộ phận và các
mối quan hệ trong nội bộ BHYT.
Trước hết xin mô tả một cách sơ bộ hệ thống BHYT theo nghĩa rộng như sau:
+ Người tham gia BHYT đóng phí BHYT cho cơ quan BHYT.
+ BHYT thu phí đóng BHYT và ký hợp đồng khám chữa bệnh với các cơ sở y
tế.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Cơ sở khám chữa bệnh thực hiện khám chữa bệnh theo hợp đồng đã ký kết
với cơ quan BHYT.
Trong mối quan hệ này, các bên tham gia có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy
định của điều lệ BHYT.
Như vậy, theo cách tổ chức này nổi lên rõ rệt quan hệ trực tiếp giữa các cơ
quan BHYT và cơ sở khám chữa bệnh theo hợp đồng với BHYT, nhất là trong khi
người tham gia BHYT chủ yếu là đối tượng bắt buộc, một bên là tổ chức quản lý
tiền, chi tiền, nói cách khác là tổ chức và quản lý hoạt động BHYT. Trong khi đó,
người tham gia BHYT đóng vai trò là hạt nhân chính tạo nên hệ thống BHYT thì
có vai trò và quyền lợi hết sức mờ nhạt, mối quan hệ giữa người tham gia BHYT và
cơ sở khám chữa bệnh là mối quan hệ gián tiếp thống qua trung gian là BHYT. Có
thể nói rằng trong mối quan hệ ba bên này, người tham gia BHYT là người mua
dịch vụ BHYT, người bán dịch vụ BHYT là cơ quan BHYT, song người cung cấp
dịch vụ lại là các cơ sở khám chữa bệnh. Chính mối quan hệ này đã không đảm bảo
được quyền lợi của người tham gia BHYT, làm mất lòng tin của người tham gia
BHYT đối với dịch vụ BHYT.
Xét theo nghĩa hẹp, hệ thống BHYT được tổ chức phân tán theo địa phương,
ngành. Quản lý Nhà nước và quản lý nghiệp vụ độc lập nhau do hai cơ quan khác

nhau chịu trách nhiệm thực hiện. Xét theo nghĩa này thì hệ thống BHYT Việt Nam
bao gồm các bộ phận như được trình bày theo sơ đồ sau:
3. Đối tượng và phạm vi của BHYT.
3.1. Đối tượng của BHYT.
BHYT có hai hình thức chủ yếu là: BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc.
3.1.1. BHYT bắt buộc:
Theo điều lệ BHYT kèm theo Nghị định 58/1998/CP của Chính phủ 13/8/1998
ban hành sửa đổi một số điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định 2999/1992/HĐBT
17
BHYT Việt Nam Người tham gia BHYT
Cơ sở khám chữa bệnh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đối tượng của BHYT được quy định
như sau:
a. Người sử dụng lao động, người lao động Việt Nam trong danh sách lao động
thường xuyên, lao động từ 3 tháng trở lên làm việc trong:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ
trang.
+ Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng,
đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp
tập trung, các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ
trường hợp các điều ước Quốc tế mà nước ta tham gia ký kết hoặc quy định khác.
+ Các đơn vị, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.
b. Cán bộ, công chức và người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, hội đoàn thể quần chúng
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước kể cả người trong thời gian tập sự và người có
hợp đồng lao động thường xuyên từ 3 tháng trở lên. Riêng đối với cán bộ sự nghiệp
ở xã được thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước.
c. Cán bộ hưởng sinh hoạt phí hàng tháng tại xã phường, thị trấn theo quy định

tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, ngày 23/01/1998 của Chính phủ bao gồm:
+ Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ xã (Bí thư, Phó bí thư chi bộ xã ở những nơi
chưa có Đảng bộ).
+ Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Phó Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Mặt trận,
Trưởng các đoàn thể nhân dân xã (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã,
Trưởng công an xã.
+ Uỷ viên UBND xã.
+ Bốn chức danh chuyên môn thuộc UBND xã: Tư pháp - Hộ tịch; Địa chính;
Tài chính - Kế toán; Văn phòng UBND - Thống kê tổng hợp.
Tổng số cán bộ của các chức danh trên không được vượt quá số lượng cán bộ
được quy định cho từng loại xã.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
d. Đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế
Nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hàng tháng.
e. Người đang hưởng chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, mất sức lao động, tai nạn
lao động, công nhân cao su nghỉ việc hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng) theo quy
định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ
BHXH.
f. Người có công với Cách mạng theo quy định tại Nghị định số 28/CP ngày
29/04/1995 của Chính phủ, gồm:
+ Người hoạt động cách mạng trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đang
hưởng trợ cấp hàng tháng.
+ Vợ hoặc chồng, bố mẹ đẻ, con liệt sỹ, người có công nuôi liệt sỹ đang hưởng
trợ cấp hàng tháng.
+ Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, Bà mẹ Việt Nam anh
hùng.
+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động
do thương tật từ 21% trở lên.

+ Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày
có giấy chứng nhận theo quy định.
+ Bệnh binh bị mất sức lao động do bệnh tật từ 61% trở lên.
+ Người có công giúp đỡ Cách mạng đang hưởng trợ cấp hàng tháng.
+ Người được hưởng trợ cấp phục vụ và con thứ nhất, thứ hai dưới 18 tuổi của
thương binh, bệnh binh bị mất sức lao động từ 81% trở lên.
g. Các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện theo quy định hiện hành.
Các đối tượng quy định tại mục a, b, c, d, trong thời gian đi học ngắn hạn hoặc
dài hạn trong nước vẫn thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc. Cơ quan đơn vị trả
lương hoặc sinh hoạt phí cho đối tượng có trách nhiệm đóng BHYT theo quy định.
3.1.2. Bảo hiểm y tế tự nguyện.
Bảo hiểm y tế tự nguyện là một trong hai hình thức BHYT được Chính phủ
cho phép triển khai và tổ chức thực hiện trong phạm vi toàn quốc. BHYT tự
nguyện áp dụng cho tất cả các đối tượng ngoài những đối tượng BHYT bắt buộc,
kể cả người nước ngoài đến làm việc và học tập, du lịch tại Việt Nam. Như vậy, đối
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tượng của BHYT tự nguyện có số lượng rất đông đảo, đa dạng về thành phần và
nhận thức xã hội, có điều kiện kinh tế và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ khác nhau.
Hiện nay BHYT Việt Nam đang thực hiện BHYT tự nguyện cho những đối
tượng sau:
+ BHYT tự nguyện cho học sinh - sinh viên đang học các trường quốc lập, dân
lập bán công từ bậc Tiểu học đến bậc Đại học, trừ các đối tượng thuộc diện chính
sách ưu đãi xã hội của Nhà nước, đã được Nhà nước cấp thẻ BHYT như: các học
sinh - sinh viên đã được cấp thẻ T8 (cho người nghèo) và các đối tượng đã có thẻ
BHYT nhân đạo.
+ Đối tượng là người nông dân.
+ Đối tượng là người nghèo.
Người thuộc diện quá nghèo được miễn nộp một phần viện phí quy định tại
Nghị định 95/CP ngày 24/08/1994 của Chính phủ. Việc xác định hộ đói, nghèo

được áp dụng thống nhất theo chuẩn mực của Nhà nước công bố theo từng thời kỳ.
Người thuộc diện quá nghèo được cấp thẻ BHYT thanh toán 100% chi phí khám
chữa bệnh.
Trong tháng 12/2001, BHYT Hà nội đã chính tổ chức thí điểm BHYT toàn dân
ở huyện Sóc Sơn. Điều này đã thực sự mở rộng đối tượng tham gia tự nguyện và
nếu chương trình này thành công thì nó sẽ là cơ sở để nhân rộng mô hình ra cả
nước. Từ đó sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng được phục vụ
tốt hơn.
3.2. Phạm vi Bảo hiểm y tế.
a. người có thẻ BHYT bắt buộc được hưởng chế độ BHYT khi khám chữa
bệnh ngoại trú và nội trú gồm:
+ Khám bệnh, chuẩn đoán và điều trị.
+ Xét nghiệm, chiếu chụp X-quang, thăm dò chức năng.
+ Thuốc trong danh mục của Bộ y tế.
+ Máu, dịch truyền.
+ Các thủ thuật, phẫu thuật.
+ Sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh.
b. Người có thẻ BHYT chỉ được hưởng chế độ BHYT khi:
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Khám chữa bệnh tại cơ sở y tế đã đăng ký trên thẻ để quản lý và chăm sóc
sức khoẻ.
+ Khám chữa bệnh tại cơ sở y tế khác theo giới thiệu chuyển viện phù hợp với
tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ y tế.
+ Khám chữa bệnh tại bất kỳ cơ sơ y tế nào của Nhà nước trong trường hợp
cấp cứu.
c. Trong trường hợp khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng của bệnh nhân như: tự
chọn thầy thuốc, tự chọn buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám chữa bệnh, tự chọn các
dịch vụ y tế, khám chữa bệnh vượt tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của
Bộ y tế, khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế không có hợp đồng với cơ quan BHYT

thì quỹ BHYT chỉ thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo giá viện phí tại các
tuyến chuyên môn kỹ thuật phù hợp theo quy định của Bộ y tế. Phần chênh lệch
tăng thêm (nếu có) do người có thẻ BHYT tự trả cho cơ sở khám chữa bệnh.
d. Người có thẻ BHYT không được thanh toán trong các trường hợp sau:
+ Điều trị bệnh phong, sử dụng thuốc điều trị các bệnh lao, sốt rét, tâm thần
phân liệt, động kinh, dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, bệnh dại, tiêm chủng phòng
bệnh, điều dưỡng, an dưỡng.
+ Phòng bệnh, xét nghiệm, chuẩn đoán và điều trị HIV - AIDS, lậu, giang mai.
+ Chỉnh hình và tạo thẩm mỹ, làm chân giả, răng giả, mắt giả, kính mắt, máy
trợ thính, thuỷ tinh thể nhân tạo, ổ khớp nhân tạo, van tim nhân tạo.
+ Các bệnh bẩm sinh và dị tật bẩm sinh.
+ Bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạn chiến tranh
và thiên tai.
+ Tự tử, cố ý gây thương tích, nghiện chất ma tuý, vi phạm pháp luật.
+ Ngoài ra mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia khác
nhau. Cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm đối với người được BHYT nếu
họ khám chữa những bệnh thuộc chương trình này.
4. Mức đóng và phương thức đóng BHYT.
4.1. Mức phí Bảo hiểm y tế.
Phí BHYT là một khoản tiền mà người tham gia BHYT đóng cho cơ quan
BHYT trên cơ sở tổng quỹ lương hàng tháng, nhờ đó cơ quan BHYT sẽ đứng ra
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thanh toán các khoản chi phí BHYT cho người tham gia khi họ gặp phải những rủi
ro ốm đau, bệnh tật.
Phí BHYT có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp y tế, nó là nguồn hình thành
chính cho quỹ BHYT, quỹ khám chữa bệnh, từ đó cơ quan BHYT có thể trợ cấp,
chi trả cho người tham gia khi họ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật. Nó là cơ sở để thực
hiện công bằng xã hội trong khám chữa bệnh, giúp cho BHYT thực hiện được chức
năng của mình, thực hiện tính nhân đạo sâu sắc giữa người với người.

Điều lệ BHYT quy định mức phí đóng BHYT cho các đối tượng tham gia
BHYT bắt buộc cụ thể từng loại sau:
- Các đối tượng là người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp
Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang, các tổ chức kinh tế
thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội
mức đóng BHYT bằng 3% tiền lương cấp bậc, chức vụ, hệ số chênh lệch bảo lưu
(nếu có) ghi trong hợp đồng lao động và các khoản phụ cấp khu vực đắt đỏ, chức
vụ thâm niên, trong đó người sử dụng lao động đóng 2%, người lao động đóng 1%.
- Các đối tượng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất,
khu công nghiệp tập trung, các cơ quan tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt
Nam, các đơn vị, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên, mức
đóng BHYT bằng 3% tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp (nếu có) ghi
trong hợp đồng lao động theo quy định của Nhà nước, trong đó người sử dụng lao
động có trách nhiệm đóng 2%, người lao động đóng 1%.
- Các đối tượng là cán bộ, công chức làm việc trong các đơn vị hành chính sự
nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, các cán
bộ phường, xã, thị trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng, ngườilàm việc trong các cơ
quan dân cử từ Trung ương đến xã, phường.
+ Đối với người hưởng lương: mức đóng BHYT bằng 3% tiền lương cấp bậc,
lương chức vụ, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có) và các khoản trợ cấp chức vụ,
khu vực đắt đỏ, thâm niên theo quy định của Nhà nước. Cơ quan sử dụng công
chức, viên chức đóng 2%; công chức, viên chức đóng 1%.
+ Đối với người hưởng sinh hoạt phí là cán bộ công tác Đảng, công tác chính
quyền, công tác đoàn thể và sự nghiệp ở xã, phường, thị trấn mức đóng BHYT
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng 3% tiền sinh hoạt phí và các khoản phụ cấp (nếu có). Cơ quan cấp sinh hoạt
phí đóng 2%, người hưởng sinh hoạt phí đóng 1%.
+ Đối với người hưởng sinh hoạt phí là đại biều Hội đồng nhân dân đương
nhiệm các cấp, không thuộc diện biên chế Nhà nước hoặc không hưởng chế độ

BHXH hàng tháng mức đóng BHYT bằng 3% mức lương tối thiểu hiện hành do cơ
quan cấp sinh hoạt phí đóng.
- Các đối tượng là người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp BHXH
hàng tháng do suy giảm khả năng lao động thì mức đóng BHYT bằng 3% tiền
lương hưu, tiền trợ cấp BHXH hàng tháng do cơ quan BHXH trực tiếp đóng.
- Các đối tượng là người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội,
mức đóng BHYT bằng 3% mức lương tối thiểu hiện hành do cơ quan trực tiếp quản
lý kinh phí của đối tượng đóng.
- Mức đóng BHYT học sinh - sinh viên.
STT Cấp học
Mức đóng
BHYT khu vưc
nội thành
(đ/hs/năm)
Mức đóng
BHYT khu vực
ngoại thành
(đ/hs/năm)
1
Tiểu học - Trung học cơ
sở - Trung học phổ thông
25000 20000
2
Đại học - Cao đẳng -
Trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề.
40000 40000
- Mức đóng BHYT cho người nghèo là 30.000 đồng/thẻ/người/năm.
4.2. Phương thưc đóng BHYT.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động có trách nhiệm lập

danh sách cán bộ, công chức, người lao động hoặc đối tượng được giao quản lý và
ghi rõ mức tiền lương, tiền công, tiền sinh hoạt phí, tiền trợ cấp hàng tháng cùng
các khoản phụ cấp (nếu có) của từng người để nộp BHYT theo quy định như sau:
+ Người sử dụng lao động quy định tại mục a, phần đối tượng BHYT bắt buộc
trích trước tiền đóng BHYT và thu tiền đóng BHYT của người lao động theo tỷ lệ
quy định để nộp vào quỹ BHYT định kỳ ít nhất 3 tháng 1 lần.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần trích nộp BHYT (2%) thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động
được hạch toán vào chi phí sản xuất hoặc chi phí lưu thông. Phần nộp BHYT (1%)
thuộc trách nhiệm của người lao động được trích từ tiền lương, tiền công của mỗi
cá nhân.
+ Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý các đối tượng quy định tại mục b, c,
phần đối tượng BHYT bắt buộc định kỳ ít nhất 3 tháng một lần trích trước tiền
đóng BHYT nộp cho cơ quan BHYT.
Phần trích nộp BHYT (2%) thuộc trách nhiệm của cơ quan, đơn vị hưởng
lương từ nguồn ngân sách Nhà nước được bố trí trong dự toán ngân sách hàng quý,
năm và hạch toán vào Chương, Loại, Khoản, Mục tương ứng của Mục lục Ngân
sách Nhà nước. Phần nộp BHYT (1%) thuộc trách nhiệm của cán bộ, công chức,
người lao động được trích từ tiền lương hoặc sinh hoạt phí của mỗi cá nhân.
+ Cơ quan quản lý đối tượng quy định tại mục d, f, phần đối tượng BHYT bắt
buộc định kỳ ít nhất 3 tháng một lần nộp tiền đóng BHYT cho cơ quan BHYT.
Kinh phí đóng BHYT do các đơn vị trả sinh hoạt phí hoặc trợ cấp lập dự toán với
cơ quan Tài chính cùng cấp để cấp phát đủ 3% lương tối thiểu hiện hành theo quy
định của Nhà nước.
+ Cơ quan BHXH chuyển kinh phí đóng BHYT của các đối tượng quy định tại
mục e, phần đối tượng BHYT bắt buộc cho cơ quan BHYT định kỳ ít nhất 3 tháng
một lần.
5. Quỹ và cơ chế Quản lý quỹ BHYT.
5.1. Nguồn hình thành quỹ BHYT.

5.1.1. Nguồn hình thành quỹ BHYT bắt buộc.
Quỹ BHYT bắt buộc được hình thành tư nguồn sau đây:
+ Thu từ các đối tượng tham gia BHYT bắt buộc theo quy định của Nhà nước.
Các đối tượng này bao gồm:
B1: Các đối tượng hành chính sự nghiệp hưởng lương từ Ngân sách của Nhà
nước.
B2: Các doanh nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp hạch toán lấy
thu bù chi.
B3: Các doanh nghiệp ngoài quôc doanh có thuê từ 10 lao động trở lên.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B4: Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
B5: Các tổ chức nước ngoài có trụ sở, văn phòng đại diện tại Việt Nam có thuê
lao động Việt Nam.
B6: Các đối tượng hưu trí, mất sức.
B7: Các đối tượng thương binh, ưu đãi xã hội.
B8: Uỷ ban nhân dân các cấp.
B9: Đại biều hội đồng nhân dân các cấp.
+ Lãi của số tiền chậm nộp BHYT.
+ Từ sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước.
+ Một phần tiền sinh lời từ hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ (bao gồm cả
lãi tiền gửi ngân hàng).
+ Thu từ tài trợ, viện trợ của các tổ chức từ thiện, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Lãi do đâu tư phần quỹ nhàn rỗi theo quy định trong các văn bản Pháp luật
của Nhà nước về BHYT.
+ Thu từ các nguồn khác.
5.1.2. Nguồn hình thành quỹ BHYT tự nguyện.
a. Quỹ BHYT tự nguyện học sinh - sinh viên.
Quỹ này được hình thành từ nguồn kinh phí thu BHYT học sinh - sinh viên.
b. Quỹ BHYT cho người nghèo.

Quỹ này được lấy từ dự toán chi đảm bảo xã hội đã được bố trí hàng năm từ
nguồn ngân sách của địa phương, để hỗ trợ cho ngân sách mua thẻ BHYT cho
người thuộc diện quá nghèo, tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế xã hội của từng địa
phương, có thể huy động sự đóng góp từ các tổ chức kinh tế xã hội như: Hội chữ
thập đỏ, các tổ chức từ thiện khác. Nguồn kinh phí này do Bộ lao động - Thương
binh và xã hội quản lý, sau đó cấp phát cho cơ quan BHYT.
c. Quỹ BHYT cho nông dân.
Quỹ này được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người tham gia.
5.2. Cơ chế quản lý quỹ BHYT.
5.2.1. Đối với BHYT bắt buộc.
Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống BHYT
Việt Nam; hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ.
Cụ thể quá trình quản lý phân phối sử dụng của quỹ BHYT như sau:
25

×