Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tăng khả năng cạnh tranh của Công ty Bảo hiểm Hà Nội bằng chính sách marketing

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.12 KB, 63 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt nam ngày càng trở nên sôi động. Điều
đó là tất yếu sau sự ra đời của Nghị định 100/CP của Chính Phủ vào năm 1993.
Ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm ra đời sẽ xâm nhập vào thị trường bảo
hiểm Việt Nam. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ ngày càng bị chia thành các
phần nhỏ hơn, trước tình hình đó, mỗi công ty bảo hiểm tự nhận thức được là họ
cần phải có chiến lược cạnh tranh hiệu quả cho bản thân họ.
Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay, là chiến lược
Marketing để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nó giúp các công
ty trong tiếp cận, khai thác và phát triển thị trường. Ngoài ra Marketing còn đưa
ra nhiều giải pháp quan trọng cho chiến lược cạnh tranh của công ty. Thế nhưng
ở Việt Nam, có thể còn một số công ty chưa chú trọng triệt để việc nghiên cứu
và áp dụng triệt để Marketing vào kinh doanh. Như vậy đứng trước hoàn cảnh
thị trường bảo hiểm cạnh tranh gay gắt, các công ty bảo hiểm cần phải sử dụng
triệt để công cụ Marketing.
Thực tế rằng, càng nhiều công ty bảo hiểm ra đời thì tình hình cạnh ttranh
sẽ càng khắc nghiệt và Bảo Việt với tư cách là một tập đoàn bảo hiẻm Quốc gia
một Tổng Công ty được Nhà nước xếp hạng đặc biệt sẽ là mục tiêu cạnh tranh
của các doanh nghiệp khác. Bảo Việt trong thời gian vừa qua nắm phần lớn thị
trường, nhưng ngày càng có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập thì
vấn đề cạnh tranh của thị trường bảo hiểm ngày càng trở nên sôi động. Chính vì
vậy, em đã chọn đề tài: “Tăng khả năng cạnh tranh của Công ty Bảo hiểm Hà
Nội bằng chính sách marketing”.
Trong phạm vi của đề tài, bài viết không có tham vọng trình bày hết mọi
khía cạnh của bảo hiểm thương mại và Marketing trong bảo hiểm, mà chỉ xin
tập trung trình bày một số nét về bảo hiểm thương mại và chính sách Marketing-
Mix trong bảo hiểm. Đồng thời với các nội dung trên, tôi xin được trình bày về
công ty bảo hiểm Hà nội trong việc tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Với các nội dung trên, kết cấu của đề tài bao gồm:
Phần I: Lý luận chung
Phần II: Thực trạng triển khai chính sách Marketing để tăng khả năng


cạnh tranh của công ty bảo hiểm Hà Nội.
Phần III: Một số kiến nghị về chính sách Marketing để tăng khả năng cạnh
tranh của công ty bảo hiểm Hà Nội.
Phần I
Lý luận chung
I - SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI
 Sự cần thiết của bảo hiểm thương mại
Trong cuộc sống hàng cũng như trong hoạt động kinh doanh, mổi cá
nhân, cơ quan, doanh nghiệp thường gặp những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra mà
không ai lường trước được. Những rủi ro đó có thể tác động đến con người, tài
sản và cả trách nhiệm của con người. Có rất nhiều loại rủi ro phát sinh trong
thực tế. Nếu ghép lại, người ta có thể chia ra làm ba nhóm rủi ro chính đó là:rủi
ro do thiên tai gây ra,rủi ro do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
gây ra, những rủi ro do môi trường xã hội tạo ra.
Khi gặp rủi ro thường dẩn đến hậu quả, thiệt hại về mặt tài chính. Để
khắc phục hậu quả, từ trước đến nay, loài người đã có nhiều biện pháp khắc
phục như:tự tích luỹ, đi vay, hình thành các hội tương hổ...
Tuy vậy, do sự tiến bộ của khao học kỹ thuật và công nghệ, do quy mô
sản xuất ngày càng được mở rộng cho nên mổi cá nhân, mổi doanh nghiệp, mổi
cơ quan trong xã hội thường có những tài sản có giá trị rất lớn, có nhiều trách
nhiệm phát sinh. Hơn nữa, giá trị của con người không thể đo bằng tiền. Do đó
khi gặp rủi ro, các biện pháp trên không thể khắc phục nổi.
Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế thị trường mổi cá nhân, mổi cơ quan,
doanh nghiệp đều phải tự chủ về mặt tài chính, Nhà nước không còn bao cấp
nữa. Đặc biệt trong cơ chế này, mỗi cá nhân, mổi doanh nghiệp muốn mở rộng
quy mô sản xuất hầu đều phải vay vốn của ngân hàng. Nếu không có thế chấp
hoặc mua bảo hiểm hầu như ngân hàng không cho vay vốn. Từ những vấn đề
trên bảo hiểm ra đời hết sức cần thiết.
 Tác dụng của bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại ra đời và có rất nhiều tác dụng trong đời sống

kinh tế xã hội:
* Bảo hiểm thương mại giúp nhiều thành viên trong xã hội, nhiều cơ quan
đơn vị ổn định cuộc sống, sản xuất kinh doanh khi gặp rủi ro. Điều đó có nghĩa
là khi họ gặp rủi ro được bảo hiểm, họ có thể được công ty bảo hiểm chi trả tiền
bảo hiểm.
* Bảo hiểm thường góp phần giữ gìn trật tự an ninh, an toàn xã hội và góp
phần làm cho xã hội văn minh hơn, lành mạnh hơn. Tác dụng này của bảo hiểm
thương mại được thể hiện ở chổ, khi con người gặp rủi ro, nhất là những rủi ro
lớn, thiệt hại nghiêm trọng, họ thường bất ổn về mặt tinh thần. Điều đó có thể
dẩn đến sự bất ổn mang tính dây chuyền trong đời sống chính trị, kinh tế xã hội.
Do đó để tránh mọi sự bất ổn, bảo hiểm chính là giải pháp cuối cùng. Điều này
được thể hiện qua các công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho các khách hàng
gặp rủi ro được bảo hiểm để họ giảm bớt khó khăn về mặt tài chính và tinh thần
của họ sẽ được ổn định hơn.
*Bảo hiểm thương mại góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất (qua việc các
công ty bảo hiểm làm đường lánh nạn, hướng dẩn, cung cấp các thiết bị phòng
cháy chữa cháy,...). Đây là tác dụng mang tính “phòng bệnh” hơn “chữa bệnh”
của bảo hiểm thương mại. Từ đó các công ty bảo hiểm có thể không phải hoặc
chỉ phải thanh toán ít tiền bảo hiểm hơn cho người được bảo hiểm khi rủi ro
không xãy ra hoặc rủi ro xảy ra với tổn thất nhỏ.
* Bảo hiểm thương mại còn góp phần vào việc đầu tư cho tăng trưởng và
phất triển của nền kinh tế quốc gia. Điều này thể hiện qua việc mổi công ty
bảo hiểm là một nhà đầu tư tài chính cỡ lớn. Nguồn tài chính của công ty chủ
yếu thu từ nguồn đóng phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và vốn tự
có của công ty. Đối tượng đầu tư của các công ty chủ yếu là trái, cổ phiếu, bất
động sản, cho vay,...
* Bảo hiểm thương mại ra đời còn góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho
ngân sách Nhà nước, đồng thời còn làm tăng thu ngân sách và ngoại tệ cho Nhà
nước. Tác dụng này được thể hiện khi gặp rủi ro, người bảo hiểm có thể được
bồi thường để khắc phục lại hoạt động như cũ mà không cần sự giúp đỡ từ ngân

sách Nhà nước. Hơn nữa công ty bảo hiểm là một đơn vị kinh doanh, có nghĩa
vụ nộp Ngân sách và bán ngoại tệ cho Nhà nước.
* Bảo hiểm thương mại góp phần mở rộng các mối quan hệ kinh tế với nước
ngoài.Điều này được thể hiện chủ yếu qua hoạt động tái bảo hiểm ở nước ngoài
và qua hoạt động bán bảo hiểm cho các tổ chức quốc tế...
II - CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO
HIỂM THƯƠNG MẠI
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, ở bất kỳ lĩnh vực nào khi tiến hành hoạt
động cũng đều phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và bảo hiểm cũng
không phải là ngoại lệ, việc nghiên cứu những quy tắc đó có một ý nghĩa lý luận
và thực tiển rất cao. Chính vì vậy, ở đây xin trình bày những nguyên tắc mà khi
tiến hành bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào, dù là bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách
nhiệm hay bảo hiểm con người đều phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc số đông: Về bản chất, hoạt động của bảo hiểm thương mại là
nhận một khoản tiền mà người ta gọi là phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải
trả cho bên đã đóng góp khoản tiền phí đó một số tiền (bồi thường, chi trả) lớn
hơn gấp nhiều lần. Để làm được điều này hoạt động bảo hiểm thương mại phải
dựa trên nguyên tắc số đông. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu
được trong bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại nào, theo đó hậu quả rủi
ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền gom
được từ rất nhiều ng]ời có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi
thường cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia
bảo hiểm, người bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật thống kê
số lớn. Nguyên tắc số đông bù số ít cho biết rằng, càng nhiều người tham gia
bảo hiểm thì qũi bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dể
dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một nghiệp vụ
bảo hiểm chỉ có được triển khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm
đó.
* Nguyên tắc lựa chọn rủi ro: Hoạt động bảo hiểm thương mại cung cấp

các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên
không phải trong mọi trường hợp, người bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu
bảo đảm. Hiếm có nhf kinh doanh bảo hiểm nào lại dại dột hứa sẽ bồi thường
cho ông chủ một ngôi nhà trong trường hợp có cháy xảy ra khi ngôi nhà đó chứa
đầy hóa chất, không hề trạng bị phòng cháy chữa cháy, và nằm ngây một cạnh
xưởng rèn. Cũng vậy, người bảo hiểm thật khó mà chấp nhận bảo đảm cho
những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ô tô ở trong tình trạng không an toàn
về kỹ thuật hay không được phép lưu hành.
Nguyên tắc lựa chọn rủi ro nhằm tránh cho người bảo hiểm phải bồi
thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc
chắn dẫn đến phá sản, đồng thời cũng giúp cho các công ty bảo hiểm có thể tính
được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ để đảm bảo
cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho phía bên bảo hiểm
mà chính ngay người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn trong trường
hợp có những rủi ro không thuần nhất (xác suất không bằng nhau) khi nguyên
tắc nầy được áp dụng.
* Nguyên tắc phân tán rủi ro: Là người nhận các rủi ro được chuyển giao
từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với
những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù qũi bảo hiểm là một qũi-
tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số
đông và như vậy, với tư cách là người tập trung và quản lý qũi, các công ty bảo
hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế,
không phải lúc nào người bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này, nhất
là trong những trường hợp quĩ bảo hiểm tập trung được còn chưa nhiều mà giá
trị bảo hiểm lại rất lớn hoặc trong trường hợp có tổn thất lớn liên tiếp xảy ra.
Để thực hiện được nguyên tắc phân tán rủi ro, các nhà bảo hiểm đẫ sử
dụng hai phương thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo
hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo hiểm cho một rủi ro lớn thì tái bảo
hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một
rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo

hiểm khác.
* Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ
khi người bảo hiểm nghiên cứu để soạn thảo một hợp đồng bảo hiểm đến khi
phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch kinh doanh với khách
hàng.
Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi người bảo hiểm phải
có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo
đảm cho quyền lợi của cả hai bên. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có đảm bảo
hay không, giá cả có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có
đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không…đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của
phía bên bảo hiểm.
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia
bảo hiểm là phải khai báo rủi ro trung thực khi tham gia bảo hiểm để giúp cho
người bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm
vào đó các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các
thiệt hại để đòi bồi thường sẽ được xử lí theo pháp luật.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm
thương mại sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm từng loại.
III - SỰ CẦN THIẾT CỦA MAKETING TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM
* Khái niệm chung về Marketing
Nhiều người thường lầm tưởng marketing với việc bán hàng và các hoạt
động kích thích tiêu thụ. Vì vậy, họ quan niệm marketing chẳng qua là hệ thống
các biện pháp mà người bán hàng sử dụng để cốt làm sao bán được hàng và
được tiền về cho người bán.
Thực ra tiêu thụ chỉ là một trong những khâu của hoạt động Marketing
của doanh nghiệp, mà hơn thế nữa đó lại không phải là khâu quan trọng nhất.
Một hàng hóa kém thích hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, chất lượng thấp,
kiểu dáng kém hấp dẫn, giá cả đắt.. thì dù cho người ta có tốn bao nhiêu công
sức và tiền của để thuyết phục khách hàng thì việc mua chúng cũng rất hạn chế.
Ngược lại nếu như nhà kinh doanh tìm hiểu kỹ lưỡng nhu cầu của khách hàng,

tạo ra những mặt hàng phù hợp với nó, quy định một mức giá thích hợp, có một
phương thức phân phối thích hợp và kích thích tiêu thụ có hiệu quả thì chắc
chắn việc bán hàng hóa sẽ dể dàng hơn. Cách làm như vậy thể hiện sự thực hành
quan điểm Marketing hiện đại. Người ta định nghĩa marketing hiện đại như sau :
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi với
mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người hoặc
Marketing là một dạng hoạt động của con người,bao gồm cả tổ chức nhằm thoả
mãn các nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi.
Thông thường người ta cho rằng Marketing là công việc của người bán
hàng, nhưng hiểu một cách đầy đủ cả người mua cũng phải làm marketing
Hiện nay, trong điều kiện nhu cầu luôn biến động, đa dạng thì việc thu
hút nhiều khách hàng là một nhiệm vụ khó khăn. Thế nhưng, Marketing là một
công cụ hữu ích, nó sẽ giúp các nhà doanh nghiệp biết được nhu cầu thị trường
thông qua việc thu thập, điều tra, nghiên cứu các nhóm khách hàng. Từ đó
doanh nghiệp sẽ có những đối sách cụ thể đưa sản phẩm của mình ra thị trường
nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng giúp các doanh nghiệp đạt được các
mục tiêu kinh doanh của mình.
Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường,
nó đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ phải phát huy điểm mạnh khắc phục
điểm yếu của mình, mà các doanh nghiệp còn phải nắm bắt được chiến lược,
sách lược, điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Marketing sẽ là một vũ
khí cạnh tranh lợi hại, giúp doanh nghiệp giữ được các khách hàng cũ, thu hút
thêm nhiều khách hàng mới và từ đó mở rộng được thị phần của doanh nghiệp
trên thị trường.
* Những chức năng cơ bản của Marketing
Trong các ngành kinh doanh nói chung bảo hiểm nói riêng, muốn tăng
khả năng cạnh tranh đều phải có chính sách hợp lý, từ khi đưa sản phẩm ra thị
trường chào bán và đến khi hạch toán lợi nhuận. Marketing có một số chức năng
cơ bản sau đây:
+ Nghiên cứu

Việc nghiên cứu gồm hai nội dung là nghiên cứu bên trong và nghiên
cứu bên ngoài. Nghiên cứu bên trong là nghiên cứu điểm mạnh và điểm yếu
của doanh nghiệp, kết quả của hoạt động trước, những mục tiêu đòi hỏi của
doanh nghiệp. Nghiên cứu bên ngoài gồm nghiên cứu môi trường vi mô (như
giới trung gian, các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, công chúng,... ) và môi
trường vĩ mô ( như nhân khẩu, kinh tế, chính trị, văn hoá,... ). Cuối cùng việc
tổng hợp những nghiên cứu trên để làm sáng tỏ những cơ hội rủi ro của doanh
nghiệp trên thị trường.
+ Sự lựa chọn
Kết quả nghiên cứu ở trên, cho phép người làm Marketing đánh giá
đựơc nhu cầu của khách hàng, xác định những đặc điểm của sản phẩm có thể
đáp ứng những mong đợi của nhu cầu và dự tính về vị trí của doanh nghiệp trên
thị trường để tạo ra sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh có cùng sản phẩm.
Cụ thể hơn, người làm Marketing còn đặt ra vấn đề Marketing- mix của sản
phẩm bao gồm: những tính chất thực của sản phẩm hoặc các dịch vụ phối hợp,
mặt bằng giá, phương pháp phân phối, phương pháp bán, thông tin về sản phẩm,
các hoạt động thương mại ... để đạt được mục tiêu kinh doanh. Ngoài ra, những
nội dung trên còn được bổ sung thêm bởi các thông tin kinh tế như: chi phân
phối, quảng cáo, khối lượng được bán, ...
+ Hành động
Trong giai đoạn này, người làm Marketing phải phối hợp, thúc đẩy những
công việc chủ chốt của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa là cần sự phối hợp
giữa Marketing, tài chính, sản xuất,... để tránh mọi mâu thuẩn khi thực hiện
chiến lược Marketing.
Khi thực hiện chiến lược Marketing, doanh nghiệp cần có sự linh hoạt
trước sự biến động của môi trường. Mọi sự cứng nhắc trong việc thực hiện chiến
lược Marketing đều có thể dẫn tới việc không đạt đựơc những mục tiêu kinh
doanh. Do đó doanh nghiệp cần có sự kiểm tra và điều chỉnh liên tục trong hoạt
động kinh doanh của mình.
* Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm và sự cần thiết của hoạt động Marketing

Trong cuộc sống hàng ngày, hàng giờ đều diễn các hoạt động thúc đẩy
sự tiến bộ của loại người, chính từ các hoạt động mà nó đưa không ít người đến
nơi phá sản,gia đình bị thiếu thốn, cuộc sống bế tắc,…. Chính vì vậy con người
cần được sự an toàn ,thoải mái ,…, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, khắc
phục những hậu quả xảy ra khi gặp rủi ro gây tổn thất. Lúc đầu con người tự bảo
vệ cho mình bằng cách đề phòng, dự trữ thức ăn và các vật dụng khác nhưng về
sau nhờ sự tiến bộ về khoa học, công nghệ và sự phát mạnh mẽ về kinh tế mà
đòi hỏi hoạt động bảo hiểm ra đời. Để đưa sản phẩm bảo hiểm vào thị trường là
hết sức khó khăn vì sản phẩm bảo là một dịch vụ tài chính và nó thể hiện ở một
số đặc điểm sau đây:
+ Sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ đặc biệt
Nói một cách đơn giản nhất, người bảo hiểm không bán một sản phẩm
hữu hình. Theo các thuật ngữ thương mại quốc tế, sản phẩm bảo hiểm của các
công ty bảo hiểm được phân loại là một hoạt động vô hình. Để thực hiện giao
bán sản phẩm thì giữa người bảo hiểm (bán dịch vụ) và người mua (người tham
gia) là bán cam kết về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm cho những rủi ro
gây tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, lời cam kết là vô hình mà cả
người bán lẫn người mua không hình dung ra được kích thước, màu sắc, hình
dáng,… của sản phẩm như thế nào. Người mua tin vào lời hứa của người bảo
hiểm. Để thực hiện mua bán sản phẩm bảo hiểm công ty phải thông qua hoạt
động Marketing.
+ Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi
Khi nói đến mua bán sản phẩm thì người mua luôn mong đợi sử dụng có
hiệu quả. Nhưng đối với sản phẩm bảo hiểm thì ngược lại người mua không
mong đợi đến việc phải sử dụng sản phẩm, trừ bảo hiểm nhân thọ và hưu trí.
Bởi lẽ đó mà sản bảo hiểm khi mua người ta mong không phải sử dụng
đến là điều hạnh phúc nhất. Nếu xảy ra là điều tồi tệ đối với bản thân và gia đình
họ. Người tham gia (mua bảo hiểm ) để tạo được tâm lý bình an cho cuộc sống
trong tương lai khi bất trắc rủi ro đến với họ để bù đắp lại những tổn thất gây ra.
+ Sản phẩm bảo hiểm khó xác định hiệu quả kinh doanh trong từng chu kỳ

Người bán sản phẩm bảo hiểm thu được phí bảo hiểm từ người mua
nhưng điều đó không phải lúc nào anh ta cũng phải bồi thường hay trả tiền bảo
hiểm (trừ bảo hiểm nhân thọ) mà phải khi nào có rủi ro xảy ra thuộc phạm vi
bảo hiểm. Sự bồi thường có thể trong thời gian gần hoặc có thể sau một thời
gian dài. Chính vì vậy nó khó xác định hiệu quả trong thời gian ngắn.
+ Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo vệ bản quyền.
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “vô hình” nên khó mà xác định được
hình dạng, kích thước ,màu sắc, …. Cho nên người ta có thể sao chép các sản
phẩm đã có trên thị trường mà không vi phạm luật. Điều này gây khó dễ cho
hoạt động Marketing trong kinh doanh vì sản phẩm bảo hiểm có tên giống nhau
mà công ty nào cũng có. Do vậy, phải nêu được sản phẩm đó có đặc điểm nổi
bật với công ty này còn công ty khác thì có sự khác biệt hơn.
Dù một công ty hay doanh nghiệp nào trước khi đi vào hoạt đông kinh
doanh thì phải nắm vững sản phẩm của mình đưa vào thị trường, nó có đặc điểm
gì và sự cần thiết của hoạt động Marketing.
IV - NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MARKETING BẢO HIỂM
1. Nghiên cứu môi trường Marketing
Môi trường marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố,những lực lượng bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt
động hoặc ra quyết định của bộ phận marketing trong doanh nghiệp ,đến khả
năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng .
Những thay đổi của môi trường marketing ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ
tới các doanh nghiệp. Bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu đến kinh doanh. Môi
trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ dàng phát hiện
và dự báo mà nó còn luôn tiềm ẩn những biến động khôn lường; thậm trí những
cú sốc.
Như vậy, môi trường marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và cả
những sức ép, sự đe doạ cho tất cả các nhà kinh doanh. điều căn bản là họ phải
sử dụng các công cụ nghiên cứu marketing, các hệ thống marketing để thưo dõi,
nắm bắt và xử lý nhạy bén các quyết định marketing nhằm thích ứng với những

thay đổi từ phía môi trường.
Môi trường Marketing là tập hợp của môi trường marketing vi mô và môi
trường marketing vĩ mô. môi trường marketing vi mô bao gồm các yếu tố liên
quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng cuả doanh
nghiệp khi phục vụ khách hàng. đó là nhân tố nội tại của công ty, các kênh
marketing, thị trường khách hàng, người cạnh tranh, người cung ứng, các tổ
chức các tổ chức trung gian … trong chừng mực nhất định, doanh nghiệp có thể
tác động để cải thiện môi trường marketing vi mô,
Môi trường marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tính
chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi trường
marketing vi mô và tới các quyết định marketing của doanh nghiệp. Môi trường
marketing vĩ mô tập hợp tất cả các yếu tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát
và thay đổi được. đó là những yếu tố thuộc về nhân khẩu học, kinh tế, tự nhiwn,
kĩ thuật - công nghệ, chính trị – pháp luật, đạo đức và văn hoá xã hội …. Dưới
đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng nhóm yếu tố của môi trường marketing.
a) Những yếu tố cơ bản của môi trường vi mô:
Để hoạt động marketing thành công,bộ phận marketing của doanh
nghiệp phải phối hợp hoạt động với các bộ phận khác của doanh nghiệp và cân
nhắc sự ảnh hưởng của những người cung cấp,các đối thủ cạnh tranh,các trung
gian marketing và khách hàng .Tất cả các lực lượng đó tạo thành môi trường
marketing vi mô theo sơ đồ sau:
Công chúng và các tổ chức công cộng
Họ phải chú ý đến tất cả những yếu tố của môi trường vi mô:
- Trước tiên công ty phải chú ý đến lợi ích của nhóm trong nội bộ bản thân
công ty như ban lãnh đạo tối cao, phòng tài chính phòng nghiên cứu thiết kế thử
nghiệm, phòng cung ứng vật tư,… Đối với những người soạn thảo Marrketing
chính tất cả những nhóm này tạo nên môi trường vi mô của công ty.
- Những người cung cấp là những công ty kinh doanh và những người có thể
cung cấp cho công ty và các đối thủ cạnh tranh, các nguồn vật tư cần thiết để sản
xuất ra những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ nhất định.

- Các trung gian Marketing là những công ty hỗ trợ cho công ty đi lên, tiêu
thụ và phổ biến hàng hóa của công ty trong giới khách hàng. Ở đây gồm những
người mối giới thương mại, các công ty chuyên tổ chức lưu thông hàng hóa, các
tổ chức dịch vụ Marketing và các tổ chức tài chính tín dụng.
- Khách hàng: là đói tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị
trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm
nhu cầu.Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi khách hàng và tiên
liệu những biến đổi về nhu cầu của họ.Để việc nắm và theo dõi thông tin về
Những
người
cung
cấp
Những
người cạnh
tranh
Công ty
Các trung
gian
Marketing
Khách
h ngà
khách hàng,doanh nghiệp thường tập trung vào năm loại thị trường khách hàng
như sau:
+ Thị trường người tiêu dùng: Những người và hộ dân muahànghóa,dịchvụ
để sử dụng cho cá nhân.
+ Thị trường các nhà sản xuất: Các tổ chức mua hàng hóa và dịch vụ để sử
dụng chung trong quá trình sản xuất.
+ Thị trường ngành buôn bán trung gian: Tổ chức mua hàng hóa và dịch vụ
để kiếm lời.

+ Thị trường các cơ quan Nhà nước: Những tổ chức nhà nước mua hàng hóa
và dịch để sau đó sử dụng trong lĩnh vực dịch vụ công cộng hoặc chuyển giao
những hàng hóa và dịch vụ đó cho người cần đến nó.
+ Thị trường quốc tế: Những người mua hàng ở ngoài nước.
- Những người cạnh tranh: Mội công ty đều rất có nhiều đối thủ cạnh tranh
khác nhau, để giải quyết vấn đề này công ty phải tìm hiểu nhu cầu thị trường để
có thể làm thỏa mãn được thị trường bằng nhiều cách, vấn đề này phụ thuộc vào
ngân sách tài chính của công ty
- Công chúng trực tiếp: Là một nhóm bất kỳ tỏ ra quan tâm thực sự hay có
thể sẽ quan tâm đến những tổ chức hay có ảnh hưởng đến khả năng đạt tới
những mục tiêu yêu cầu của nó.
b) Những yếu tố cơ bản của môi trường vĩ mô:
Công ty và các nhà cung ứng của nó, những người mối giới Marketing,
khách hàng, đối thủ cạnh tranh và các nhóm công chúng trực tiếp hoạt động
trong khuôn khổ môi trường vĩ mô rộng lớn hơn các lực lượng hoặc là mở ra
những khả năng mới, hoặc là gây ra những nỗi nguy hiểm mới cho công ty.
Những lực lượng này chính là những yếu tố “không khống chế được”.
- Môi trường nhân khẩu học: Nhân khẩu học là một môn khoa học
nghiên cứu dân cư theo quan điểm dân số và mật độ… Những người làm
Marketing rất quan tâm đến yếu tố nhân khẩu học, bởi vì thị trường do con
người hợp lại mà thành.
- Môi trường kinh tế: Ngoài bản thân con người ra, sức mua của họ cũng
rất quan trọng đối với các thị trường. Mức sức mua chung phụ thuộc vào mức
thu nhập hiện tại, giá cả, số tiền tiết kiệm và khả năng vay nợ,…Sự suy thoái
kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao, lãi suất vay tín dụng tăng đều ảnh hưởng đến sức
mua.
- Môi trường tự nhiên: Vào những năm 1960 đã xuất hiện những nổi lo
lắng ngày càng tăng trong dư luận xã hội về vấn đề liệu hoạt động công nghiệp ở
các nước phát triển có dẩn đến sự phá hoại môi trường tự nhiên không. Những
biến đổi trong môi trường đều ảnh hưởng đến hàng hóa mà công ty sản xuất đưa

ra thị trường.
- Môi trường khoa học kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật và khoa học ứng
dụng là một lực lượng mang đầy kịch tính nhất, quyết định số phận của con
nhân
khẩ
u
học
Kinh
tế
Tự
nhiên
CN
KT
Chín
h
trị
Văn
hóa

hội
Doanh nghiệp
người, mọi kỹ thuật mới đều thay thế vị trí của kỹ thuật cũ. Bất kỳ ngành khoa
học mới nào cũng gây rất nhiều những hậu quả to lớn và lâu dài mà không bao
giờ cũng thấy trước được. Nhà hoạt động thị trường phải chú ý theo dõi những
xu thế chủ chốt trong khoa học kỹ thuật.
- Môi trường chính trị: Những sự kiện xảy ra trong môi trường chính trị
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những quyết định Marketing. Môi trường này bao
gồm luật lệ, các cơ quan nhà nước, các nhóm xã hội có uy tín có ảnh hưởng đến
các tổ chức cùng các cá nhân và hạn chế tự do hành động của họ trong quan hệ
xã hội.

- Môi trường văn học: Con người lớn lên trong một xã hội cụ thể và
chính xã hội đó đã trau dồi những quan điểm cơ bản cho họ tạo nên những giá trị
và chuẩn mực đạo đức. Hầu như không ý thức được điều đó họ vẫn tiếp thu thế
giới quan, quyết định thái độ của họ đối với bản thân mình và mối quan hệ qua
lại với nhau. Việc thông qua quyết định Marketing có thể chịu ảnh hưởng không
nhỏ của nếp sống văn hóa.
2. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Mới hiểu được các khách hàng của mình không thôi thì vẫn chưa đủ.
Nền kinh tế của nước ta đang chuyển biến khuyến khích cac lực lượng của thị
trường hoạt động. Các công ty đa quốc gia đang tiến mạnh vào thị trường mới
và tiến hành marketing toàn cầu. Kết quả là các công ty không có cách lựa chọn
nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Họ phải quan tâm đến
các đối thủ cạnh tranh của mình ngang với khách hàng mục tiêu.
Chính vì thế mà hiện nay người ta hay nói đến chiến tranh marketing,
các hệ thống thông tin tình báo cạnh tranh, và những đề tài tương tự, tuy vậy
không phải tất cả các công ty đều đã đầu tư đũng mức vào việc theo dõi các đôiư
thủ cạnh tranh của mình. Có một số công ty cứ tưởng là mình biết hết mọi điều
về các đối thủ cạnh tranh, bởi vì họ đang cạnh tranh với các đối thủ đó. Một số
công ty thì lại nghĩ rằng không bao giờ mình có thể biết đầy đủ về các đối thủ
cạnh tranh cuả mình, vậy thì tại sao cứ phải lo lắng. Tuy nhiên những công ty
nhạy bén hơn đã thiết kế và khai thác các hệ thống thu thập thông tin tình báo
liên tục về các đối thủ cạnh tranh của mình.
Hiểu được các đối thủ cạnh tranh của mình là điều kiện cực kì quan
trọng để có thể lập kế hoạch marketing hiệu quả. Công ty phải thường xuyên so
sánh các sản phẩm của mình, giá cả, các kênh và hoạt động khuyến mãi của
mình với các đối thủ cạnh tranh. Nhờ vậy mà họ có thể phát hiện được những
lĩnh vực mình có ưu thế cạnh tranh hay bị bất lợi trong cạnh tranh. Công ty có
thể tung ra những đòn tiến công chính xác hơn vào các đối thủ cạnh tranh cũng
như chuẩn bị phòng thủ vững chắc hơn trước những cuộc tiến công.
Các công ty cần biết năm vấn đề về các đối thủ cạnh tranh: những ai là

đối thủ cạnh tranh của ta? Chiến lược của họ như thế nào? mục tiêu của họ là gì?
những diểm mạnh và điểm yếu của họ là gì? cách thức phản ứng của họ ra sao?
Những thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho công ty trong việc hoạch định
chiến lược marketing của mình.
3. Kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp
a) Khái niệm
Kế hoạch chiến lược của công ty là một chủ thuyết quản trị kinh doanh làm
cơ sở cho việc lập kế hoạch chiến lược kinh doanh sao cho đảm bảo sự phát
triển và duy trì sự thích nghi chiến lược giữa một bên là các mục tiêu và khả
năng của công ty và bên kia là các cơ hội thị trường đầy biến động.
b) Quá trình lập kế hoạch chiến lược
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quá trình lập kế hoạch chiến lược kinh
doanh của công ty. Sơ đồ dưới đây sẽ minh hoạ các giai đoạn chủ yếu của quá
trình lập kế hoạch chiến lược của công ty.
Giai đoạn 1: Chúng ta đang ở đâu?
Phân tích môi trường v nguà ồn lực;
Phân tích cơ hội
v sà ự đe doạ
Phân tích điểm
mạnh, điểm yếu
Giai đoạn 2: Chúng ta muốn tiến tới
đâu?
định hướng chiến lược v thià ết lập chiến
lược
Xác định nhiệm vụ
kinh doanh tổng quát
Xác định mục tiêu
kinh doanh
Phân tích kinh doanh
v thià ết lập chiến

lược
* Phân tích môi trường và nguồn lực
+ Phân tích môi trường và thị trường :
Phân tích môi trường và thị trường trong quá trình lập kế hoạch chiến lược ở
cấp công ty nhằm tìm hiêủ vị trí chiến lược của công ty ,nó đòi hỏi trả lời các
câu hỏi sau:
- Những thay đổi nào đang diễn ra và sẽ diễn ra trong môi trường?
- Những thay đổi đó ảnh hưởng như thế nào đến môi trường marketing của
doanh nghiệp?
- Những nguồn lực nào mà công ty có thể có và cần phải sử dụng như thế
nào để thích ứng với những thay đổi đó?
- Những công chúng nào có liên hệ với công ty mà công ty mong muốn thiết
lập mối quan hệ tốt và lâu dài với họ?
Việc phân tích môi trường phải giúp cho công ty nhận thức được những cơ
hội và cả những nguy cơ đe doạ từ phía môi trường và thị trường .
+ Phân tích những đièu kiện và khả năng bên trong của công ty .
Đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của công ty là một trong những nội
dung quan trọng của việc phân tích các điều kiện để lập kế hoạch chiến lược.Sự
phân tích này nên tập trung vào các vấn đề chủ yếu như:
- Nguồn tài chính
- Nguồn nhân lực và tổ chức quản lý
- Năng lực sản xuất và trình độ công nghệ
- Năng lực marketing
Để nhận biết được những điểm mạnh và yếu của công ty, những nội dung
phân tích nói trên phải được đối chiếu và so sánh với những thay đổi của môi
trường, thị trường và đặc biệt là so sánh với các đối thủ cạnh tranh.
Hơn thế nữa, nó phải chỉ ra được những khả năng huy động và sử dụng
nguồn lực của công ty để đạt tới những mục tiêu kinh doanh nhất định.
+ Định hướng chiến lược và thiết lập kế hoạch chiến lược
- Xác định nhiệm vụ kinh doanh tổng quát của công ty

- Xác định mục tiêu kinh doanh
- Phân tích hồ sơ kinh doanh và thiết lập chiến lược
V. LỢI THẾ CẠNH TRANH.
Mặc dù đã có nhiều công ty bảo hiểm ra đời và xâm nhập vào thị trường
Việt nam nói chung và thị trường Hà nội nói riêng, tuy nhiên công ty Bảo hiểm
Hà nội vẫn có được lợi thế rất lớn trên thị trường Hà nội. Điểm thuận lợi nổi bật
nhất đó chính là uy tín của Bảo việt trên các lĩnh vực Bảo hiểm của mình nói
chung và trên lĩnh vực Bảo hiểm Phi nhân thọ cả Bảo Việt Hà nội. Các dịch vụ
của Bảo việt ngày càng đa dạng đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu của các khách
hàng. không những vậy phí Bảo hiểm của Bảo việt thường thấp hơn các đối thủ
cạnh tranh mà mức trách nhiệm lại cao hơn. Là doanh nghiệp có uy tín lâu năm,
han đầu trong lĩnh vực kinh doanh Bảo hiểm tại Việt nam, chất lượng dịch vụ lại
tốt hơn, giá cả thấp hơn, sự phục vụ tận tình chu đáo, đây chính là chìa khoá để
cạnh tranh thắng lợi và đem lại vị thế dẫn đầu trên lĩnh vực Bảo hiểm tại Việt
nam cho Bảo việt.
Những yếu tố đem lại lợi thế cạnh tranh cho Bảo việt Hà nội đó chính là
hình ảnh uy tín của công ty, chất lượng và giá thành dịc vụ, đội ngũ nhân viên,
tư vấn khách hàng, giám định bồi thường….
• Hình ảnh và uy tín: Với tư cách là người dẫn đầu trong lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ trên thị trường Hà nội, Bảo việt Hà nội đã được khách hàng
biết đến từ nhiều năm. uy tín của công ty ngày càng tăng cao tạo nên ưu
thế vượt trội trong việc cạnh tranh với các đối thủ khác.
• Chất lượng và giá thành dịch vụ: Các sản phẩm dịch vụ Bảo hiểm phi
nhân thọ của Bảo việt Hà nội rất đa dạng, chúng đều có chất lượng rất
tốt, giá thành lại rẻ hơn của các đối thủ cạnh tranh chính vì vậy nó đem
lại thuận lợi rất nhiều cho công ty. Chúng luôn tạo cho khách hàng sự tin
tưởng, việc kí hợp đồng với diều kiện dễ dang hơn so với các đối thủ
cạnh tranh. Đối với các khách hàng lớn công ty luôn có chề độ hoa hồng
thích hợp tạo nên sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh.
• Đội ngũ nhân viên: Bảo việt Hà nội có một đội ngũ nhân viên giàu kinh

nghiệm, năng lực và năng động: Có đầy đủ kỹ năng và kiến thức cần
thiết, các nhân viên luôn nhã nhặn, niêm nở, lễ phép và chu đáo với
khách hàng, luôn tạo được sự tin cậy, yên tâm đối với công ty cũng như
với khách hàng, đảm bảo cung cấp dịch vụ đồng đều và chính xác, đảm
bảo nhanh chóng giải quyết những yêu cầu và vấn đề của khách hàng về
dịch vụ Bảo hiểm. Họ lhông ngừng tìm hiểu khách hàng và cung cấp
những thông tin rõ ràng, chính xác cho khách hàng.
• Tư vấn khách hàng: Một nhân tố quan trọng quyết định đến thành công
của ngành Bảo hiểm đó chính là dịch vụ tư vấn khách hàng. với đội ngũ
nhân viên giàu kinh nghiệm, giỏi nghiệp vụ, khách hàng luôn tìm được
sự tư vấn những thông tin về các sản phẩm, dịch vụ Bảo hiểm mà mình
cần đến để hiểu rõ về những lợi ích mà mình được hưởng khi sử dụng
sản phẩm, dịc vụ của công ty.
• Công tác giám định bồi thường: Việc giám định bồi thường đựoc giải
quyết rất nhanh chóng. Khi khách hàng thông báo có tai nạn nghiêm
trọng phát sinh cán bộ Bảo hiểm lập tức có mặt và giám định thiệt hại
một cách nhanh chóng nhất, giúp khách hàng sớm khắc phục hậu quả rủi
ro đem lại sự chia sẻ động viên kịp thời cho khách hàng từ đó khách hàng
ngày càng tin tưởng vào uy tín của Bảo việt.
Phần II
Thực trạng triển khai chính sách Marketing
để tăng khả năng cạnh tranh của
công ty bảo hiểm Hà nội
I – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM
HÀ NỘI
 Sự ra đời và phát triển
Công ty bảo hiểm Hà Nội được thành lập từ nam 1980 theo Quyết định
số 1125/QĐ - TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ tài chính và trực thuộc Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam, với nhiệm vụ là tổ chức hoạt độnh kinh doanh bảo hiểm
thương mại trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Là một thành viên trong một doanh

nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, Công
ty bảo hiểm Hà Nội có chức năng thành lập qũi dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp,
tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh và các thành viên khác
trong địa bàn Thành phố Hà Nội, nhằm bồi thường cho những người tham gia
bảo hiểm không may gặp thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại, giúp các cá
nhân và các tổ chức đó nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống.
Đến nay, Công ty bảo hiểm Hà Nội đã thành lập các văn phòng trực
thuộc tại tất cả các Quận, Huyện trên địa bàn Thành phố để kinh doanh khai thác
các dịch vụ bảo hiểm. Hoạt động của các phòng bảo hiểm này không những giúp
Công ty triển khai trên phạm vi toàn địa bàn Thành phố mà còn hình thành một
mạng lưới đảm bảo an toàn tài chính cho những thành viên tham gia bảo hiểm.
Với việc bồi thường, giải quyết nhanh chóng những tổn thất thuộc trách nhiệm
của mình, Công ty bảo hiểm Hà Nội đã thể hiện là người giúp đỡ đắc lực về mặt
tài chính khi khách hàng gặp rủi ro gây thiệt hại. Công ty bảo hiểm Hà Nội ngày
càng đang khẳng định vị trí, ưu thế của mình trên thị trường.
Công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ trên một trăm người
được đào tạo cơ bản, với mạng lưới rộng khắp các quận, huyện với đội ngũ cộng
tác viên rộng khắp ở các phường, xã. Công ty bảo hiểm Hà Nội hiện cũng có
một điều kiện rất tốt để phục vụ khách hàng, các văn phòng ở các vị trí địa lý hết
sức thuận lợi, trang thiết bị đầy đủ và khá hiện đại. Công ty bảo hiểm Hà Nội
thực hiện triển khai hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có tại Tổng Công ty
bảo hiểm Việt Nam. Để đạt được một kết quả như ngày nay, Công ty đã phải hết
sức nổ lực phấn đấu vượt qua không ít khó khăn trở ngại trong một thời gian dài.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường, Công ty bảo hiểm Hà Nội cũng như nhiều doanh
nghiệp khác đã và đang nổ lực vươn lên bằng chính khả năng mình. Việc xóa bỏ
cơ chế bao cấp khiến cho các doanh nghiệp không còn chổ dựa nên đã phải đi
bảo đảm an toàn cho mình bằng cách tham gia bảo hiểm. Chuyển sang nền kinh
tế thị trường, nền kinh tế nước ta nhanh chóng phát triển, đời sống nhân dân
được nâng lên. Điều này càng được thể hiện rất rõ đối với một khu vực nhanh

nhạy và đầy tiềm lực như Hà Nội. Bởi vậy, nhu cầu bảo hiểm ở Hà Nội đã tăng
lên nhanh chóng, thúc đấy sự phát triển của Công ty bảo hiểm Hà Nội.
Đặc biệt, bắt đầu từ năm 1994, Bảo Việt không còn là doanh nghiệp duy
nhất kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam, đòi hỏi Công ty bảo
hiểm Hà Nội phải nổ lực hơn nữa để phát triển và ngày càng khẳng định vị trí
của mình. Công ty muốn có được vị trí của mình trên thị trường thì cần phải có
kế hoạch phát triển trong ngắn hạn và dài hạn. Thực hiện đồng bộ các chính
sách Marketing, nhằm đẩy mạnh việc khai thác thị trường bảo hiểm trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Để phục vụ nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức kinh tế, các nhà
đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế khác, Bảo việt Hà nội đã và đang tiến
hành các nghiệp vụ bảo hiểm như sau:
 Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa.
 Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu.
 Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt.
 Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt.
 Bảo hiểm vẩn chuyển tiền.
 Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
 Bảo hiểm trộm cướp.
 Bảo hiểm trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm và trách nhiệm
của chủ lao động đối với người làm công.
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và bảo hiểm thân xe.
 Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phương tiện vận tải.
 Bảo hiểm tai nạn con người.
 Bảo hiểm du lịch.
 Bảo hiểm sinh mạng cá nhân.
 Bảo hiểm học sinh.
 Bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật.
 Một số loại hình bảo hiểm khác.
Nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận

bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo việt Hà nội thông qua Tổng
Công ty bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công
ty giám định, các công ty điều tra tổn thất có uy tín trên thế giới như Lloyd”s,
Commercial Union(UK), AIG,CIGNA (Mỹ), TOKYO Marine, YASUDA
Mitsui Marine (Nhật), Munich Re (Đức), Swiss Re (Thủy sĩ).v.v…Trong những
năm vừa qua, Bảo Việt Hà nội đã nhận được sự cộng tác giúp đỡ tận tình của
các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu
nại.
Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và
thị trường bảo hiểm Hà nội nói riêng đã có nhiều biến động đáng kể. Nghị định
100/CP ban hành ngày18/12/1993 và nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997
của Chính Phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam
phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt.
Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm nói trên buộc Bảo Việt Hà nội
phải không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ của mình thì mới
đảm bảo khả năng đứng vững trong cạnh tranh. Một trong những biện pháp
quan trọng đó là phải thực hiện chính Marketing cho phù hợp với tình hình
của công ty.
 Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà nội
Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn kinh doanh, cơ cấu tổ chức của Công ty
bảo hiểm Hà nội ngày càng được cải thiện. Trong những năm gần đây, do yêu
cầu về việc mở rộng phạm vi khai thác của Công ty, ban giám đốc đã có sự điều
chỉnh mới trong cơ cấu tổ chức bộ máy. Cho thành lập thêm một số phòng ban
và tuyển thêm đội ngũ cán bộ đại lý, đồng thời tinh giảm các phòng ban không
quan trọng nhằm thực hiện cơ quan lãnh đạo không cồng kềnh, tiết kiệm được
về mặt tài chính, làm cho cán bộ phải tích cực trong công việc.
Cơ cấu tổ chức của Công ty chia thành ba cấp:
- Ban giám đốc.
- Các phòng ban tại công ty.

- Các phòng ban đại diện cùng đại lý và cộng tác viên.
Ban giám đốc chịu trách nhiệm trức tiếp trước Tổng Công ty về tình
hình kinh doanh của đơn vị. Ban giám đốc chỉ đạo chung các phòng ban, có kế
hoạch phát triển của Công ty và xây dựng chiến lược kinh doanh theo từng giai
đoạn. Giám đốc phải nắm bắt thông tin từ các cơ sơ kiến nghị lên để vạch ra kế
hoạch chung cho toàn ngành, đồng thời phải chỉ đạo thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật và chương trình hành động của Tổng Công ty.
Các phòng ban tại công ty chịu sự chỉ đạo trức tiếp của Ban giám đốc và
cùng Ban giám đốc chỉ đạo các văn phòng đại diện ở các quận, huyện. Các
phòng ban có chức năng giúp việc cho ban lãnh đạo, thực hiện những công việc
hàng ngày xảy ra tại Công ty. Có một số phòng ban tại cơ sơ của Công ty làm
nhiệm vụ khai thì phải phối hợp với ban lãnh đạo để giải quyết các công việc
hàng ngày, còn các phòng làm nhiệm vụ giúp việc thì phải liên hệ thường xuyên
với các phòng ban trong Công ty và trên các địa bàn Thành phố Hà Nội.
Các văn phòng đại diện trực tiếp khai thác các nghiệp bảo hiểm và có
liên hệ chỉ đạo cho các đại lý, các cộng tác viên nhằm tăng cường triển khai các
nghiệp vụ bảo hiểm ở địa bàn của mình. Các phòng ban làm công việc khai thác
trên các địa bàn Thành phố thì phải chịu trực tiếp chỉ đạo của ban giám đốc và
báo cáo định kỳ kết quả kinh doanh lên cấp trên, phải chịu trực tiếp trước Công
ty về kết quả thực hiện của mình.
Mô hình tổ chức hiện nay của Công ty bảo hiểm Hà nội thể hiện qua
sơ đồ sau:
P.bảo
hiểm phi
h ng hà ải
Phòng
giám định v à
bồi thường
P.bảo
hiểm h ng à

hải
Phòng
kiểm tra nội
bộ
Phòng
tổng hợp
Phòng bảo
hiểm cháy v à
rủi ro đặc
biệt
Phòng kế
toán t i và ụ
Phòng bảo
hiểm quốc
phòng
Phòng tin học
Các đại lý, cộng tác viên bảo hiểm trong to n Th nh phà à ố H Nà ội
Giám đốc
Phó giám đốc

×