Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế - xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.53 KB, 98 trang )

Chương I
Tổng quan về Bảo hiểm xã hội
I. Bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế - xã hội
1.1. Sự cần thiết khách quan và bản chất của bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá
sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại
hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những
điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối.
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại
v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi
điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất
lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập
hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn
trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự
phục vụ bị suy giảm v.v... Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm
chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và
điều khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi
dưỡng v.v... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như:
san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự
cứu trợ của Nhà nước v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và
không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng trở
nên phức tạp. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã


phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định
để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai
sản v.v... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người
chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc
họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu
thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện
cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều
mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và
điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà
nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất
định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối
với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền
tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà
nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải
những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất
lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình
họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được
bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn
không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn
và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm
bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã
hội.
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau đây:

- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng
của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giứa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao
động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông
thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH
là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản
v.v... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao
động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thảo mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục
tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con

người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn
Nhân quyền ngày 10-12-1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên
của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự
thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cần cho nhân cách và sự
tự do phát triển con người”.
ở nước ta, BHXH là một bộ phận qua trọng trong chính sách bảo đảm xã
hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có; cứu trợ xã hội và ưu đãi
xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các
điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường
hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối
thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các nguồn
quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đóng góp của các tổ chức
xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà
nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận
xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước,
liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thương binh, bệnh binh v.v... đều là những đối tượng
được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội. Ưu đãi xã hội tuyệt nhiên
không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu
chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước
trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng, phạm vi và cách thức thực
hiện, song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã
hội không thể thiếu được của một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung
cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
1.2. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh
tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883, ở
nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm y tế. Một số nước

châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
ở Việt Nam bảo hiểm xã hội đã có mầm mống dứói thời phong kiến Pháp
thuộc. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà - nay là cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh
29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí.
Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong các cơ quan
từ cơ sở đến trung ương.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận
lao động xã hội được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27 tháng 12 năm 1961 nhà nước ban hành
Nghị định 128/CP của Chính phủ về "Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ
BHXH đối với công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều
hạn chế. Do đó ngày 18 tháng 9 năm 1985 Chính phủ (lúc đó là Hội đồng Bộ
trưởng) đã ban hành nghị định 236/HĐBHNT về việc sửa đổi, bổ sung chính
sách và chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nội dung chủ yếu của
Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hưởng.
Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế
không phù hợp với cơ chế mới. Vì vậy ngày 22 tháng 6 năm 1993 Chính phủ đã
ban hành nghị định 43/CP quy định tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội áp
dụng cho các thành phần kinh tế , đánh dấu bước đổi mới của bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15 tháng 6 năm 1994, điều lệ tạm thời về
bảo hiểm xã hội theo nghị định 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26 tháng 1
năm 1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15 tháng 7 năm 1995 cho các đối
tượng hưởng bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, bảo
hiểm xã hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng
như tổ chức quản lý.
II. Đối tượng của bảo hiểm xã hội.
2.1. Đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.

Mặc dù ra đời cách đây đã lâu, nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhẫm lẫn giữa đối tượng BHXH
với đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu v.v... Chính vì vậy, đối
tượng củ BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc
mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người
lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối
tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam
cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình
đẳng giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao
động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của
Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của
họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm
quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao
động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó
quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và
bền vững.
2.2. Bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thương mại và bảo hiểm y tế.
Mặc dù cả 3 loại hình này đều thuộc lĩnh vực bảo hiểm , song đối tượng,
đối tượng tham gia và vai trò của chúng có nhiều nét khác nhau cơ bản để thấy
được sự khác nhau đó có thể quan sát bảng so sánh sau đây:
Nội dung so

sánh
Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm Y tế Bảo hiểm thương mại
1. Đối
tượng
Thu nhập của người
lao động
Tính mạng và tình
trạng sức khoẻ của
mọi người dân trong
xã hội
Tài sản, TNDS, tính
mạng và tình trạng
sức khoẻ .
2. Đối
tượng tham
gia
Người lao động và
người sử dụng lao
động
Mọi cá nhân và tổ
chức trong xã hội
Mọi cá nhân và tổ
chức trong xã hội
3. Phạm vi Bao gồm 9 chế độ
bảo hiểm
Chi phí khám chữa
bệnh và phẫu thuật
Những rủi ro về tài
sản, TNDS, và các
sự kiện liên quan đến

tính mạng và tình
trạng sức khoẻ con
người.
4. Nguồn
quỹ
Người lao động,
người sử dụng lao
động và nhà nước
đóng góp
Các đối tượng tham
gia đóng góp
Các đối tượng tham
gia đóng góp
5. Mục đích
sử dụng
quỹ
Chi trả các chế độ và
chi quản lý
Chi khám chữa
bệnh và phẫu thuật,
chi quản lý
Chi bồi thường, đề
phòng hạn chế tổn
thất, dự trữ dự
phòng…
6. Cơ chế
quản lý
Cân bằng thu chi Cân bằng thu chi Hạch toán kinh doanh
có lãi
7. Cơ quan

quản lý.
Bộ lao động xã hội Bộ y tế Bộ tài chính
.v.v….
Tuy có sự khác nhau nhưng giữa 3 loại hình bảo hiểm này có quan hệ chặt
chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, tất cả đều nhằm mục đích góp phần ổn định
cuộc sống, ổn định và khôi phục sản xuất kinh doanh , làm cho sản xuất kinh
doanh tiếp tục phát triển bình thường. Đồng thời chúng đều được thực hiện theo
nguyên tắc số đông bù số ít và đều mang tính nhân đạo nhân văn cao cả.
III. Chức năng và tính chất của bảo hiểm xã hội
3.1. Chức năng.
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo
hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng,
mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao
động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả
năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ
được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần
thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng
cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức
hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử
dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này
dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít,
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân
phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người
khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực

hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham
gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc
tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có
BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia
đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn
yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực
lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng
này biểu hiện như một đòn bảy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng
suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và
người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền
lương, tiền công, thời gian lao động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn
đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có
BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn
bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách
thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về
đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định,
kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
3.2. Tính chất của bảo hiểm xã hội
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính
chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất người lao
động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi
vào tình cảnh khó khăn không kém như: Sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn
đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản
xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối

với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan
hệ chủ- thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải
đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang
tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH.
Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian
và không gian đếnmức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động
v.v...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch
vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành,
bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được
quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được
tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao
động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động
theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp của mỗi người lao
động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối
với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo
hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có
lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao
động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước BHXH góp phần làm
giảm gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng
kể cho nền kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội
của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có
quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho
mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao
động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền

kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của
BHXH cũng ngày càng cao.
IV. Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội
Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và
mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải
và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Đồng thời, phải nhận
thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
4.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành và là bộ phận
quan trọng nhất trong chính sách xã hội
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. ở nước ta, BHXH nằm trong hệ
thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong
những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền
và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao
động, an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh,
tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia.
Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã
hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát
huy tiềm năng sáng tạo cuả người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
4.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm Bảo hiểm xã
hội cho người lao động
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các
cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH
và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động
mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn
ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để
có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và
đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc

bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong đó có rất nhiều trường hợp gắn
với quá trình lao động với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì
phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên
tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần
nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
4.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Bảo
hiểm xã hội
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng
BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ
đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không
mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì
trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn
nhiều người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người
khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều đó có nghĩa là bản
thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho
mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng
trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ
cấp BHXH ngày càng đông.
4.4. Mức trợ cấp Bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lương lúc đang đi làm
- Ngành công tác và thời gian công tác
- Tuổi thọ bình quân của người lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ,
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc
đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.

Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên
tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người lao động tham gia BHXH. Trợ
cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà
người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những
công việc hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức
khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện được những công việc
nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm
việc được mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp
đó không thể bằng tiền lương do lao động tạo ra được. Nếu mức trợ cấp bằng
hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm
kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi dụng
BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa, cách lập quỹ BHXH theo phương thức
dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang
đi làm. Và nếu vậy thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro, qua rủi ro của
mình dàn trải hết cho những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi
làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp
thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu.
4.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách Bảo hiểm xã hội, tổ chức bộ
máy thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố
ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội, cho nên vai trò của
Nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của
Nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối
quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình: Từ việc hoạch
định chính sách, giới hạn về đối tượng, xác định phạm vi bảo hiểmcho đến đảm
bảo vật chất và việc xét trợ cấp v.v... Vì vậy, Nhà nước phải quản lý toàn bộ
quy trình này một cách chặt chẽ và thống nhất.

Trước hết, phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu
đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở
việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực
hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện
chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ
thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Nếu những mô hình về bảo
đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý
Nhà nước là trực tiếp và toàn diện. Nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử
dụng lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia
quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và
bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô
BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp điều
hành.
V. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội
BHXH ở hầu hết các nước trên thế giới đều dựa trên các nguyên tắc sau đây
trong quá trình hoạt động :
- Nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch và bất kỳ loại
hình bảo hiểm nào cũng phải tuân theo bởi lẽ để đảm bảo an toàn cho nguồn quỹ
chi trả, phải có số đông người tham gia đóng góp. Nguồn quỹ này sẽ được sử dụng
để chi trả cho một số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro trong lao
động và trong cuộc sống như: ốm đau, tai nạn .v.v..
- Nguyên tắc bắt buộc kết hợp với nguyên tắc tự nguyện theo nguyên tắc này,
phần lớn các đối tượng tham gia đều phải thực hiện dưới hình thức bắt buộc nhằm
đảm bảo cho chính sách được duy trì bền vững. Song do nguyên tắc số đông bù số
ít chi phối vì vậy cần phải kết hợp với hình thức tự nguyện. Sự kết hợp này không
chỉ đáp ứng được mục đích của người tham gia (nhất là những người có thu nhập
cao) mà còn góp phần làm tăng trưởng nguồn quỹ.
- Nguyên tắc xác định mức hưởng tối thiểu trong các chế độ bảo hiểm xã hội.

Mức hưởng này phải được kết cấu vào tiền lương tối thiểu trong các cơ quan doanh
nghiệp. Có như vậy mới hình thành được nguồn quỹ đóng góp bảo hiểm xã hội.
Cơ sở để xác định mức hưởng tối thiểu trong các chế độ bảo hiểm xã hội là nhu cầu
tối thiểu đảm bảo tái sản xuất sức lao động và phù hợp với giá trị tiền lương, tiền
công trên thị trường lao động. Nêú xác định không chính xác sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình họ đồng thời còn ảnh hưởng đến
việc tạo nguồn quỹ bảo hiểm, giá thành sản phẩm , hợp đồng lao động .v.v…
- Nguyên tắc công bằng trong bảo hiểm xã hội. Đây là nguyên tắc rất quan
trọng, song cũng rất phức tạp trong chính sách bảo hiểm xã hội. BHXH là một loại
quan hệ lao động, song lại được thực hiện cả trong và ngoài quá trình lao động.
Trong những khoảng cách về thời gian đó có rất nhiều diễn biến xảy ra đối với
cuộc đời của một người lao động. Chẳng hạn cùng tỷ lệ đóng góp như nhau nhưng
có doanh nghiệp đóng nhiều có doanh nghiệp đóng ít do kết quả sản xuất chi phối.
Hoặc cũng có người lao động đóng nhiều do thu nhập cao và cũng có người lao
động đóng ít do thu nhập thấp .v.v….Vì vậy nguyên tắc này phải được giải quyết
một cách thoả đáng kể cả trong quá trình đóng góp cũng như các mức được hưởng.
- Nguyên tắc thống nhất và liên tục đây cũng là một trong những nguyên tắc
rất quan trọng. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến phá vỡ quan hệ trong bảo
hiểm xã hội. Bởi vì trong cơ chế thị trường , việc di chuyển lao động là điều không
tránh khỏi , về mặt quan hệ lao động có sự biến động rất lớn. Nhưng BHXH lại
luôn phải duy trì và thực hiện trong suốt quãng đời của người lao động. Nếu để
khuyến khích ổn định đội ngũ lao động, đặc biệt là lao động lành nghề trình độ kỹ
thuật cao thì chính sách BHXH phải thiết kế như thế nào để người lao động ổn định
làm việc ở một doanh nghiệp nào đó sẽ có lợi khi xét các mức hưởng BHXH.
VI. Mối quan hệ giữa BHXH với phát triển và tăng cường kinh tế
BHXH là "sản phẩm" của nền kinh tế thị trường. Do đó, nó thực sự phát
triển và phát huy tác dụng trong cơ chế của nền kinh tế thị trường. Điều đó được
minh chứng qua lịch sử phát triển BHXH ở các nước có nền kinh tế thị trường ở
trình độ cao. Cho đến nay, theo thông báo của Tổ chức lao động quốc tế có
khoảng 170 nước ký vào Công ước Giơnevơ - công ước BHXH cho người lao

động. Tuy mức độ thực hiện ở các nước có khác nhau, nhưng đều thống nhất
mục tiêu, phương pháp tiến hành; đều nhất quán vai trò quan trọng của BHXH;
đều thống nhất nhận định tác động BHXH đến nền kinh tế và ngược lại.
Nền kinh tế càng phát triển đời sống người dân càng cao thì nhu cầu
BHXH càng lớn và hoạt động BHXH càng mở rộng. BHXH có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế và ngược lại. BHXH tác động rất tích cực đến sự
phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mỗi
quốc gia. Điều đó thể hiện:
- BHXH góp phần bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho người lao động,
phục hồi năng lực làm việc và khẳ năng sáng tạo của sức lao động. Điều đó có
tác động trực tiếp tới việc tăng năng suất lao động cá nhân, năng suất lao động
xã hội, làm tăng tổng giá trị sản xuất (GO), tổng thu nhập quốc gia (GNI), tổng
sản phẩm trong nước (GDP) cho nền kinh tế . Trên cơ sở đó tăng thu nhập cho
người lao động nhằm ổn định đời sống của bản thân và gia đình họ. Các chế độ
BHXH đồng bộ với cơ cấu đa dạng hoá hợp đồng lao động sẽ tạo thêm thuận lợi
cho người lao động có khả năng di chuyển sức lao động khi cần thiết nhằm duy
trì và phát triển công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp và làm cho nền kinh tế
phát triển.
- BHXH đã tạo ra nguồn vốn đáng kể để đầu tư cho các chương trình phát
triển và tăng trưởng kinh tế xã hội. Thông qua thị trường tài chính, phần quỹ bảo
hiểm xã hội chưa sửa dụng đến sẽ được đầu tư vào sản xuất kinh doanh để sinh
lợi. Thường là đầu tư gắn hạn và dài hạn vào các lĩnh vực như: xây dựng cơ sở
hạ tầng, y tế, giáo dục, nhà ở ít tiền v.v…cho phù hợp với phương hướng, chích
sách phân phối lại thu nhập. Quỹ BHXH còn là một nguồn tiết kiệm quan trọng
góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm của quốc gia. Đối tượng BHXH càng
được mở rộng thì tác dụng này của BHXH càng lớn.
- BHXH đóng vai trò là người bảo vệ, che chắn cho người sử dụng lao
động, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ được ổn
định liên tục và phát triển. Bởi vì, người sử dụng lao động khi đóng BHXH cho
người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản

tiền lớn trong cùng một thời gian khi người lao động của mình gặp rủi ro từ đó
giúp họ giảm phần tiền lương, tiền công trong thời gian người lao động gặp rủi
ro phải nghỉ việc. Đồng thời BHXH g óp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp và
kiến tạo sự gần gũi trong quan hệ "chủ - thợ" làm cho người lao động yên tâm
và có tránh nhiệm hơn trong sản xuất . Đồng thời BHXH còn giúp người lao
động ổn định cuộc sống, duy trì và táo tạo sức lao động, góp phần đảm bảo an
toàn cho xã hội
- Trong cơ chế thị trường, khía cạnh kinh tế của BHXH có tác động rất lớn
đến thị trường lao động. Bởi vì, xét về bản chất BHXH cũng là một quan hệ lao
động trong thị trường lao động và có quan hệ chặt chẽ với các chính sách về lao
động, tiền lương v.v… nếu chính sách BHXH được ban hành và thực hiện
nghiêm túc thì các chính sách về lao động, tiền lương sẽ được thực hiện đầy đủ
và có tác dụng đến nhiều vấn đề trong nền kinh tế , đặc biệt là góp phần ổn định
và tăng trưởng kinh tế .
Đến lượt mình tăng trưởng kinh tế cũng có tác động trở lại rất lớn đến
BHXH:
- Trước hết, một nước có mức tăng trưởng kinh tế cao cũng có nghĩa là
tăng GNI và GDP trên cơ sở phát triển sản xuất sản phẩm vật chất và sản phẩm
dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì thu nhập bình quân đầu người
càng lớn và như vậy thu nhập của người lao động cũng tăng. Từ đó, khả năng
đóng góp vào quỹ BHXH ngày càng lớn. Bởi vì, sự đóng góp của người lao
động và người sử dụng lao động phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập. Mặt khác,
tăng trưởng kinh tế làm cho ngân sách Nhà nước dồi dào, từ đó sự hỗ trợ của
Nhà nước cho quỹ BHXH cũng ngày một tăng.
- Tăng trưởng kinh tế đạt đến tiềm năng thì việc làm của người lao động đạt
mức thoả mãn cao nhất. Song, theo kinh nghiệm của các nước, kinh tế phát triển
theo chu kỳ có lúc hưng thịnh, có lúc suy thoái. Khi nền kinh tế bị suy thoái thì
thất nghiệp sẽ tăng nhanh từ đó làm cho mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cũng
ngày một tăng. Chế độ trợ cấp thất nghiệp không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà
còn có ý nghĩa về an toàn xã hội. Nó giúp cho người thất nghiệp giảm bớt khó

khăn, yên tâm sản xuất, làm giảm các tệ nạn xã hội và tình trạng đói nghèo.
Thực tế cho thấy, khi nền kinh tế tăng trưởng thì tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống và
ngược lại. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với thất nghiệp và BHXH.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập được nâng cao, làm cho mức sống
của người dân tăng lên, do đó thể lực của người lao động cũng khá hơn dẫn tới
tuổi thọ tăng. Điều này làm cho chi phí y tế giảm từ đó sẽ tiết kiệm được các
khoản chi từ quỹ BHXH.
- Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy khi nền kinh tế tăng trưởng với
tốc độ cao thì tốc độ tăng dân số lại giảm xuống. Do đó phần chi trả cho chế độ
trợ cấp thai sản của lao động nữ trong quỹ BHXH cũng giảm xuống. Bên cạnh
đó quỹ BHXH luôn chịu ảnh hưởng của yếu tố lạm phát. Nếu nền kinh tế tăng
trưởng sẽ hạn chế được lạm phát do đó quỹ BHXH sẽ được bảo toàn.
- Nền kinh tế tăng trưởng thì người lao động nói riêng và dân chúng nói
chung càng có khả năng và điều kiện để nâng cao trình độ dân trí. Điều đó cũng
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của BHXH. Bởi vì khi trình độ dân trí được
nâng cao thì nhận thức của người dân về BHXH sẽ đầy đủ và đúng đắn hơn, họ
sẽ tự nguyện và hăng hái tham gia BHXH. Từ sự phân tích trên có thể khẳng
định rằng tăng trưởng kinh tế có tác động rất lớn và trên nhiều góc độ khác nhau
tới hoạt động BHXH.
Chương II: Cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội
I. Cứu trợ xã hội
1.1. Khái niệm
Cứu trợ xã hội (CTXH) đã có mầm mống rất lâu, từ khi xuất hiện xã hội
loài người. Trong thế giới cận đại và hiện đại, dưới hình thức này hoặc hình thức
khác, CTXH đã hình thành và ngày càng phát triển với nhiều loại hình đa dạng
và phong phú. CTXH đã trở thành hoạt động không thể thiếu được trong cuộc
sống của các nhóm dân cư, đặc biệt là những nhóm dân cư "yếu kém" trong xã
hội. Các hoạt động CTXH đã trở thành một trong những tiêu chí biểu hiện trình
độ văn minh của một quốc gia. Mặc dù các hình thức CTXH rất phong phú như

vậy, nhưng để hiểu thế nào cho đúng về CTXH lại không phải là điều đơn giản,
đặc biệt là việc đưa ra định nghĩa chính xác về CTXH.
Cho đến nay phần lớn các nhà kinh tế đều cho rằng:
CTXH là sự giúp đỡ của Nhà nước của xã hội và cộng đồng bằng các biện
pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên của cộng đồng khi họ gặp phải
những khó khăn, rủi ro hoặc bất hạnh trong cuộc sống do những nguyên nhân
khác nhau.
+ Cứu tế xã hội:
Cứu tế xã hội là sự trợ giúp cho các thành viên trong xã hội khi họ gặp phải
rủi ro hoặc bất hạnh nào đó mà cuộc sống bị đe dọa nghiêm trọng, nếu không có
sự cứu tế thì họ và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống có thể dẫn đến cái
chết (chết đói, chết bệnh…vv). Cứu tế xã hội, vì vậy mang tính tức thời, tính cấp
bách nhằm giúp cho đối tượng thoát khỏi tình trạng hiểm nghèo. Cứu tế xã hội
có thể bằng tiền hay vật chất, trong nhiều trường hợp cứu tế bằng hiện vật có ý
nghĩa thiết thực hơn. Cứu tế xã hội chủ yếu giúp cho đối tượng trong hoàn cảnh
nào đó không thể tự lo được cuộc sống cho bản thân và gia đình họ (trong một
thời điểm hoặc một khoảng thời gian nào đó). Ví dụ: Sự cứu giúp của xã hội cho
những người già cô đơn, không còn khả năng lao động, không còn bất kỳ nguồn
thu nhập nào để trang trải cuộc sống hàng ngày. Trong những người bị thiên tai
bất ngờ mất hết hoa mầu, tài sản và các phương tiện sinh sống, cộng đồng và xã
hội phải cứu tế cho họ ngay tại thời điểm đó nếu không cuộc sống của họ sẽ bị
đe doạ nghiêm trọng, có thể bị chết đói, chết khát hoặc chết vì dịch bệnh.
+ Trợ giúp xã hội :
TGXH là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện vật vật
chất tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi họ gặp phải
khó khăn hoặc sa sút nào đó. Mặt dù vẫn cố gắng để tự lo liệu cuộc sống, nhưng
không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ ngày càng trở lên khó khăn hơn và dễ
rơi vào cảnh bần cùng. TGXH nhằm tạo cho đối tượng có cơ hội khắc phục hoặc
giảm bớt hậu quả rủi ro vươn lên đảm bảo cuộc sống của mình, sớm hoà nhập
trở lại với đời sống chung của cộng đồng .

TGXH là sự giúp đỡ của xã hội vừa có tính tức thời,vừa có tính lâu dài, mà
tính lâu dài là chủ yếu cho các thành viên của mình khi họ gặp các rủi ro, bất
hạnh nào đó trong cuộc sống.
Trong thực tế, hầu như các hoạt động của CTXH là hoạt động trợ giúp xã
hội (về phạm vi quy mô giúp đỡ). Chính vì vậy, nhiều khi TGXH được hiểu
đồng nghĩa với CTXH. Tất nhiên CTXH có phạm vi hoạt động rộng hơn vì
ngoài trợ giúp ra còn có hoạt động cứu tế. Hơn nữa, hai lĩnh vực hoạt động này
(Cứu tế và trợ giúp) đan xen lẫn nhau nên rất khó phân biệt rạch ròi giữa TGXH
và CTXH.
1.2 Các loại CTXH.
1.2.1 Cứu trợ xã hội thường xuyên.
CTXH thường xuyên là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống một cách
thường xuyên của xã hội cho các thành viên của mình, khi họ gặp phải rủi ro,
bất hạnh rơi vào tình cảnh rất khó khăn, cuộc sống thường nhật luôn bị đe doạ.
CTXH thường xuyên mang tính cứu tế, cứu giúp nhiều hơn là trợ giúp. Đối
tượng chung của CTXH thường xuyên là những người vì những nguyên nhân
khác nhau không thể tự đảm bảo cuộc sống của bản thân. Cụ thể:
- Người già không có nơi nương tựa và không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài sự cứu trợ thường xuyên của xã hội.
- Trẻ em mồ côi, lang thang không có người nuôi dưỡng, sống chủ yếu
bằng sự hảo tâm và bố thí của mọi người hoặc trẻ em có gia đình mà gia đình đó
quá ư túng thiếu, bố mẹ không nuôi sống được các thành viên trong gia đình.
- Những người tàn tật do nhiều nguyên nhân khác nhau, không thể tụ lao
động được để tạo ra thu nhập, hoặc không có nguồn sinh sống nào khác.
- Những gia đình, những người đói thường xuyên, do sống ở những nơi
không thuận lợi, hoặc không có điều kiện lao động tạo ra thu nhập không đảm
bảo nuôi sống các thành viên của gia đình ở mức tối thiểu v.v..
1.2.2 Cứu trợ xã hội đột xuất
CTXH đột xuất là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống củâ xã hội cho những
thành viên khi họ gặp những rủi ro hoặc khó khăn bất ngờ như thiên tai đe doạ,

hoả hoạn, tai nạn làm cuộc sống tạm thời bị đe doạ, nhằm giúp họ nhanh chóng
khắc phục các hậu quả rủi ro, ổn định cuộc sống và hoà nhập trở lại với cộng
đồng.
CTXH đột xuất thường cho các đối tượng sau:
- Những người bị thiên tai, hoả hoạn… làm mất một phần hoặc toàn bộ nhà
ở, hoa mầu, tài sản và các phương tiện sinh sống.
- Những người bị thiếu lương thực trong thời kỳ giáp hạt, do sống ở những
vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi hoặc những người bị mất mùa đột
xuất mà không có nguồn hỗ trợ nào khác bị lâm vào cảnh thiếu đói.
- Những người bị tai nạn chiến tranh hoặc tai nạn xã hội, tạm thời bị mất
nguồn sinh sống…
Như vậy, đối tượng của CTXH đột xuất có thể bao gồm cả những người
thuộc diện đối tượng CTXH thường xuyên ở một thời điểm hoặc một hoàn cảnh
nào đó. Ngược lại, những đối tượng thuộc diện cứu trợ đột xuất, sau một thời
điểm xảy ra rủi ro, tuy được sự giúp đỡ tức thì nhưng sau đó "rủi ro" quá lớn,
họ không còn khả năng tự đảm bảo cuộc sống được nữa, khi đó họ có thể trở
thành đối tượng của CTXH thường xuyên.
1.2.3. CTXH cho những đối tượng là nạn nhân của tệ nạn xã hội.
Đó là trợ giúp của xã hội cho các đối tượng vì các lý do khác nhau. có
những hành vi sai lệch với chuẩn mực của xã hội nhằm tạo điều kiện và cơ hội
giúp họ trở lại với cuộc sống bình thường hoà nhập với cộng đồng.
Đối tượng của dạng CTXH này có nhiều loại. ở đây có thể nêu 3 đối tượng
chính:
- Những người lang thang cơ nhỡ
- Những người làm nghề mại dâm.
- Những người nghiện xì ke, ma tuý.
Đối với các đối tượng này, CTXH chỉ thực hiện chức năng trợ giúp cho họ
phần nào về vật chất (tài chính hoặc các điều kiện sinh sống khác ) hoặc giúp đỡ
họ chữa, trị bệnh, tư vấn cho họ về mặt tâm lý - xã hội, giúp họ sớm quay trở về
với cuộc sống bình thường.

1.3. Quan điểm về cứu trợ xã hội.
Đối tượng của CTXH là tất cả mọi thành viên của xã hội, không phân biệt
vị thế, thành phần xã hội của họ. Những đối tượng này chỉ được trợ giúp khi và
chỉ khi họ gặp phải những rủi ro bất hạnh trong cuộc sống, nếu không có sự
CTXH, cuộc sống thường ngày hoặc lâu dài của họ sẽ bị đe doạ. Tuy nhiên sự
trợ giúp này được thực hiện như thế nào? Phương thức và hình thức trợ giúp ra
sao? Câu hỏi này có thể được trả lời trên cơ sở những quan điểm sau:
- Thứ nhất, CTXH phải xuất phát từ quyền con người. mỗi cá nhân trong
cộng đồng, trong xã hội, đều có quyền sống, quyền làm việc và quyền hưởng thụ
những thành quả của xã hội như tất cả các thành viên khác. Như vậy, mỗi cá
nhân, phải tự vươn lên để có được quyền này, mặt khác, xã hội phải tôn trọng
những quyền đó của mỗi người. Tất nhiên, CTXH chỉ thực hiện và biểu hiện
một mặt nào đó của quyền con người mà thôi. Như vậy, CTXH không phải là
một sự ban ơn, không chỉ đơn thuần là việc làm từ thiện, mà còn là bản chất, là
thuộc tính xã hội văn minh. Cũng vì vậy, CTXH là trách nhiệm không chỉ của
riêng ai, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, bao gồm Nhà nước, xã hội
cộng đồng và của từng cá nhân đối với thành viên của mình khi họ gặp phải
những khó khăn, hiểm nghèo hoặc rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống.
- Thứ hai, CTXH thể hiện bản chất của con người là hành vi hướng tới
những điều thiện, những điều cao đẹp trong cuộc sống. Trong mỗi con người
đều có mầm môsng cái ác và cái thiện. tuy nhiên,xét về tổng thể các cá thể trong
cộng đồng, cái thiện luôn luôn thắng cái ác, những con người bình thưòng,
những người may mắn hơn đồng loại của mình, thường có những biểu hiện làm
việc thiện để giúp đỡ những người ít may mắn hơn mình, những người rủi ro,
bất hạnh trong cuộc sống. Hành vi này chịu ảnh hưởng bởi nhiều truyền thống
và phong tục, tập quán của mỗi dân tộc bởi cách ứng xử trong mỗi giai đoạn lịch
sử. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào bản chất chế độ và phương thức sản xuất của
mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử.
ở nước ta, trong thời kỳ dài, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã ngự trị
trên mọi mặt cuộc sống xã hội. Các chính sách, chế độ CTXH được thiết kế ,

xây dựng và thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế đơn nhất, quan hệ kinh tế là
quan hệ cung cấp và giao nộp. Mọi sự điều hành trong sản xuất chịu sự quản lý
tập trung của Nhà nước. Trong bối cảnh như vậy, tính tích cực và hành vi làm
việc thiện của mỗi cá nhân chưa được phát huy đầy đủ. Đến nay cơ chế quản lý
đã thay đổi, các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường đang được hình thành,
mọi cá nhân trong cộng đồng đều có thể có cơ hội để phát huy hết khả năng của
mình trong mọi mặt của cuộc sống, trong đó có CTXH. Vấn đề đặt ra là nhà
nước phải làm thế nào để huy động được những khả năng này, định hướng được
những hoạt động đó sao cho có ích nhất cho xã hội.
- Thứ ba, CTXH là trách nhiệm của cả Nhà nước, tổ chức, cộng đồng và
bản thân người được cứu trợ.
Thực tế cho thấy, CTXH nảy sinh ngay tại cộng đồng, sức mạnh cộng đồng
là rất to lớn, vì vậy nó phải được xã hội hoá ngay tại cộng đồng. Dựa vào cộng
đồng sẽ làm cho công tác cứu trợ được thực hiện nhanh chóng, trực tiếp và rất
có hiệu quả. Tuy nhiên trong một loạt trường hợp với các tình huống phức tạp
và diện rộng, đòi hỏi phải có sự trợ giúp của Nhà nước thậm chí còn phải kế
hoạch hoá công tác quản lý cứu trợ xã hội ở từng địa phương và trong phạm vi
quốc gia để chủ động trong mọi tình huống. Tuy nhiên, cần phải tránh tư tưởng
ỷ lại vào Nhà nước. Bản thân những người được cứu trợ xã hội phải tự vươn lên
để khắc phục khó khăn và đến lượt mình còn phải có trách nhiệm cứu trợ cho
người khác. Trong quá trình thực hiện chính sách CTXH, vai trò của các tổ chức
trong xã hội là rất lớn, bởi vì ngoài sức mạnh và tiềm lực kinh tế, họ còn đặt và
đưa những quyết sách nhanh chóng, hợp lý và rất chủ động trong mọi lúc, mọi
nơi.
- Thứ tư, CTXH là một chính sách xã hội song lại có ý nghĩa kinh tế -
chính trị sâu sắc. Trong điều kiện kinh tế thị trường, quá trình phân tầng xã hội,
phân hoá giầu nghèo diễn ra nhanh chóng và sâu sắc ở mọi lúc, mọi nơi. Nếu
thực hiện tốt chính sách CTXH sẽ góp phần bảo đảm an toàn xã hội, ổn định
chính trị và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.4. Đối tượng và phạm vi cứu trợ xã hội

Khi xem xét đối tượng CTXH, cần nhìn nhận trên 2 phương diện: kinh tế
và nhân đạo. Phải chăng những đối tượng được đưa vào diện cứu trợ xã hội là
những thành viên của xã hội có mức sống thấp hơn so với mức sống tối thiểu
của xã hội hoặc những người gặp cảnh bất hạnh trong cuộc đời mà xã hội cần
nâng đỡ như: Bị tàn tật, gặp rủi ro, cơ nhỡ, hoạn nạn… Trên quan điểm nhân
đạo và nhân văn, những người rơi vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm
chích ma tuý, gái mại dâm cũng có thể được coi là đối tượng cứu trợ xã hội.

×