Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Tài liệu tập huấn Tổ trưởng chuyên môn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 167 trang )


- 2 -



B¶NG K£ C¸C CH÷ VIÕT T¾T

Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GD&ĐT Kế hoạch cá nhân KHCN
Cán bộ quản lý giáo dục CBQLGD Kế hoạch chuyên môn KHCM
Cao đẳng sư phạm CĐSP Lý luận dạy học LLDH
Chương trình CT Nhà xuất bản Nxb
Công nghệ thông tin CNTT Phòng Giáo dục và Đào tạo Phòng GD&ĐT
Dạy học DH Phổ thông PT
Đại học sư phạm ĐHSP Phương pháp PP
Đồng chí Đ/c Phương pháp dạy học PPDH
Giáo dục GD Sở Giáo dục và Đào tạo Sở GD&ĐT
Giáo viên GV Sách giáo khoa SGK
Giáo dục phổ thông GDPT Tổ chuyên môn TCM
Giáo viên chủ nhiệm GVCN Tổ trưởng chuyên môn TTCM
Học viên HV Trắc nghiệm khách quan TNKQ
Học sinh HS Trang Tr
Hướng dẫn HD Trung học cơ sở THCS
Hướng dẫn viên HDV Trung học phổ thông THPT
Kế hoạch KH
Khoa học quản lý KHQL







- 3 -


Lêi giíi thiÖu
Ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, tổ chuyên môn đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện thực hiện các hoạt
động dạy - học trong nhà trường. Người tổ trưởng chuyên môn được ví như
“cánh tay nối dài của Lãnh đạo nhà trường”, trực tiếp điều hành các công việc
cụ thể trong hoạt động dạy - học. Công tác lãnh đạo, quản lý của tổ trưởng
chuyên môn là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của
tổ chuyên môn, góp phần quan trọng đến chất lượng giáo dục của các nhà
trường.
Trong những năm qua, vấn đề bồi dưỡng tăng cường năng lực cho đội ngũ hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng và giáo viên trong các nhà trường đã được Bộ Giáo
dục và Đào tạo hết sức quan tâm. Tuy nhiên, đối với đội ngũ tổ trưởng chuyên
môn thì chưa có sự quan tâm thỏa đáng, chưa có những tài liệu mang tính đặc
thù để tập huấn bồi dưỡng. Trước yêu cầu thực tiễn hiện nay, việc bồi dưỡng
tăng cường năng lực quản lý cho tổ trưởng chuyên môn là vấn đề cấp thiết, là
một trong những giải pháp có tính đột phá nâng cao chất lượng dạy - học ở các
nhà trường nói chung và trường trung học nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 19 tháng 5 năm 2011, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 242/KH-BGDĐT triển khai tập
huấn bồi dưỡng cốt cán các tỉnh, thành phố về công tác của tổ trưởng chuyên môn
trong trường THCS, THPT với mục tiêu: Bồi dưỡng cho cốt cán cấp tỉnh, thành
phố về kiến thức, kỹ năng công tác tổ trưởng chuyên môn trường THCS, THPT;
hướng dẫn đội ngũ cốt cán cấp tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai bồi dưỡng cho
giáo viên làm công tác tổ trưởng chuyên môn ở trường THCS, THPT.
Thực hiện Kế hoạch trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai tổ chức xây
dựng tài liệu tập huấn với tiêu đề: “Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn
trong trường trung học cơ sở, trung học phổ thông”. Tài liệu được mở đầu

là nội dung “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào dạy học – giáo dục-
quản lý nhà trường” cùng 4 chuyên đề:
1. Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về quản lý tổ chuyên môn trong
trường trung học
2. Chuyên đề 4: Xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn

- 4 -
3. Chuyên đề 2: Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý hoạt động dạy
học trong trường trung học
4. Chuyên đề 3: Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý phát triển
chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên trường trung học
Các chuyên đề nêu trên cố gắng bao quát kiến thức, kỹ năng quản lý chủ yếu
của TTCM ở trường THCS, THPT. Tài liệu được trình bày đan xen, kết hợp
giữa lý thuyết và tổ chức các hoạt động nhằm tăng cường tối đa khả năng vận
dụng, thực hành của các học viên tham gia tập huấn. Tài liệu được biên soạn
bởi tập thể tác giả có nhiều kinh nghiệm từ các cơ quan: Viện Khoa học giáo
dục Việt Nam, Học viện Quản lý giáo dục, Trường ĐHSP Hà Nội và đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục của một số trường THCS, THPT trong
toàn quốc. Tài liệu đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quí báu của các nhà
khoa học, các nhà giáo và các CBQL có bề dày kinh nghiệm ở các Sở
GD&ĐT, các trường THCS, THPT.
Các tác giả dù đã có nhiều cố gắng, song trong sự vận động phát triển không
ngừng về khoa học quản lý và thực tiễn giáo dục của trường THCS, THPT,
chắc chắn tài liệu chưa đáp ứng được mọi nhu cầu của đội ngũ TTCM, đồng
thời khó tránh khỏi thiếu sót.
Trong quá trình triển khai, Ban soạn thảo biên soạn mong tiếp tục nhận được
những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, nhà giáo, nhà quản lý thực tiễn
và học viên để bổ sung, điều chỉnh tài liệu thêm hoàn thiện và hữu ích.
Ban soạn thảo chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp cho việc nâng cao chất
lượng của tài liệu.

BAN SOẠN THẢO












- 5 -
QUáN TRIệT TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH
VàO DạY HọC - GIáO DụC - QUảN Lý NHà TRƯờNG

I. H CH MINH NH GIO DC KIT XUT CA NHN DN V THI I
Bỏc H c UNESCO tụn vinh l Anh hựng gii phúng dõn tc - Danh nhõn vn hoỏ
th gii. ễng Hans D'orvin - P.Tng Giỏm c UNESCO (ng nhim) gi H Chớ Minh
l ngi thy ca Vn hoỏ ho bỡnh. H Chớ Minh cng l nh giỏo dc kit xut ca
nhõn dõn, thi i. Ngi ó li cho nhõn dõn ta, i ng ngi lm cụng tỏc giỏo dc
hin nay v mai sau kho tng vụ giỏ nhng t tng giỏo dc cỏch mng, bao quỏt nhiu
lnh vc ca s nghip o to lp ngi mi ca dõn tc.
Khụng ch l nh t tng giỏo dc, Ngi cũn l nh qun lý giỏo dc thc tin, nh
s phm ti nng, mu mc, trong sỏng ca mt nhõn cỏch vụ cựng cao p, nhng c ch
giỏo dc nhõn o ht lũng vỡ ngi hc, tm gng sỏng v "Hc khụng bit chỏn, dy
ngi khụng bit mi".
T tng giỏo dc ca Ngi nh hỡnh cho trit lý phỏt trin giỏo dc Vit Nam ngay
nhng ngy u thnh lp nc Vit Nam Dõn ch Cng ho. Nú bao quỏt c nm cp :

Nn giỏo dc, H thng giỏo dc quc dõn, Nh trng, Bi hc v Nhõn cỏch. T tng
ny va k tha tinh hoa vn hoỏ ca dõn tc, va thõu gúp tinh hoa vn hoỏ ca thi i,
hng ti vic xõy dng v phỏt trin mt nn giỏo dc Vit Nam ton dõn quỏn trit cỏc
mc tiờu: Dõn ch, Nhõn vn, Hin i, mt nn giỏo dc lm "Phỏt trin hi ho nhng
nng lc sn cú" ca th h tr Vit Nam. Do t tng giỏo dc ca Ngi, t nc t
ch 95% nhõn dõn cũn mự ch thnh t nc cú sc mnh vn hoỏ lm tht bi hai cuc
xõm lc ca thc dõn Phỏp v quc M
Bc vo thiờn niờn k mi, UNESCO tng cú khuyn cỏo: "Qu
c gia no, cng
ng no coi nh giỏo dc hoc khụng bit cỏch lm giỏo dc thỡ u lc hu v iu
ny cũn ti t hn l s phỏ sn".
T tng giỏo dc ca Bỏc H l di sn vụ giỏ cho cỏc th h ngi Vit Nam nhn
thc ỳng n tm quan trng ca giỏo dc v lm giỏo dc hiu qu.
T tng ny luụn luụn l kim ch nam cho vic thc hin cụng cuc i mi giỏo d
c,
chin lc giỏo dc chin lc con ngi t nc vng bc hon thnh cụng nghip
hoỏ - hin i húa v thc hin s hi nhp quc t.
II. TT THNH - I QUC - CH MINH : NP NH - LP CH - THN DN
1. Cõu i ngy Bỏc i xa
Cõu chuyn sau õy thng c k li: Ngy Bỏc i xa, Si Gũn cũn nm trong vũng
kỡm kp ca M - Thiu. Cn thụng bỏo cho ng bo, nhng cụng khai thỡ khụng c.

- 6 -
Một bộ phận kẻ thù của cách mạng tuy kính nể Bác nhưng bọn đầu sỏ còn ngoan cố. Một
tờ báo Sài Gòn đã cho đăng đôi câu đối sau:
Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất
Minh tinh quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song.
Cái hay của đôi câu đối là chữ đầu của vế trên và vế dưới khớp lại thành tên Bác: "Chí
Minh" và nội dung là tổng kết đánh giá sự nghiệp vĩ đại của Bác:
Chí khí quyện vào sông núi, anh hùng xưa nay hiếm có ai như Người

Ngôi sao sáng này bừng trong vũ trụ, hào kiệt từ Á sang Âu khó người nào sánh nổi.
Tác giả đôi câu đối còn khuyết danh. Có người nói một nhân sĩ Sài Gòn tưởng nhớ Bác, lại
có tài liệu cho rằng đó là lời viếng Bác của lãnh tụ một nước lớn, bạn thân thiết của Bác.
Ở thời điểm tháng 9-1969, đọc đôi câu đối trên, đồng bào ta tự hào về Bác, quý trọng tấm
lòng và tài năng tác giả viết được hai vế đối hay, hàm súc, song cứ nghĩ liệu nhân loại này, thế
giới này có đồng thuận với sự ca ngợi đó không? Điều này đã sớm được giải đáp: Trên hành
tinh này biết bao bạn bè đồng chí dù có thế vị khác nhau đều công nhận: Hồ Chí Minh là Anh
hùng giải phóng dân tộc, là con người tiêu biểu cho Nhân đạo và Nhân loại, là nhân cách của
thời đại. Bác là lãnh tụ Cộng sản duy nhất được tôn vinh là Danh nhân văn hoá thế giới.
Mỗi cán bộ giáo dục chúng ta vô cùng tự hào phấn khởi vì Bác trên con đường cứu
nước giải phóng dân tộc, lúc khởi thuỷ là một nhà giáo - thầy giáo Nguyễn Tất Thành. Bác
sĩ Nguyễn Kính Chi, nhân sĩ đáng kính là học trò của Bác tại trường Dục Thanh (trường
giáo dục thanh niên) đã kể lại trong hồi ký của mình:
"Trên bờ phía nam của sông Phan Thiết, cách cửa biển chừng vài cây số lúc bấy giờ có
mấy ngôi nhà nho nhỏ lợp ngói âm dương, chung quanh không tường không vách chỉ có
những song gỗ lưa thưa, những hôm trời nồm gió biển thổi vào mát rượi. Đó là trường học
Dục Thanh của Hội Liên thành. Trường và Hội đều đã được lập ra trong phong trào Duy
Tân mấy năm trước. Trong hoàn cảnh hồi bấy giờ, đó là hành động yêu nước nhằm mở
mang dân trí khuyến khích thực nghiệp.
Trường dạy cả chữ Hán, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ cho khoảng sáu, bảy m
ươi học
sinh từ lớp tư đến lớp nhất. Thầy Thành dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ cho lớp ba và lớp
tư. Thầy Thành ở đấy được bảy, tám tháng. Bỗng một buổi sáng thứ hai vào khoảng tháng
10 năm 1911 có tin thầy đã bỏ đi và không cho ai biết. Học sinh rất xôn xao. Người nào
cũng tiếc không những vì thầy dạy chu đáo mà còn vì ai nấy đều cảm thấy người thầy này
dạy học không chỉ vì kiếm sống mà còn vì cái lẽ gì khác".
2. Nếp nhà - Lập chí - Thân dân
Từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành đến nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, đồng chí
Vương, Lý Thụy, ông Chín và rồi lãnh tụ Hồ Chí Minh trong bất cứ hoàn cảnh nào, địa
điểm nào, Bác cũng thực hiện: Cách mạng là giáo dục, giáo dục phục vụ cách mạng.

Bác là Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế giới vì Người đã thâu
góp và phát triển tinh hoa của dân tộc, thời đại.
Song để đi đến sự thâu góp này thì khởi nguyên Bác được thừa hưởng một "Nếp nhà",
nhân tố quan trọng tạo nên tính cách một con người, cái khắc tạo vào con người những
nguyên tắc sống cơ bản để nên người, thành người.

- 7 -
Chú bé Nguyễn Sinh Cung và sau này người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã được nuôi
dưỡng trưởng thành trong một gia đình hấp thu những điều cao đẹp của Nho gia phương Đông.
Từ năm 1923, Bác từng tâm sự với nhà thơ Xôviết Ôxíp Mandenxtam: "Tôi xuất thân
từ một gia đình nhà Nho Việt Nam. Bên nước tôi những gia đình như thế thanh niên đều
theo học đạo Khổng".
Khi khai lý lịch với tư cách đại biểu tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản (1935) tại
Matxcơva ở mục thành phần gia đình, Bác đã không ngần ngại ghi "Nhà nho".
"Nhà nho" ở gia đình Nguyễn Tất Thành ứng xử theo nguyên tắc:
"Khiêm - Cung - Tín - Mẫn - Huệ"
(Khiêm tốn, Cung kính, Trung tín, Cần mẫn, Huệ ái)
Không phải ngẫu nhiên mà hai anh em Bác đã được ông ngoại đặt tên cho là Nguyễn
Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung. Phải chăng cụ Hoàng Đường đã gửi vào các cháu niềm
kỳ vọng "Khiêm - Cung" sẽ là lý tưởng hành động sống của các cháu trong cuộc đời.
"Nhà nho" trong gia đình Bác được thấm nhuần nguyên tắc Tu thân và Xử thế:
*/ "Phú quí bất năng dâm
Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất"
(Giàu sang không thể quyến rũ
Nghèo khổ không thể chuyển lay
Uy vũ không thể khuất phục)
*/ "Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu"
(Trợn mắt xem khinh ngàn lực sĩ

Cúi đầu làm ngựa trước nhi đồng)
Trong diễn văn bế mạc Đại hội Đảng lần thứ 2 tại chiến khu Việt Bắc năm 1951,
những ý tưởng trên đây của Mạnh Tử, Lỗ Tấn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
với các đồng chí của mình.
"Nếp nhà" mà Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành lớn lên là "Nếp nhà" với:
"Gia đạo nhân văn
Gia phong trong sáng
Gia pháp nghiêm minh
Gia giáo nền nếp
Gia cảnh thuận hoà"
Từ "Nếp nhà" này chú bé Nguyễn Sinh Cung đã bộc lộ cái "chí" của mình từ lúc 5 tuổi:
"Con siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con"
(Thơ Con Đường)

- 8 -
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn
(Thơ Biển)
Từ ông ngoại và cha, chú sớm hấp thụ tinh hoa trong "Tứ thư" của Nho gia, rồi "Minh
tâm bảo giám", "Ấu học ngũ ngôn thi" với các thông điệp:
"Nhất sinh hành thiện
Thiện do bất túc
Nhất nhật hành ác
Ác tự hữu dư"
(Một đời làm điều thiện
Mà điều thiện chưa đủ
Một ngày làm điều ác
Thì điều ác đã thừa)
(Minh Tâm bảo giám)

Đạc sơn thông đại hải
Luyện thạch bồ thanh thiên
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên
(Đào núi lấp biển
Luyện đá vá trời
Mọi điều không có gì khó cả
Chỉ sợ con người không đủ kiên nhẫn)
(Ấu học ngũ ngôn thi)
Các ý tưởng này đã truyền vào tâm thức Nguyễn Sinh Cung, để rồi sau này trên bước
đường hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã có những lời tự sự hoặc lời khuyên thanh niên:
"Thiện ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân"
(Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên)
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí cũng làm nên"
Trên con đường lập chí, Nguyễn Tất Thành đã được thân sinh - ông Bảng Sắc trang bị
cho một vốn tri thức nền tảng. Khi ở Huế dù gia cảnh khá thanh bần, song ông Bảng Sắc đã

- 9 -
mua tân thư cho các con đọc để họ sớm có nhận thức mới. Trạc tuổi 13, Nguyễn Tất Thành
đã làm quen với các từ "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" và anh đã có chí hướng tìm đến cội
nguồn các phạm trù này.
Nhà nghiên cứu Kôbêlép người Nga kể lại:
"Qua tác phẩm "Thú tội" của Rousseau, Thành biết được rằng chàng thanh niên
Rousseau trước khi trở thành nhà khai sáng vĩ đại đã có tới mười năm lưu lạc trên các
nẻo đường của các nước châu Âu và ông đã học được nhiều ở một ngành khoa học

quan trọng và cũng là khó khăn nhất - khoa học về cuộc sống".
Thành nung nấu chí "vượt biển" tìm đến các con đường mà Rousseau đã đi - Anh tâm
sự với nhà thơ Ôxíp Mandenxtam:
"Lần đầu tiên vào tuổi 13 tôi đã nghe những từ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với
chúng tôi bấy giờ thì người da trắng nào cũng đều là người Pháp cả. Thế là tôi muốn
làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau cái từ ấy. Nhưng
trong các trường bản xứ, bọn Pháp dạy như vẹt. Chẳng những chúng tôi không được
phép đọc các nhà văn mới, mà thậm chí còn bị cấm đọc cả Rousseau và Montesquieu.
Phải làm sao đây? Tôi quyết định đi ra nước ngoài. Tôi lần mò đến tận bờ biển và thế là
tôi đã ra đi. Năm ấy tôi hai mươi mốt tuổi".
Đỉnh cao kiến thức trong hành trình lập chí của Nguyễn Ái Quốc là sự giác ngộ Chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên trong hành trình đi tới đỉnh cao này Nguyễn Ái Quốc luôn
luôn biết trau chuốt các giá trị của đạo Khổng và tiếp nhận tinh hoa của các nguồn ánh
sáng khác rồi gộp bội chúng lại, tìm ra cho bản thân mình, dân tộc mình con đường giải
phóng.
Bác từng khuyên các đồng chí của mình:
"Chúng ta, người Việt Nam, hãy tự học, tự tu dưỡng bằng cách đọc các tác phẩm
của Khổng Tử và hãy nghiên cứu về cách mạng trong các tác phẩm của Lênin".
(Phát biểu trên báo Thanh niên Quảng Châu số 80, ngày 20/02/1927)
Cuốn Hồ Chí Minh truyện do Nhà xuất bản Tam liên Thượng Hải ấn hành năm 1949
đã ghi lại nhận thức của Bác:
"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện
nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao.
Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm
nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.

Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy". (Sđd tr 91)

- 10 -
Nguyễn Ái Quốc khẳng định từ năm 1921:
"Đức Khổng vĩ đại đã khởi xướng nền đại đồng và thuyết giải quyền bình đẳng về
của cải. Ngài nói tóm tắt là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ một nền đại đồng
trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng. Sự công bằng sẽ
xoá bỏ sự nghèo khổ" (1, 35). Sau này năm 1927, trên báo Thanh niên, Người nhấn
mạnh: "Nếu Khổng Tử còn sống ở thời đại chúng ta thì chắc hẳn bậc vĩ nhân ấy sẽ sớm
tuỳ thời biến dịch và sẽ nhanh chóng trở thành người kế tục xứng đáng của Lênin".
Năm 1950, trong Hội nghị bàn về công tác huấn luyện tại chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí
Minh đã cho treo song song thông điệp của Khổng Tử với lời dạy: "Học nhi bất yếm, giáo
nhân bất quyện" mà Người dịch là "Học không biết chán, dạy người không biết mỏi" và
thông điệp của Lênin "Học, học nữa, học mãi".
Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện đã có một nhận xét khá xác đáng: "Giữa các nhà
Mácxít và các bậc chân nho không chỉ có sự tương đồng trong các mục tiêu chính trị
mà còn có cả sự thân thiết trong lĩnh vực tư tưởng khiến đôi bên d
ễ dàng gần gũi nhau.
Nhiều nhà nho đã nhảy vọt từ đạo Khổng sang học thuyết của Mác. Trường hợp nổi
tiếng nhất chắc chắn là trường hợp của Hồ Chí Minh".
"Nếp nhà" - "Lập chí" là nền móng để Nguyễn Ái Quốc hướng tới đỉnh cao văn hoá
mà ở con người này là văn hoá "Thân dân".
Nhà thơ Xô viết Ôxíp Manđenxtam đã dự cảm rất sâu sắc khi lần đầu tiên gặ
p Nguyễn
Ái Quốc năm 1923 (lúc đó Nguyễn Ái Quốc 33 tuổi) tại Matxcơva.
"Cả diện mạo của Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và sự tế nhị. Từ Nguyễn ái
Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải nền văn hoá châu Âu mà có lẽ nền văn hoá
tương lai.
Qua phong thái thanh cao trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc ta
như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái trên toàn

thế giới".
"Văn hoá tương lai" mà Ôxíp Manđenxtam đề cập ở đây chính là văn hoá của một con
người suốt đời chỉ có một ham muốn:
"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc,
ai cũng được học hành".
Từ một ý tưởng của nho gia trong sách Đại học, Hồ Chí Minh đã nói đến phạm trù
thân dân.
Sách Đại học nêu:
"Đại học chi đạo
Tại minh minh đức
Tại tân dân"
Tân dân = làm mới nhân dân. Cách diễn đạt này có thể coi là tích cực khi nho gia
khuyên người quân tử phải biết làm mới nhân dân, đem đến cho nhân dân cuộc sống mới.

- 11 -
Cái tài tình và sâu sắc của Hồ Chí Minh là thêm vào (trong cách viết của người Việt) một
chữ "H". "Tân dân" thành "Thân dân" đã làm cho tư tưởng của Nho gia nhân văn hơn, cao
đẹp hơn, chí tình, chí nghĩa hơn.
Nói chuyện với tri thức Thủ đô năm 1956, Bác Hồ tóm tắt lý tưởng của con người
trong 11 chữ "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân".
Người giải thích:
"Minh minh đức là chính tâm"
Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết" (8, 215).(1)
Quan điểm "Thân dân" của Hồ Chí Minh tuy dựa vào luận điểm của nho gia "Dân vi
bản", "Dân vi quí", song phản ảnh tâm thức của người Việt Nam.
Trong Di chúc trước lúc đi xa, Người nhấn mạnh:
"Đầu tiên là công việc đối với con người" (1969)
Suốt quá trình lãnh đạo Nhà nước, Người luôn luôn căn dặn đồng chí của mình:
"Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân:

Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi
Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi
Nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi
Nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi " (1955)
Quan điểm "Thân dân" của Hồ Chí Minh xem xét con người với thái độ: "Mỗi con
người đều có cái thiện, cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi" (12, 558).
Đất nước chúng ta đã đi vào con đường hội nhập sâu với thế giới trước bối cảnh toàn
cầu hoá. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (9/1950
- 1956) đã đào tạo được những con người Việt Nam có các phẩm chất "Nhân - Nghĩa - Trí
- Dũng - Liêm" chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ là bọn thực dân Pháp. Cuộc cải cách
giáo dục lần thứ hai (1956 - 1979) tiếp tục thành quả cuộc cải cách lần thứ nhất đã đào tạo
những con người đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới là đế quốc Mỹ. Cuộc cải cách lần thứ
ba từ 1979 và ngày nay là cuộc Đổi mới giáo dục đang thực hiện đào tạo thế hệ trẻ có khả
năng đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu.
Chỉ có thể thành công trong sự nghiệp vĩ
đại này nếu xây dựng mỗi gia đình Việt Nam
thành "Gia đình học hiệu". Năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào
thời kỳ nóng bỏng và gian khổ, Bác Hồ đã giao cho chính quyền Thanh Hoá, các vị trí thức
Thanh Hoá mà đại diện là các ông Đặng Thai Mai, Lê Thước nhiệm vụ xây dựng các gia
đình tỉnh Thanh Hoá thành "Gia đình học hiệu", mỗi người dân Thanh Hoá là một "tiểu
giáo viên". Ngày nay, UNESCO phát động các quốc gia kiến tạo xã hội học tập đã l
ưu ý
vấn đề gia đình học hiệu (learning family). Tự hào thay ý tưởng của thời đại đã được Bác
cảm nhận từ trước đó hàng mấy thập niên khi đất nước còn vô vàn khó khăn và Bác đã
truyền tâm ý của mình cho đồng chí, cho nhân dân thực hiện ý tưởng này.
"Nếp nhà" là cái cơ bản để có gia đình học hiệu, để tuổi trẻ lập được chí và rồi lập
thân, lập nghiệp. Phát động thế hệ trẻ lập thân, lập nghiệp song không lập chí làm sao lập
được thân, lập được nghiệp.


- 12 -
Ngày 26/5/1946, trong một lần đến thăm một đơn vị thanh niên, Bác căn dặn: "Các em cần
làm được như lời Tôn Trung Sơn đã nói "Những người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ
không muốn làm quan lớn". Sau đó Bác trao cho họ lá cờ "Trung với nước, hiếu với dân".
Bác còn căn dặn thanh niên:
"Người ta thường nói: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của
mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó.
Chúng ta phải nhận rằng thanh niên ta rất hăng hái. Nhưng chúng ta cũng phải nhận
rằng phong trào thanh niên ta còn chật hẹp, mặc dầu từ ngày Cách mạng tháng Tám đến
nay, thanh niên có cơ hội để phát triển một cách mau chóng và rộng rãi hơn.
Vậy nên nhiệm v
ụ của các bạn là phải tìm đủ mọi cách để gây một phong trào thanh
niên to lớn và mạnh mẽ.
Theo ý tôi, muốn đạt mục đích đó, thì mỗi thanh niên, nhất là mỗi cán bộ phải kiên
quyết làm bằng được những điều sau đây:
a) Các sự hi sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn
thì mình nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc).
b) Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng quyế
t làm cho kì được.
c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý.
d) Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
đ) Quyết tâm làm gương về mọi mặt, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
e) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, nên nói ít, làm nhiều, thân ái đoàn kết.
Tôi lại khuyên các bạn một điều nữa, là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh
mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.
Việc gì cũng cần phải thiết thực; nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ chỗ nhỏ dần
dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực
hiện được, hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được" (5, 185 - 186).

3. Tất Thành - Ái Quốc - Chí Minh và nhân cách con người có 3H & 3T
Trong hành trình cách mạng, Bác Hồ mang nhiều tên, song "Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh" gợi mở và thúc đẩy thế hệ trẻ Việt Nam sống có mục
đích, sống với lòng yêu nước, sự bền chí và thông minh. Một nhà giáo dục khả kính của
Việt Nam từ " Tất Thành - Ái Quốc - Chí Minh " đã thu hoạch về 3H-3T của người thanh
niên trên con đường sáng nghiệp.
Tất Thành : Tính mục đích: Thế tự lập (T
1
)
Ái Quốc : Lòng yêu nước: Tình gắn bó (T
2
)
Chí Minh: Sự bền chí thông minh: Tâm ổn định (T
3
)
(Tất Thành & Ái Quốc) : Tư duy Hiện thực (H
1
)
(ái Quốc & Chí Minh): Lý tưởng Hoài bão (H
2
)

- 13 -
(Tất Thành & Chí Minh) : Làm việc Hiệu quả (H
3
)
"Nếp nhà - Lập chí - Thân dân" trong hành trình cách mạng của Bác Hồ mãi mãi là di
sản vô giá cho ngành giáo dục, cho các nhà trường rèn luyện thế hệ trẻ đưa đất nước tiến
đến đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu.



















III. BÁC HỒ NGƯỜI KHAI SÁNG CHO TƯ DUY VÀ CHIẾN LƯỢC HÀNH ĐỘNG
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở VIỆT NAM NGAY NHỮNG NGÀY ĐẦU CỦA
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
1/. Vấn đề "Xã hội học tập" mà ngày nay các quố
c gia coi là tiêu điểm của chính sách
phát triển đã được Bác Hồ khai sáng trong tư duy và chiến lược hành động cho nước ta
ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng.
Xã hội học tập chỉ thành hình và phát triển khi người quản lý thúc đẩy được mọi người
dân có nhu cầu học tập, có khát vọng học tập. Nhu cầu này gắn liền với việc quản lý hỗ trợ cho
nhân dân nâng cao năng lực tiếp nhận sự
học tập và mở rộng cơ hội học tập cho nhân dân.
Quản lý phải làm sao cho bộ ba "Nhu cầu - Năng lực - Cơ hội" gắn bó chặt chẽ với nhau.
Không tạo ra nhu cầu đích thực thì dù có ra sức nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội

đến đâu cũng không thể hiện thực được mục tiêu về xã hội học tập.
Hoài bão
Hiệu quả
Con người
sáng nghiệp
Hiện thực
Ái Quốc
Tình gắn bó
Chí Minh
Tâm ổn định
Tất Thành
Thế tự lập

- 14 -
Song khi đã tạo ra nhu cầu - Người dân có tha thiết học mà người quản lý không giúp
người dân có năng lực để "Học được" và cơ hội "Được học" thì cũng không thể hình thành
xã hội học tập.
Nhu cầu càng lớn thì năng lực và cơ hội càng phải được nâng cao và mở rộng
và ngược lại càng nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội học tập thì càng phải thúc đẩy
nhu cầu.
Để cho ba nhân tố này rời rạc với nhau thì không thể nói đến xã hội học tập. Xã hội
học tập hội tụ và làm phát triển ba nguồn vốn: vốn con người, vốn tổ chức, vốn xã hội
(human capital, organizational capital, social capital), nó là nhân tố đưa quốc gia tăng
trưởng có chất lượng và phát triển bền vững.










Hiện nay có quan niệm xã hội phải tiến tới "Kinh tế tri thức", đạt "Kinh tế tri thức",
mới có thể xây dựng xã hội học tập. Không ai phủ nhận tầm quan trọng của kinh tế tri
thức tạo ra nhu cầu rộng lớn và điều kiện thuận lợi về học tập để có một xã hội học tập
đích thực và bền vững.
Tuy nhiên cứ phải chờ có "Kinh tế tri thức" mới xây dựng được xã hội học tập thì
những nước nghèo, những nước chậm phát triển và đang phát triển sẽ mất bao nhiêu năm
(?) mới đi tới xã hội học tập.
Thực tế của Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và suốt năm 1946 đã
chứng minh một điều khác hẳn. Khi bắt đầu xây dựng chính quyền cách mạng (2/9/1945),
95% nhân dân còn mù chữ, nạn đói đã làm kiệt quệ nền kinh tế; giặc ngoại xâm với những
kẻ thù hung bạo xảo quyệt nhất can thiệp vào nước ta.
Bác Hồ người chèo lái con thuyền cách mạng trong lúc đất nước còn nguy nan đã chấn
hưng dân khí, khai sáng cho dân tộc ý chí quyết tâm đẩy lùi cái dốt của bản thân, cái dốt
của cộng đồng, của đất nước. Bác đã lãnh đạo, tạo cho toàn dân có nhu cầu trở thành một
dân tộc thông thái, làm cho mọi người giác ngộ "Dân cường nước thịnh", "Dân mạnh nước
giàu" và trên cơ sở này Người tổ chức cho chính quyền cách mạng dù còn trứng nước có
các phương án quản lý hiệu quả nâng cao năng lực học tập của mọi người và mở rộng cơ
hội học tập cho mọi người.
2/. Ngày 2/9/1945 tiếp theo bản Tuyên ngôn độc lập mà vị Chủ tịch nước long trọng
đọc trước quốc dân đồng bào, tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
xã hội
học tập
Nhu cầu
Năn
g
lực
Cơ hội


- 15 -
hoà trước thế giới, Chính phủ đã nêu ra chương trình, nội dung chính của chính sách phát
triển đất nước. Mục tiêu của giáo dục trong chương trình này đã được khẳng định: "Nền
giáo dục mới đang ở thời kỳ tổ chức. Chắc chắn là bậc sơ học sẽ cấp bách. Trong thời hạn
rất ngắn sẽ thi hành lệnh bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống nạn mù chữ đến triệt để.
Vấn đề vô cùng quan trọng ấy chúng ta chẳng chờ đến lúc sự sinh hoạt trở nên bình thường
mới giải quyết mà ngay trong hoàn cảnh eo hẹp này chúng ta phải kiên quyết tiến hành.
(Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chủ tịch giao cho việc trình bày chính sách nội chính
của Chính phủ. Tư liệu: Những sự kiện giáo dục phổ thông 1945 - 1985. Viện Khoa học
Giáo dục 1985, tr2)".
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Người nêu nhiệm vụ giáo dục - chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới
với lời khẳng định:
"Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" (4, 8). Trong tháng 9 năm 1945, Người có bức thư
tâm huyết gửi học sinh các lứa tuổi với lời kêu gọi tha thiết: "Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em" (4, 33).
Tháng 10/1945, Người ra lời kêu gọi chống nạn thất học như một mệnh lệnh hội tụ
toàn dân tộc đưa đất nước vào công cuộc đại nghĩa mở ra kỷ nguyên mới của đất nước.
Người viết:
"Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng
bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không
biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không
biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở
lớp cho những tá điền những người làm của mình.
Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để
kịp nam giới để xứng đáng mình là một phần tử trong nước có quyền bầu cử và ứng cử.
Công việc này mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức" (4, 37).
Dưới sự lãnh đạo của Bác chỉ có 4 tháng của năm 1945 hệ thống giáo dục quốc dân v

ới
các thiết chế: Nha bình dân học vụ, Nha giáo dục phổ thông, Hội đồng cố vấn học chính đã
hình thành. Trong hoàn cảnh lúc đó hệ thống này đã tạo ra những cơ hội cho nhân dân xoá
được nạn thất học, hé mở những cánh cửa cho nhân dân phát triển sự tiến hoá.
Bước sang năm 1946, dù còn biết bao sự bộn bề của các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại
giao, quân sự của đất nước, Bác Hồ
vẫn dành cho sự nghiệp giáo dục sự chăm lo tỉ mỉ chu đáo.
Kiên trì quốc sách của một đất nước dưới chính thể mới là làm cho ba lĩnh vực: kinh
tế, giáo dục, quốc phòng phải luôn luôn gắn bó với nhau, Bác đã chỉ đạo cho chính quyền
mới coi giáo dục là then chốt của sự kết hợp này.
Người nói lên ước nguyện của người cũng là mục tiêu của chế độ mới: "Làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành". Người thẳng thắn nói với công bộc của chính quyền mới:
"Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng
không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do của độc lập khi mà dân ăn no mặc đủ

- 16 -
Chúng ta phải thực hiện ngay:
"Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Làm cho dân có học hành
Các mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó"
Chỉ trong năm 1946, Bác đã viết hàng chục bài báo, thực hiện hàng chục lần tiếp xúc
với nhân dân để khích lệ mọi người ham học, ham dạy. Gây ngạc nhiên cho thế hệ ngày
nay là tại thời điểm này (1946), Người đã có thông điệp "Học suốt đời" (nói chuyện với
đồng chí Nguyễn Thị Định), "Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thông thái"
(có hàm ý như các yêu cầu xây dựng kinh tế tri thức - Nói chuyện với đồng bào Hải Phòng
khi đi Pháp về 10/1946).
Vị Chủ tịch nước coi lĩnh vực giáo dục bình dân là tiêu điểm cho sự phát triển hệ thống

giáo dục quốc dân (ngày nay chính là giáo dục cộng đồng); Người nói với anh chị em giáo
viên bình dân học vụ: "Anh chị em yêu quí! Chương trình của Chính phủ ta là làm thế nào
cho đồng bào cả nước ai cũng có ăn, có mặc, có học.
Vậy nên khẩu hiệu của chúng ta là:
1. Tăng gia sản xuất
2. Chống nạn mù chữ
Anh chị em làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm, anh
chị em là những người "Vô danh anh hùng". Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần
tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em.
Tôi mong rằng trong một thời kỳ rất ngắn lòng hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ
có kết quả rất vẻ vang: đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh dự đó thì tượng
đồng, bia đá nào cũng không bằng" (4, 220).
Trước khi bước lên máy bay đi Pháp (4/5/1946), Người còn căn dặn cụ Huỳnh Thúc
Kháng, lúc đó là Quyền Chủ tịch nước: "Chú ý đến công việc bình dân học vụ".
Ngay sau khi đi Pháp về, Bác tổ chức k
ỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 1 thành lập Chính
phủ mới (từ 3/11/1946). Dù có rất nhiều công việc khẩn trương của thời gian nóng bỏng
này (Thực dân Pháp tạo ra những gây chiến khiêu khích ngay trong lòng Hà Nội), Bác vẫn
quan tâm đến sự nghiệp bình dân học vụ. Ngày 5/11/1946, Người viết văn kiện "Công việc
khẩn cấp bây giờ" chỉ ra nhiệm vụ và phương hướng kháng chiến toàn quốc. Tối cùng
ngày Bác đến thăm các lớp bình dân ở Tr
ường Hàng Than và khu phố Hàng Bún (Hà Nội)
sát nơi đóng quân của quân đội Pháp. Vào từng lớp học Bác ân cần hỏi học viên làm những
nghề gì, học viên trả lời người thì kéo xe, người đi ở, người đi bán kẹo rong, người làm nội
trợ, Bác khen thầy trò trường Hàng Than: "Thầy siêng dạy, trò siêng học thế là tốt lắm".
Ngày 24/11/1946 (trước Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 gần một tháng), Bác đọc
diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất, Bác kêu gọi các nhà văn hoá
Việt Nam xây dựng nền văn hoá mới sửa đổi được: "Tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ,

- 17 -

phải làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự chủ độc lập". Bác kêu gọi các nhà văn hoá chú ý đến
việc học tập của nhi đồng, giáo dục cho nhân dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ.
Từ tháng 3 năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa bắt đầu và bước vào giai
đoạn gian khó nhất, về công tác tại Thanh Hoá, Bác Hồ đã giao cho lãnh đạo Thanh Hoá qua
các ông Lê Thước, Đặng Thai Mai xây dựng Thanh Hoá có các "Gia đình học hiệu", người
dân Thanh Hoá thành "Tiểu giáo viên". Ngày nay, đề cập vấn đề xã hội học tập, UNESCO
nêu ra vấn đề "Gia đình học hiệu" (learning family). Tự hào thay ý tưởng của thời đại đã
được Bác cảm nhận từ trước đó hàng mấy thập niên khi đất nước còn vô vàn khó khăn và
Người đã truyền tâm ý cho đồng chí, cho nhân dân hiện thực được ý tưởng này.
Những sự kiện của Bác Hồ với ngành giáo dục thời kỳ đầu chính quyền cách mạng tháng
9 năm 1945 - tháng 12 năm 1947 càng chứng tỏ vai trò của công tác quản lý khi nắm chắc 3
khâu cơ bản: Thúc đẩy nhu cầu - Nâng cao năng lực - Mở rộng cơ hội của người dân trong lĩnh
vực giáo dục và biết gắn bó ba khâu này vào với nhau thì đó là tiền đề quan trọng cho việc xây
dựng và phát triển xã hội học tập dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả lúc khó khăn.
3/. Sau gần bẩy thập niên phát triển nền giáo dục cách mạng nước ta ngày nay trong
những năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới đã có mặt bằng giáo dục với số người lớn biết
chữ 90,3%, tỷ lệ thanh thiếu niên 6 - 24 tuổi được học tại các nhà trường là 64%, chỉ số
phát triển giáo dục là 0,82 (Báo cáo phát triển con người 2005).
Nếu tính trong số 177 quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt trong Báo cáo phát triển con
người thì giáo dục nước ta có thứ hạng 93.
Giá trị và thứ hạng này cho phép chúng ta có thể khẳng định: Những tiền đề xây dựng
xã hội học tập ở nước ta đã có, dù rằng mặt bằng kinh tế của nước ta còn khá thấp trong
tương quan chung (chỉ số kinh tế mới đạt 0,572 xếp thứ 122/177 nước).
Tiêu chí
Lĩnh vực
Giá trị chỉ số Thứ hạng
Giáo dục 0,82 96/177
Kinh tế 0,572 122/177

Xây dựng xã hội học tập của nước ta dù có những tín hiệu tốt song còn đó những thách

thức. Dù số người biết chữ có tỷ lệ cao, nhiều trường học mở ra, số thanh thiếu niên được
đi học đông, song để có một nền học vấn thiết thực từ nhu cầu không phù phiếm, tạo cho
công dân có kỹ năng đời sống phát triển cộng đồng bền vững thì vấ
n đề lại còn nhiều nỗi
băn khoăn.
Nước ta đang thực hiện chương trình giáo dục cho mọi người (Education for All-EFA),
các chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, những dự án mở rộng trung
học phổ thông, những ý tưởng đưa đại học tinh hoa thành đại học đại chúng nhằm tạo
ra nền móng của "Xã hội học tập". Có thể khẳng định rằng các chương trình này chỉ có
ý nghĩa nếu ta quán triệt được các ý tưởng giáo dục nhân văn và thân dân của Bác Hồ
kính yêu.

- 18 -
IV. MỘT THÔNG ĐIỆP CÓ Ý NGHĨA VĨNH HẰNG
Ngày 13/09/1958 đến thăm lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền
Bắc đặt tại Hội trường Trường Bổ túc Công nông Trung ương (nay là Học viện Quản lý
Giáo dục), Bác Hồ sau khi ân cần thăm hỏi khích lệ lớp học, nói về vị trí của giáo dục
trong giai đoạn mới đã ra lời kêu gọi:
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"
Lời kêu gọi của Bác trở thành thông điệp cốt lõi của chiến lược phát triển giáo dục,
chiến lược phát triển con người của đất nước.
1. Thông điệp là kết tinh tư tưởng "giáo dục thân dân" coi giáo dục vừa là
mục tiêu vừa là sức mạnh của quá trình phát triển.
Để lĩnh hội ý kiến sâu sắc của lời dạy, cần nhắc lại vài sự kiện lịch sử của nền giáo dục
cách mạng gắn với công việc của vị Chủ tịch nước.
Ngày 03/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của chính phủ, Bác đã nêu những nhiệm vụ cấp
bách của nền Dân chủ Cộng hoà mà trong dó giáo dục được Người đặt vào vị trí then chốt:
Người nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"; Người yêu cầu "Chúng ta có nhiệm
vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta

trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập".
Ngay năm học đầu tiên của nước Việt Nam mới, năm học 1945-1946, Bác gửi thư cho
toàn thể học sinh và giao nhiệm vụ cho ngành giáo dục Việt Nam: Một nền giáo dục sẽ đào
tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 và toàn
quốc từ 19/12/1946 có làm cho những mục tiêu của nền giáo dục mới chưa triển khai trên
phạm vi toàn quốc. Nhưng ở vùng tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính quy
ền cách
mạng đã phát triển nền giáo dục mới theo ý tưởng của Hồ Chí Minh.
"Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Người nhấn mạnh một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ ngay trong lúc
kháng chiến gian khổ:
Mở mang giáo dục để cho ai nấy cũng đều biết đọc, biết viết.
Kháng chiến chống th
ực dân Pháp thắng lợi và việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc
đưa đất nước vào cục diện mới: Khôi phục phát triển kinh tế theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa
và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.
Liên tiếp trong các năm 1955-1958, Hồ Chủ tịch đã dày công chỉ đạo cho toàn Đảng
toàn dân đưa phát triển kinh tế, phát triển giáo dục gắn bó với nhau. Trong thời gian này,
Bác đã đến thăm nhiều trường học, nhiều hội nghị giáo dục và có gần 30 bài nói chuyện
hoặc huấn thị quan trọng cho ngành giáo dục, cho các thầy cô giáo, học sinh từ đại học đến

- 19 -
mẫu giáo. Người đề cập một tổng thể các vấn đề giáo dục từ phương thức phát triển đến
cách dạy học, sự rèn luyện tu dưỡng của thầy trò.
Bác đặt giáo dục và kinh tế trong một chỉnh thể phát triển thống nhất với nhau. Người
đặt yêu cầu phải có biện pháp làm cho hai lĩnh vực này hỗ trợ lẫn nhau. Tại Đại hội giáo

dục phổ thông toàn quốc 3/1956, Bác chỉ thị: Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau.
Giáo dục có khó khăn thì kinh tế phải khắc phục. Chúng ta đồng tâm hiệp lực thì kinh tế
cũng thành công, giáo dục cũng thành công.
Người mong các cán bộ làm công tác giáo dục nhận thức được: Không có giáo dục,
không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Việc đào tạo cán bộ giáo dục
cần phải coi là hàng đầu. Tuy không có gì là oanh liệt nhưng làm tròn nhiệm vụ này cũng
là anh hùng, tập thể anh hùng.
2. Thông điệp là sự kế thừa chọn lọc và phát triển ý tưởng của tiền nhân
Ôn lại thông điệp của Bác Hồ xin được nhắc đến danh nhân Quản Trọng. Là nhà chính
trị Trung Hoa cổ đại (725-645 TCN), ông từng có lời phát biểu sau đây:
Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc
Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc
Chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.

(Trù liệu việc một năm không gì bằng trồng lúa
Trù liệu việc mười năm không gì bằng trồng cây
Trù liệu việc cả đời không gì bằng trồng người).
Nhà chính trị văn hóa Hồ Chí Minh khi tìm đường cứu nước đã nghiên cứu tư tưởng
chính trị của các danh nhân Tiên Tần và các dòng tư tưởng khác. Trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người chắt lọc cái hay gạt đi cái dở của các tư tưởng này để xây dựng những
quan điểm chính trị giáo dục thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
Quản Trọng, còn nói: "Đạo tr
ị nước trước hết phải làm cho dân giàu" (Đạo trị quốc tất
tiên phú dân), song ông quan niệm:
"Dân giàu thì dễ sai, dân nghèo thì khó trị" (Dân phú tắc dĩ sử dã, dân bần tắc nan trị dã ).
Ông bày cho nhà cầm quyền:
Trị dân như trị thủy
Mục dân như mục súc
Dưỡng dân như dưỡng thảo
(Trị dân như trị nước

Nuôi dân như nuôi súc vật
Chăm dân như chăm cây cỏ).

- 20 -
Có thể thấy rằng: Lý tưởng chính trị, lý tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, của Quản
Trọng là hoàn toàn khác nhau. Đối với Hồ Chí Minh giáo dục và chính trị vừa là mục tiêu,
vừa là sức mạnh thúc đẩy nhau và đều hướng vào lợi ích của nhân dân, hạnh phúc của nhân
dân (Lợi vi bản).
Lưu ý là ngay sau phát biểu luận đề này (luận đề "Vì lợi ích "), Bác nhắn nhủ cô giáo,
thầy giáo: "Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân
dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó
là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn
nhiệm vụ".
3. Thông điệp là phương châm cho chiến lược giáo dục mà việc tổ chức
giáo dục, dạy học phải hướng vào người học, lấy lợi ích của người học
làm mục tiêu chủ đạo của quá trình đào tạo.
Bác mở đầu thông điệp bằng cụm từ "Vì lợi ích" với hàm ý như một lời nhắc nhở mọi
cán bộ giáo dục, giáo viên cần có tư duy mới về công tác giáo dục, dạy học.
Với tầm nhìn chính trị giáo dục sắc bén, Người tiên liệu các thách thức đặt ra cho nền
giáo dục cách mạng khi nhiệm vụ tổ chức việc học hành không chỉ cho một thiểu số cư dân
mà phải cho toàn dân. Không thể chỉ lấy nhiệt huyết và quyết tâm rồi theo cách làm cũ mà
thành công trong công việc điều hành tiến trình đào tạo. Cần nhìn cho rộng suy cho kỹ
(Nhãn quang ưng đại, tâm ưng tế) đối với công việc có tầm quan trọng đặc biệt và có quan
hệ đến từng tế bào của đời sống xã hội, đời sống mỗi gia đình, mỗi công dân.
Dân chủ hóa đời sống giáo dục chỉ hiện thực trên cơ sở tư duy mới, cách làm mới.
Thông điệp định hướng cho sự phát triển nhà trường phải từ bỏ được phương thức sư phạm
quyền uy, ban ơn, xây dựng phát triển phương thức sư phạm của tinh thần cộng tác dân
chủ, "Thầy quý trò, trò kính thầy"; từ bỏ lối dạy học không chú ý đến nhu cầu của người
học, hoàn cảnh của người học, nguyện vọng của người học, "lợi ích - chức năng" của
người học trong cuộc sống cộng đồng.

Ích lợi của việc học là điều kiện cần, song lợi ích của người học phải là điều kiện đủ
trong chiến lược giáo dục cho mọi người.
Sự nhất quán trong quan điểm giáo dục của Bác là phải xây dựng phát triển được nền
giáo dục, hệ thống giáo dục kiểu nhà trường, cách dạy học vì lợi ích của nhân dân, vì lợi
ích của người học. Đó là nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân văn, lao động, thiết thực giải
quyết các vấn đề phát triển của đất nước về chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật,
nền giáo dục phải chứa đựng các thiết chế "hợp với hoàn cảnh mới của đất nước".
Thông điệp:
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"
của Bác Hồ có ý nghĩa vĩnh hằng. Đó mãi mãi là phương châm hành động của nền giáo
dục Việt Nam nhằm phục vụ có kết quả sự nghiệp phát triển đất nước bền vững, giải quyết
thiết thực, toàn diện và sâu sắc các vấn đề phát triển con người của nước ta.

- 21 -
VI. VĂN HOÁ DẠY HỌC HỒ CHÍ MINH: THÀY QUÝ TRÒ, TRÒ KÍNH THÀY, DẠY
ĐỂ NÊN NGƯỜI VÀ HỌC ĐỂ LÀM NGƯỜI
1. Đặc trưng nhân cách con người Việt Nam thời đại mới
a/. Bác Hồ coi "Thiện" là cái gốc trong Đạo làm người
Bác nêu ra "Thiện" đối lập với "ác"
"Chính" đối lập với "Tà".
Người dạy:
"Trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc song những công việc ấy chưa làm hai thứ
việc Chính và việc Tà.
Làm việc Chính là người thiện.
Làm việc Tà là người ác.
Siêng năng (Cần), tằn tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm) là Chính, là Thiện. Lười biếng,
xa xỉ, tham lam là Tà, là ác".(5, 643)
Người nhấn mạnh:
"Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm

Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh". (5, 645)
Trong bài thơ "Nửa đêm" (Dạ bán), Người viết:
Thụy thì đô tượng thuần lương hán
Tỉnh hậu tài phân thiện ác nhân
Thiện ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân.
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Như vậy theo Hồ Chí Minh giáo dục và tự giáo dục có vai trò quan trọng hình thành tố
chất "Thiện" trong mỗi con người, tất nhiên đó phải là một nền giáo dục lấy lý tưởng là sự
phát triển nhân văn, dân chủ và lao động.
b/ Trên nền tảng tố chất "Thiện" muốn nên người phải rèn luyện hệ thống các
phẩm chất. "Trung Hiếu, Nhân - Trí - Dũng, Cần - Kiệm - Liêm - Chính"
Các quốc gia ngày nay đi vào nền kinh tế tri thức trước bối cảnh toàn cầu hoá đều xác
định chiến lược con người, chiến lược về nguồn lực người. Chiến lược này phải bắt đầu từ
vấn đề nhận thức toàn diện đến quyết tâm, hiện thực phạm trù nhân cách, có quan điểm
đúng đắn về hướng đi và có giải pháp khả thi để hình thành và phát triển nhân cách cho thế
hệ trẻ.
Đối với đất nước chúng ta, điều rất may mắn trong khi thực hiện chiến lược này chúng ta
có di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Những gợi ý của Người, những lời dạy của
Người chính là kim chỉ nam cho chúng ta hiện thực được chiến lược có ý nghĩa trọng đại này.

- 22 -
Chiến lược con người Việt Nam mới mà Hồ Chí Minh vạch ra đặt trên nền tảng hệ giá
trị đạo làm người. Hệ giá trị này kết tinh đạo lý của dân tộc và cập nhật các quan điểm
nhân cách của thời đại mới.
Hồ Chí Minh đưa khái niệm "Trung - Hiếu" vốn là các khái niệm sâu đậm trong tâm
thức người Việt Nam đến một chất mới phù hợp với chế độ mới. Người cho rằng đạo đức

của chế độ mới cao rộng hơn, không chỉ có hiếu với bố mẹ và "Trung" với một cá nhân ai
đó mà Trung với nước, Hiếu với dân. Khái niệm Trung với nước, Hiếu với dân được
Người thể hiện trong bài thơ tặng cụ Võ Liêm Sơn một nhân sĩ yêu nước khi cụ tham dự
Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai (16 - 20/7/1948).
Người viết:
Tặng Võ công
Thiên lý công tầm ngã
Bách cảm nhất ngôn trung
Sự dân nguyện tận hiếu
Sự quốc nguyện tận trung
Công lai ngã hân hỉ
Công khứ ngã tư công
Tặng công chỉ nhất cú
Kháng chiến tất thành công (5, 540)
(Ngàn dặm cụ tìm đến
Một lời trăm cảm thông
Thờ dân trọn đạo hiếu
Thờ nước vẹn lòng trung
Cụ đến tôi mừng rỡ
Cụ đi tôi nhớ nhung
Một câu xin tặng cụ
Kháng chiến ắt thành công).
"Trung với nước - Hiếu với dân" lời của Hồ Chí Minh nói với cụ Võ Liêm Sơn hơn 60
năm trước đây đã thấm vào nếp nghĩ, nếp sống của mỗi người dân Việt Nam qua hai cuộc
kháng chiến hào hùng chống xâm lược, qua công cuộc xây dựng kiến thiết đất nước. Ngày
nay, nó là lý tưởng cao cả nhất của thế hệ trẻ Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống "Ngũ thường" mới cho dân tộc Việt Nam. Kế thừa
Khổng học, biết chắt lọc các tinh hoa và đặt vào hoàn cảnh của một đất nước phải tiến
hành cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược, xây dựng đời sống mới, Người xác định:
"Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính không có gì

là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra, lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì đồng bào
thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày
càng ít mà những tính tốt như sau ngày càng nhiều thêm".

- 23 -
Tính tốt đó là:"Ngũ thường" mới, mà theo Người bao gồm: "Nhân - Nghĩa - Trí -
Dũng - Liêm"
Người giải thích:
"Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào vì thế mà kiên
quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn
lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham
giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e,
không sợ gì, thì việc gì là việc phải họ đều làm được.
Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu
Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng, phải lo toan. Lúc Đảng giao việc thì
bất kỳ to nhỏ đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói, không
sợ người ta phê bình mình mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
Trí: Vì không có việc tư túi làm mù quáng cho nên đầu óc trong sạch sáng suốt, dễ hiểu
lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc, vì vậy mà biết làm việc có lợi,
tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
Dũng là dũng cảm, gan góc; gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa
chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng, có gan chống lại những sự vinh hoa phú quý
không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc không
bao giờ rụt rè nhút nhát.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng, không ham
người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một
thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ".
Ngũ thường của Nho gia hướng vào "Trung Hiếu" hạn hẹp, Ngũ thường của Hồ Chí
Minh kế thừa nội dung chân chính của Nho gia và hướng vào lợi ích của đất nước, nhân
dân, cách mạng: Trung với nước, Hiếu với dân. Hồ Chí Minh xác định đó là đạo đức cách

mạng. Người nhấn mạnh: "Nó là đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân
mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người" (5, 252).
Nguyện vọng tha thiết của Hồ Chí Minh là làm cho dân tộc từ bỏ những thói xấu lười
biếng, gian giảo, tham ô mà chế độ thực dân đã đầu độc. Ngay trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3/9/1945), vị Chủ tịch nước xác
định nhiệm vụ cấp bách của nhà nước mới là phải giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc
Việt Nam trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng
với nước Việt Nam độc lập. Nền tảng của việc giáo dục đó theo Người là thực hiện:
"Cần - Kiệm - Liêm- Chính"
Hồ Chí Minh mong mỏi tha thiết mỗi người Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam phải lấy
"Cần - Kiệm - Liêm - Chính" là phương châm sống trong cuộc sống mới. ở nhiều bài nói
chuyện với cán bộ, thanh niên, nhân dân về sự tu dưỡng, hành động của họ trong công
cuộc xây dựng kiến thiết chế độ mới, vấn đề "Cần - Kiệm - Liêm - Chính" thường được
Người nhắc nhở với những giải thích phát triển v
ừa giản dị, vừa sâu sắc làm cho các phạm
trù này dù hình thức diễn đạt có tính cổ điển mà ý tưởng lại vô cùng sống động trong hoàn
cảnh mới của đất nước.

- 24 -
Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại:
Ngày 19/5/1946, trong dịp sinh nhật Bác Hồ, các đại biểu trong Ban vận động đời sống
mới đến chúc thọ Bác, xin Bác cho cuộc vận động một khẩu hiệu, Bác nói:
"Các chú muốn có một khẩu hiệu ư! Cần Kiệm Liêm Chính Chí Công Vô Tư. Khẩu
hiệu đó".
Một đồng chí thưa với Bác khẩu hiệu này đã quen thuộc xin Bác một khẩu hiệu mới.
Bác cười rồi nói: "Hàng ngày ta phải ăn cơm uống nước, phải thở khí trời để sống.
Những việc đó ngày xưa ông cha ta phải làm, bây giờ chúng ta phải làm, con cháu ta sau
này cũng phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước, thở khí trời để đem lại cuộc sống cho con
người thì đó là những việc không bao giờ cũ cả. Cần Kiệm Liêm Chính Chí Công Vô Tư
đối với đời sống mới cũng như vậy".

(Võ Nguyên Giáp. Những chặng đường lịch sử -
NXB Văn học, Hà Nội 1977, tr 450).
Sau này năm 1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Người đã nói thêm về Cần Kiệm
Liêm Chính như sau:
"Trời có bốn mùa: Xuân Hạ Thu Đông
Đất có bốn phương: Đông Tây Nam Bắc
Người có bốn đức: Cần Kiệm Liêm Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người" (5, 631)
Ở lời dạy này, Bác đã gắn ba phạm trù Thiên, Địa, Nhân - Trời, Đất, Con người (Tam
tài) để nêu bật một vấn đề cốt lõi về nhân cách con người của chế độ mới.
Hồ Chí Minh còn nêu ra mối liên hệ khăng khít của các phạm trù này:
"Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm
Chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần
Cần kiệm liêm là gốc rễ của chính
Một người phả
i cần kiệm liêm nhưng còn phải chính trước mới là hoàn toàn. "Tự mình
phải chính trước mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác
chính là vô lý".
Nói rộng ra, theo Hồ Chí Minh một dân tộc biết cần kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu
về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
c/ Hồ Chí Minh coi phạm trù "Tình" (Tấm lòng), "Nghĩa" (Trách nhiệm) là điểm
tựa cho các phẩm chất "Trung - Hiếu", "Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm", "Cần -
Kiệm - Liêm - Chính" phát triển một cách bền vững.
Xuất phát từ lý tưởng Mác - Lênin, Người đã đưa các giá trị "Tình - Nghĩa" (Tấm lòng
- Trách nhiệm), vốn là các giá trị thiêng liêng trong cuộc sống của người Việt Nam đến

- 25 -
trạng thái mới, chất lượng mới. Đó là tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu

bốn biển một nhà.
Khi hỏi các đồng chí của mình:
"Các chú có biết nhân dân ta sống với nhau thế nào không?" và được nghe trả lời
"Thưa Bác, nhân dân ta có câu: Tắt lửa tối đèn có nhau", Người đã nhắc nhở: "Đúng là như
vậy! Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và
giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình
nghĩa năm châu bốn biển một nhà".
Người căn dặn: "Hiểu Chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin được".
Người khẳng định: "Mấy chục năm nay nhân dân ta thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin
bằng cách ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống với nhau có tình có nghĩa"
(12, 554).
d/ Các giá trị đạo đức nhân cách Bác Hồ nói với học sinh
Các giá trị: Trung - Hiếu, Nhân - Trí - Dũng, Cần - Kiệm - Liêm- Chính, Tình - Nghĩa
đã được vị Chủ tịch nước nói với các em học sinh thanh thiếu niên với tấm lòng của "Một
người anh lớn lúc nào cũng ân cần mong mỏi cho các em được giỏi giang" một cách dung
dị như sau:
1 - Phải siêng học
2 - Phải giữ sạch sẽ
3 - Phải giữ kỷ luật
4 - Phải làm theo đời sống mới
5 - Phải thương yêu giúp đỡ cha mẹ anh em
(Thư gửi các cháu thiếu nhi sau khi Người đi Pháp về 24/10/1946, 4.421)
- Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
- Học tập tốt, lao động tốt
- Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
- Giữ gìn vệ sinh
- Thật thà, dũng cảm
(Thư gửi Thiếu niên - Nhi đồng toàn quốc

nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đội TNTP
tháng 5/1961 - 10, 356; 10, 356)
Người xác định thế hệ trẻ là người chủ của nước nhà. Người mong họ phải rèn luyện
đạo đức cách mạng để chuẩn bị trở nên người công dân tốt, người cán bộ tốt của đất nước.
Hồ Chí Minh đã xác định cho thanh niên học sinh việc rèn luyện nhân cách theo các
mục tiêu:

- 26 -
"- Yêu Tổ quốc: Cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại.
- Yêu nhân dân: Việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân dân chúng ta
kiên quyết chống lại.
- Yêu lao động: Ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại
- Yêu khoa học: Cái gì trái với khoa học chúng ta kiên quyết chống lại.
- Yêu đạo đức: Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần
kiệm xoá bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động".
Người cũng khuyên họ luôn luôn phải có động cơ học tập đúng đắn với việc đề ra câu
hỏi "Học để phụng sự ai" và Người góp ý:
Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh tức là để làm
trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà.
Học phải đi đôi với hành: Khi ở nhà phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công
việc, giúp đỡ về tinh thần (học được điều gì tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho
cha mẹ nghe).
Ở trường thì phải đoàn kết giúp đỡ anh chị em thi đua học tập, phải đoàn kết giữa thầy
và trò cho trường mình luôn luôn tiến bộ.
Ở xã hội: Các cháu có thể giúp được nhiều việc có ích. Thí dụ tuyên truyền vệ sinh,
giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy bình dân học vụ".
(Bài nói với học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương
Hà Nội. Ngày 18/12/1954. 7-398 - 399).
2. Dạy đẻ nên người và Học để làm người
a/ Bác Hồ coi dạy học là con đường chủ đạo để hình thành và phát triển nhân cách

Người nhấn mạnh mục tiêu của việc học "Học để làm việc, làm người "
Người chỉ ra cái "Học" đích thực là cái "Học gắn liền với Hành", học gắn với lao động
sản xuất với thực tiễn, kết hợp Học và Tự học.
Người dạy: "Một người học xong đại học có thể gọi là có tri thức. Song y không biết
cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói
tóm lại: Công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của
y là tri thức học sách chưa phải tri thức hoàn toàn. Y muốn thành người tri thức hoàn toàn
thì phải đem tri thức đó áp dụng vào thực tế" (5, 235).
Hồ Chí Minh chê những người "Xem nhiều sách để mà loè, để làm ra ta đây", Người
coi những con người đó không phải là biết lý luận. Người khuyên mọi người phải chữa
được bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông.
Hồ Chí Minh khẳng định con đường học vấn là rộng lớn, muốn đạt được học vấn đích
thực thì phải có đạo đức trong sáng, có sự chính tâm, sự thành ý biết đem kết quả học tập
của mình phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh khuyên thế hệ trẻ phải biết kết hợp lao động trí óc và lao động chân tay,
Người dạy: "Lao động chân tay cũng phải có văn hoá mà người lao động trí óc cũng phải

×