Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.49 KB, 104 trang )

Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Đề số 1
Em có suy nghĩ gì về ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thế hệ trẻ
Việt Nam ?
Đáp án đề số 1
DÀN BÀI
Mở bài:
Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc là vấn đề quan trọng, ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này
là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ.
Thân bài:
1. Ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam được
biểu hiện ở nhiều phương diện : cách sống, lối sống, quan niệm, suy nghĩ, ở hoạt
động, nói năng, ăn mặc, ứng xử
Qua những biểu hiện trên, có thể thấy rõ ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc của thanh thiếu niên Việt Nam là như thế nào ?
2. Xem xét nguyên nhân của vấn đề này phải nhìn ở cả 2 mặt : khách quan và chủ
quan. Khách quan là sự tác động của môi trường sống, của bối cảnh thời đại. Chủ
quan là bản thân sự vận động trong tư duy của đối tượng : các thanh niên, thiếu
niên đã quan tâm, suy nghĩ ở mức độ nào về vấn đề này.
3. Với một ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc như vậy, thanh thiếu niên Việt
Nam đang tác động như thế nào đến bộ mặt văn hoá dân tộc, đang để lại một kết
quả ra sao cho tương lai, đặc biệt là trong bối cảnh quá trình hội nhập quốc tế
đang diễn ra sôi động.
4. Xã hội, gia đình, bản thân mỗi thanh niên, thiếu niên nên làm gì để góp phần
khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Kết bài:
Bản sắc văn hoá là cái riêng của mỗi dân tộc. Giữ gìn cái riêng đó là trách
nhiệm của mỗi công dân, trong đó có phần quan trọng của thế hệ trẻ.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một tư tưởng luôn được đề cao trong lịch


sử xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sôi động hiện nay, đây lại càng là vấn đề quan trọng. Ý thức giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc của thế hệ trẻ, một lực lượng đông đảo và hùng hậu đang
là điều được quan tâm đặc biệt của xã hội.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Hơn bất kì ai, thanh niên, thiếu niên là những đối tượng bén nhạy nhất với
các yếu tố văn hoá. Nhìn vào thế hệ trẻ hôm nay, đặc biệt là thành viên của thế hệ
8X, 9X người ta thấy biểu hiện một ý thức đối với bản sắc văn hoá dân tộc. Thế
hệ trẻ bây giờ nhanh nhạy hơn, năng động hơn, hiện đại hơn, đó là dấu hiệu đáng
mừng, bởi nó chứng tỏ tuổi trẻ Việt Nam luôn nắm bắt và theo kịp những yêu cầu
của thời đại. Thế nhưng, hãy quan sát kĩ một chút, chúng ta sẽ thấy trong cái
năng động, hiện đại đó còn có rất nhiều điều đáng suy ngẫm.
Đầu tiên là từ những cái dễ thấy nhất như đi đứng, nói năng, ăn mặc, phục
trang. Xu hướng chung của giới trẻ là bắt chước, học theo phim nước ngoài, theo
các diễn viên, các ca sĩ nổi tiếng. Những mái tóc nhuộm nhiều màu, những bộ
quần áo cộc cỡn, lạ mắt, những cử chỉ đầy kiểu cách, những câu nói lẫn lộn Tiếng
Anh, Tiếng Việt đó là biểu hiện của một thứ văn hoá đua đòi phù phiếm. Sự
chân phương, giản dị mà lịch lãm, trang nhã vốn là biểu hiện truyền thống của
người Việt Nam đã không được nhiều bạn trẻ quan tâm, để ý. Chạy theo những
hình thức như vậy cũng là biểu hiện của việc quay lưng lại với bản sắc văn hoá
dân tộc. Ở một chiều sâu khó thấy hơn là quan niệm, cách nghĩ, lối sống. Rất
nhiều thanh, thiếu niên Việt Nam không nắm được lịch sử dân tộc dù đã được
học rất nhiều, trong khi đó lại thuộc lòng vanh vách tiểu sử, đời tư của các diễn
viên, ca sĩ ; không biết, không hiểu và không quan tâm tới các lễ hội dân gian vốn
là sinh hoạt văn hoá truyền thống lâu đời của nhân dân trong khi rất sành về
"chát", về ca nhạc, cà phê. Ngày lễ, tết họ đến nhà thờ hoặc vào chùa hái lộc
nhưng không biết bàn thờ gia tiên đã có những gì. Họ coi sự cần cù, chăm chỉ
là biểu hiện của sự cũ kĩ, lạc hậu Tất cả đều là biểu hiện của một sự thiếu ý
thức trong giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tiếp xúc với nhiều công dân trẻ
tuổi, người ta thấy dấu ấn của bản sắc văn hoá Việt Nam là rất mờ nhạt, mà

đậm nét lại là một thứ văn hoá ngoại lại hỗn tạp. Đó là một thực trạng đang
khá phổ biến hiện nay.
Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên : nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan. Về phía khách quan, đó chính là tác động của môi
trường sống, của bối cảnh thời đại. Thời đại đất nước mở cửa giao lưu, hội nhập
với thế giới cho nên văn hoá bên ngoài theo đó mà tràn vào Việt Nam. Đâu đâu
cũng có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của một thứ văn hoá mới, hiện đại và đầy
quyến rũ. Trong một không gian chung như vậy, những nét văn hoá cổ truyền của
người Việt dường như đang có nguy cơ trở nên yếu thế.
Về chủ quan, thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm để ý đến vấn đề bản sắc văn
hoá. Họ thiếu ý thức giữ gìn, bởi thực chất là họ không hiểu được bản sắc văn
hoá dân tộc là gì và cũng không cần hiểu.
Những công dân trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam
nhưng lại không giống một người dân nước Việt. Họ có bề rộng nhưng thiếu
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
chiều sâu, chiều sâu của một tâm hồn Việt, một tính cách Việt. Văn hoá dân
tộc là cội rễ bền vững của tâm hồn mỗi con người, không lớn lên và bám chắc
vào cội rễ đó, mỗi con người chỉ còn là một cá nhân lạc loài giữa cộng đồng
của mình. Đó là hậu quả đầu tiên dành cho chính mỗi người, đặc biệt là những
người trẻ tuổi. Và hãy tưởng tượng, nếu thế hệ hôm nay quên đi bản sắc văn
hoá dân tộc mình thì trong một tương lai không xa chúng ta sẽ còn lại gì ? và
những thế hệ tiếp nối sau này sẽ ra sao ? Bản sắc văn hoá là linh hồn, là gương
mặt riêng của mỗi dân tộc, là yếu tố quan trọng để khẳng định vị thế của dân
tộc đó ở giữa cộng đồng thế giới. Đánh mất bản sắc riêng trong nền văn hoá
của mình là đánh mất quá khứ, mất lịch sử, mất cội nguồn và chúng ta chỉ còn
là một con số không ở giữa nhân loại. Thế hệ trẻ là những người nắm giữ
tương lai của đất nước, bởi vậy, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc là một điều vô cùng cần thiết.
Vậy thì cần làm gì để thực hiện được điều đó. Trước hết, là phải từ sự tự giác
ý thức của mỗi người. Mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị

của văn hoá dân tộc - những giá trị được chắt lọc và đúc kết từ ngàn đời, được
gìn giữ, kế thừa qua bao thăng trầm của lịch sử, đã và đang ăn sâu trong máu thịt
của mỗi người dân để dù có đi đâu, sống ở nơi nào, con người đó vẫn luôn là
người dân nước Việt.
Gia đình, cộng đồng xã hội cũng phải chung sức, chung lòng để tô đậm thêm
nữa những giá trị văn hoá đó trong sự trà trộn phức tạp của những luồng văn hoá
khác. Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng, giữ gìn ở đây không có nghĩa là khư
khư ôm lấy cái đã có. Cần phải kế thừa phát huy nhưng đồng thời cũng phải phát
triển nó lên bằng cách kết hợp có lựa chọn với những yếu tố văn hoá mới tích
cực. Từ đó hình thành một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại,
đa dạng, vừa thống nhất, đảm bảo được yêu cầu "hoà nhập nhưng không hoà tan"
trong một thời đại mới. Thực hiện điều này là trọng trách, là nghĩa vụ của mỗi
công dân, của mỗi thanh, thiếu niên hôm nay.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là đóng góp có ý nghĩa đầu tiên cho đất nước
mà mỗi thanh thiếu niên có thể làm và hãy làm bắt đầu từ việc điều chỉnh, uốn
nắn chính những hành vi, ý thức của bản thân mình.
Đề số 2
Khủng bố đang diễn ra hàng ngày tại một số nước và có nguy cơ bùng nổ
trên toàn thế giới. Những suy nghĩ của em về vấn đề này ?
Đáp án Đề số 2
DÀN BÀI
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Mở bài :
Nền hoà bình của thế giới đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nạn khủng
bố.
Thân bài:
1. Nạn khủng bố đang lan tràn trên khắp mọi khu vực của thế giới. Ngày nào
cũng có cảnh đổ máu bởi khủng bố. Khủng bố đang là nỗi lo chung của tất cả các
dân tộc.
2. Mâu thuẫn, xung đột chính trị giữa các quốc gia, dân tộc, các tổ chức, phe phái

là nguyên nhân của tình trạng này.
3. Khủng bố đe doạ nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống con người từ tính
mạng đến của cải, từ vật chất tới tinh thần, khiến nơi nơi đều bao trùm một bầu
không khí căng thẳng, hoảng loạn. Sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của
các quốc gia đều bị ảnh hưởng bởi nguy cơ khủng bố.
4. Tất cả mọi người, mọi quốc gia đều phải cùng thể hiện rõ quyết tâm đẩy lùi
khủng bố bằng những biện pháp cụ thể ; bảo vệ trái đất khỏi nạn khủng bố cũng
chính là bảo vệ mái nhà chung của tất cả chúng ta.
Kết bài:
Thế giới sẽ tươi đẹp hơn nếu như con người không đối đầu và tàn hại lẫn
nhau.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Khát vọng lớn nhất của nhân loại từ thuở xa xưa đến giờ vẫn là khát vọng về
một nền hoà bình thực sự và vĩnh cửu. Thế nhưng trong lịch sử, nhân loại cũng
đã bao lần phải chứng kiến cảnh bầu trời xanh của trái đất trong vẩn đục bởi khói
lửa chiến tranh. Hiện nay, nạn khủng bố ở rất nhiều quốc gia trên thế giới đang
phá vỡ bầu không khí hoà bình của tất cả mọi người.
Từ "khủng bố" đã trở thành một từ rất quen thuộc đối với con người hôm
nay. Gắn liền với nó là cảnh đổ máu tang thương, là người chết, là đổ nát tan
hoang, là nỗi kinh hoàng ám ảnh bao người sống sót.
Các phương tiện thông tin ngày nào cũng sẵn những tin về những thảm cảnh
như vậy. Tai hoạ khủng bố có thể đến với bất kì ai, ở bất cứ nơi nào : trong nhà
hàng, siêu thị, trường học, nhà trẻ, công viên, bến xe, máy bay Cách thức khủng
bố cũng rất đa dạng : gài bom, tấn công trực tiếp, bắt cóc con tin, đặc biệt nguy
hại là bọn khủng bố có thể sử dụng cả vũ khí sinh học, hoá học để reo giắc thảm
hoạ cho con người. Khủng bố ngày càng trở nên nghiêm trọng, bởi qui mô và
mức độ tàn phá của nó. Thế giới hẳn sẽ không bao giờ quên được ngày 11 tháng
9, ngày mà toà tháp đôi chọc trời, biểu tượng cho sức mạnh và nền kinh tế Mĩ đổ
sụp xuống trong tiếng la hét kinh hoàng của hàng ngàn người. Đấy là hồi chuông
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)

cảnh báo có sức thuyết phục nhất về tội ác khủng bố. Tác giả của những vụ
khủng bố lại là những kẻ giấu mặt đang tạo thành một tổ chức mà mạng lưới của
nó có mặt ở hầu khắp các khu vực của thế giới. Bởi thế, không một ai trên thế
giới biết tai hoạ có thể sẽ đổ ập xuống đầu mình lúc nào. Một bầu không khí lo
lắng, hoang mang đang bao trùm lên cuộc sống của toàn nhân loại.
Đằng sau mỗi một vụ khủng bố bao giờ cũng tồn tại một nguyên nhân.
Nhưng nguyên nhân bao trùm của mọi cuộc khủng bố vẫn là những bất đồng về
chính trị, dẫn đến mâu thuẫn, xung đột dai dẳng về chính trị, về sắc tộc, về tôn
giáo trong cộng đồng thế giới.
Hậu quả mà nạn khủng bố để lại là vô cùng nghiêm trọng. Hàng năm, những
vụ khủng bố đã cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng con người, gây nên cảnh
đổ máu tàn khốc, cảnh cha mất con, vợ mất chồng, gia đình, người thân li tán.
Những người may mắn sống sót thì trở thành người tàn phế, mang di chứng suốt
đời. Khủng bố còn làm tiêu tốn biết bao nhiêu công sức, của cải của con người.
Tài sản, nhà cửa, các công trình kiến trúc mà bao người phải nỗ lực trong nhiều
năm tháng mới tạo dựng lên được chỉ trong một tích tắc đã bị huỷ hoại hoàn toàn.
Nhiều người bị đầy vào cảnh không nhà, không cửa, tay trắng chỉ trong giây
phút. Kèm theo đó, nguy hiểm hơn là môi trường sống của trái đất bị đặt trong
nguy cơ bị huỷ diệt bất cứ lúc nào. Đây là những hậu quả tức thời trước mắt mà
ai cũng có thể nhìn thấy. Bên cạnh đó, còn tồn tại những hậu quả lâu dài cho
tương lai loài người. Khủng bố khiến cho mâu thuẫn, xung đột trên thế giới ngày
càng trở nên gay gắt quyết liệt. Khối thống nhất, nền hoà bình mà nhân loại nỗ
lực xây dựng đã bị xâm hại và lung lay thực sự. Khủng bố chưa phải là một cuộc
chiến tranh công khai trên một phạm vi rộng nhưng tiến hành khủng bố là cách
tốt nhất để nuôi dưỡng mầm mống và làm bùng phát chiến tranh trên toàn thế
giới. Nhân loại sẽ như thế nào, sẽ đi về đâu khi chiến tranh lại bùng nổ trong lúc
hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỉ XX hãy còn đó. Không chỉ có
vậy, nạn khủng bố lan tràn khiến tất cả mọi người ở khắp nơi trên trái đất mất đi
cảnh giác an toàn, cảnh giác yên tâm trong cuộc sống. Trái đất là ngôi nhà chung
và là ngôi nhà duy nhất của loài người giữa vũ trụ, thế nhưng con người đang

cảm thấy sợ khi sống dưới mái nhà của mình. Nỗi ám ảnh về khủng bố len lỏi
vào cuộc sống bình yên của mọi người và đang mài mòn, thách thức sức chịu
đựng của tất cả. Khả năng huỷ hoại thần kinh loài người của nó còn lớn và tai hại
gấp nhiều lần khả năng làm đổ máu hay phá huỷ tài sản.
Khủng bố, đó là kẻ thù của một nhân loại tiến bộ và văn minh.
Cần làm gì để ngăn chặn nguy cơ này ? Các nước trên thế giới đều coi đây là
vấn đề an ninh quốc gia và có rất nhiều biện pháp thiết thực, cương quyết để bảo
vệ tính mạng, tài sản cũng như cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, vẫn chưa thể
hết, chưa thể chấm dứt tình trạng này. Cuộc đấu tranh với nạn khủng bố sẽ còn
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
kéo dài và vô cùng nan giải, bởi kẻ thù của chúng ta cũng tựa một con quái vật
khổng lồ ẩn mình trong bóng tối, nó sẵn sàng tấn công con người bất cứ lúc nào
nhưng không bao giờ lộ mặt. Để có thể chiến thắng được, loài người phải xích lại
gần nhau hơn nữa và phải bắt đầu từ những việc tưởng rất xa xôi : giáo dục, hình
thành cho những thế hệ tương lai một tình yêu hoà bình bền vững. Có như vậy,
trái đất của chúng ta mới mãi mãi là một tổ ấm giữa dải thiên hà mênh mông lạnh
lẽo.
Thế giới sẽ tuyệt vời biết mấy nếu ngày mai sẽ không còn bạo lực, không còn
thù hằn và chết chóc ! Con người tàn hại lẫn nhau thực chất là đang tàn hại chính
mình ! Hãy góp một tiếng nói chung vào cuộc chiến chống khủng bố trên toàn thế
giới.
Đề số 3
Có rất nhiều bạn nhỏ bằng tuổi em nhưng phải rời nhà ra kiếm sống ở
các thành phố. Suy nghĩ của em về vấn đề này ?
Đáp án đề số3
DÀN BÀI
Mở bài :
Tình trạng nhiều thiếu niên phải sớm rời mái nhà của mình để đến những
thành phố kiếm sống đã trở thành tình trạng phổ biến.
Thân bài :

1. Số lượng trẻ em từ nông thôn đến thành thị kiếm sống hiện nay là rất nhiều.
Các em thuộc đủ mọi lứa tuổi, làm nhiều công việc khác nhau. Cuộc sống của các
em rất vất vả, khó nhọc.
2. Nguyên nhân khiến các em phải rơi vào tình trạng này thì rất nhiều nhưng
nhiều nhất vẫn là do cái nghèo. Cái nghèo làm nảy sinh nhiều cảnh ngộ, chịu thiệt
thòi nhiều nhất từ những cảnh ngộ đó là những đứa trẻ Bên cạnh đó còn do sự
thiếu quan tâm của người lớn
3. Tình trạng này sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khó lường, không chỉ đối với xã hội
mà đối với trước hết là bản thân các em. Sống xa gia đình, trong một môi trường
phức tạp, tuổi lại còn nhỏ, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không ít tới tâm hồn, nhận
thức của các em. Từ đó mà sẽ có tác động ngược lại của các em đối với môi
trường chung của xã hội.
4. Cần phải có những biện pháp, những giải pháp để giảm thiểu và dần dần xoá
bỏ tình trạng này. Đó cũng là cách để xã hội góp tay thực hiện vấn đề quyền trẻ
em một cách thiết thực nhất.
Kết bài:
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Tình trạng trẻ em lang thang kiếm sống ở thành phố là nỗi nhức nhối chung
của cả xã hội. Xã hội sẽ văn minh hơn, công bằng và tiến bộ hơn nếu ở đó mọi trẻ
em đều được hưởng những quyền mà các em có.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Trẻ em là tương lai của thế giới. Trẻ em sinh ra phải được chăm sóc, nuôi
dưỡng, được yêu thương, bảo vệ và học tập đầy đủ. Đó là quyền mà bất kì đứa trẻ
nào cũng được hưởng. Thế nhưng trong thực tế thì không phải như vậy. Có rất
nhiều bạn nhỏ khi lớn lên đã phải sớm rời bỏ mái nhà để tìm đến kiếm sống ở
những thành phố, những khu đô thị xa lạ. Hiện tượng này không còn là cá biệt
mà đã trở thành một tình trạng phổ biến, một vấn đề của cả xã hội.
Đặt chân đến bất kì thành phố, khu đô thị dù lớn, dù bé nào người ta cũng có
thể dễ dàng bắt gặp những đứa trẻ lang thang đến từ nhiều vùng quê khác nhau.
Đó là những cô bé, cậu bé tuổi còn rất nhỏ, tâm hồn còn rất ngây thơ, non nớt.

Các em đáng lẽ phải đang ở nhà và cắp sách đến trường như bao bạn nhỏ cùng
trang lứa khác, nhưng lại phải một thân một mình bươn chải kiếm sống. Các em
tìm đến thành phố với mục đích lớn nhất là kiếm tiền để nuôi sống bản thân và
giúp đỡ gia đình. Mỗi em tự tìm cho mình một công việc : em đánh giày, em bán
báo, em đi làm người giúp việc trong các gia đình, các quán ăn Bất cứ việc gì
làm được và có người cần các em đều có thể làm. Việc ít, người nhiều - nhiều khi
phải tranh cướp, giành giật mới kiếm được miếng ăn ít ỏi.
Một mình giữa nơi đông đúc, không có người thân thích bên cạnh, các em
phải tự lo cho mình mọi chuyện, từ ăn uống đến chỗ ngủ qua đêm rồi khi ốm đau
bệnh tật. Cuộc sống của các em rất bếp bênh và khổ cực, có biết bao nhiêu cay
đắng, rủi ro rình rập theo mỗi bước chân của những đứa trẻ này. Nhìn khuôn mặt
của các em, người ta thấy hiện rõ sự mệt mỏi, cái già dặn trước tuổi bên cạnh
chút hồn nhiên, non nớt của tuổi thơ còn sót lại. Đấy là điều khiến chúng ta, bạn
và tôi, những đứa trẻ may mắn đang được che chở dưới mái ấm gia đình và ngày
ngày cắp sách đến trường, không thể không suy nghĩ.
Đứa trẻ nào cũng muốn được yêu thương, được chăm sóc, được sống giữa
vòng tay gia đình và bạn bè. Thế nhưng, tại sao vẫn có nhiều bạn nhỏ phải tự
bước vào đời kiếm sống sớm đến vậy ? Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng này
vẫn là do cái nghèo. Nơi các bạn nhỏ này bước chân ra đi đều là những vùng
nông thôn xa xôi. Gia đình có mỗi một nghề làm ruộng, đất thì ít, anh chị em thì
đông, đến ngày mùa đầu tắt mặt tối mà vẫn không đủ ăn. Không có tiền đi học,
các bạn nhỏ ở nhà rồi rời nhà đi kiếm sống để bớt gánh nặng cho gia đình. Cũng
có khi là do cảnh cha mẹ không hoà hợp, suốt ngày cãi cọ, không để ý đến con
cái, các em cũng tự bỏ nhà lên phố rồi cha mẹ li thân, li dị, hay do mất cha, mất
mẹ khiến các em không còn chỗ dựa. Nói chung, có trăm nghìn lí do đẩy các bạn
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
nhỏ vào cảnh tha phương. Đằng sau tất cả những lí do đó vẫn phải khẳng định
một điều đó là sự thiếu quan tâm của người lớn. Nếu các bậc làm cha, làm mẹ
biết nghĩ cho các em nhiều hơn thì chắc chắn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ
cũng sẽ không để cho con em mình vào đời bươn chải vật lộn với miếng ăn khi

còn quá nhỏ dại như vậy. Sống trong cảnh thiếu thốn, cảnh không yên ổn của gia
đình đã là một thiệt thòi, giờ phải rời mái nhà đang che chở cho các em, một thân
một mình mưa nắng chốn xa lạ, đó là lời cảnh báo cho cả xã hội về vấn đề đảm
bảo những quyền lợi chính đáng cho tất cả mọi đứa trẻ.
Tình trạng trẻ em từ nông thôn ra thành phố kiếm sống đã và đang để lại rất
nhiều những hậu quả nghiêm trọng. Sống trong một môi trường đua chen phức
tạp, tiếp xúc với đồng tiền, với cơ chế thị trường quá sớm khiến nhận thức, nhân
cách, tâm hồn của các em phát triển một cách lệch lạc, không tự nhiên và thiếu
lành mạnh. Thật khó mà dám khẳng định là tất cả những đứa trẻ đó sẽ có một
tương lai bình thường và và tốt đẹp. Bị ép phải già trước tuổi, phải từ giã tuổi thơ
khi còn quá nhỏ, phải sống trong cô đơn ghẻ lạnh, không có một bàn tay vỗ về
chăm sóc, không có người chỉ đường dẫn lối ai dám đảm bảo rằng, tất cả những
em nhỏ đó sẽ đều trở thành những công dân lương thiện và có ích. Thực tế cho
thấy nhiều đứa trẻ trong số đó đã trở thành tội phạm trước khi trở thành một công
dân. Chúng móc túi, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, sa vào các tệ nạn xã hội và trở
thành gánh nặng của cộng đồng. Đa phần các em nhỏ khi mới rời nhà đi đều là
những đứa trẻ hiền lành, ngây thơ, chỉ sau một thời gian đã trở thành những đứa
trẻ hoàn toàn khác. Lối sống nơi đô thị đã làm mất đi ở các em bản tính trong
sáng, hồn nhiên, vô tư. Đó là những di chứng tinh thần rất có hại cho các em khi
đến tuổi trưởng thành.
Như vậy, tình trạng trẻ em rời nhà đến kiếm sống ở các thành phố sẽ tạo nên
những hậu quả khôn lường đối với chính những đứa trẻ và với toàn xã hội. Cần
phải làm gì để xoá bỏ tình trạng này để trẻ em tất cả mọi vùng miền đều được
hưởng những quyền chính đáng mà các em có. Đây là trách nhiệm không của
riêng ai. Sự quan tâm là điều đầu tiên cần phải có. Và trước hết phải là từ gia
đình, cha mẹ và những người thân của các em. Tạo dựng cho các em một mái ấm
bình yên, cho các em một môi trường trong lành để các em được lớn lên, được
trưởng thành một cách tự nhiên, lành mạnh là điều các bậc làm cha, làm mẹ phải
làm. Mỗi địa phương cũng cần có những biện pháp cụ thể để giúp những em nhỏ
có hoàn cảnh đặc biệt giải quyết những khó khăn vướng mắc. Ví như giúp các em

có việc làm ngay trên quê hương mình, hỗ trợ để các em có đủ điều kiện đến
trường và rộng hơn là cả xã hội. Dành cho các em một cái nhìn độ lượng, nhân ái,
một cử chỉ quan tâm dù là rất nhỏ bé, là mỗi người đã và đang góp phần đem đến
cho mỗi số phận tội nghiệp đó những giá trị rất lớn lao.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Nhà nước đã có nhiều hành động cụ thể để giải quyết vấn đề này. Như giao
cho các tỉnh, các địa phương đưa các em trở về, tạo công ăn việc làm, giúp các
em ổn định cuộc sống tại quê nhà, được học tập, vui chơi như mọi đứa trẻ khác.
Việc làm này bước đầu đã tạo nên những biến đổi rất tích cực, rất nhiều bạn nhỏ
đã yên tâm trở về, lao động và sinh hoạt trên quê hương mình, tìm thấy niềm vui
mới. Sự quan tâm của Nhà nước là rất kịp thời và thiết thực. Tuy nhiên, để chấm
dứt hẳn tình trạng này thì cần có thời gian và sự quan tâm hơn nữa của tất cả mọi
người trong cộng đồng.
Một xã hội không thể coi là văn minh, là công bằng và tiến bộ khi mà ở đâu
đó vẫn có nhiều đứa trẻ bị đẩy ra đường kiếm tiền thay cho việc đến trường đi
học. Cho các em một quá khứ êm đềm, một hiện tại bình yên hạnh phúc và một
tương lai được đảm bảo, đó cũng là cách để tạo dựng một thế giới tốt đẹp cho tất
cả mọi người.
Đề số 4
Một số người làm cha, làm mẹ thường xuyên đánh đập, chửi mắng con cái và
cho rằng : "thương cho roi cho vọt"
Hãy trình bày những suy nghĩ của em về hiện tượng này.
Đáp án đề số 4
DÀN BÀI
Mở bài :
Con cái muốn trưởng thành phải nhờ sự giáo dưỡng của cha mẹ. Các bậc làm
cha, làm mẹ có nhiều cách giáo dục con cái khác nhau, trong số đó có nhiều
người chọn cách mắng chửi, thậm chí đánh đập như là một biện pháp dạy dỗ tốt
nhất đối với con em mình.
Thân bài :

1. Rất nhiều đứa trẻ từ những năm tháng ấu thơ cho đến khi trưởng thành hiếm
khi, thậm chí chưa bao giờ được nghe một lời bảo ban, khuyên nhủ dịu dàng của
cha mẹ. Bất kì lúc nào, trong bất cứ chuyện gì, cha hoặc mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ
đều có một hình thức duy nhất đối với các em : quát tháo, mắng chửi bằng
những lời lẽ hết sức gay gắt, thô bạo ; hay nặng hơn là dùng roi vọt và đánh
đập. Biện pháp này được áp dụng trong tất cả mọi việc, mọi tình huống, chỉ
cần cha mẹ không cảm thấy hài lòng, thì dù là chuyện nhỏ như cái nhà chưa
được sạch, quần áo chưa được gọn gàng, đến những chuyện lớn hơn, như bị
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
điểm kém, đi học về muộn, bị cô giáo phê bình, đánh nhau, cãi lộn cha mẹ
đều ngay lập tức dạy dỗ con mình bằng cách này. Đối với họ, đấy là cách giáo
dục con cái tốt nhất, bởi vì làm như vậy các em sẽ sợ và không bao giờ dám
phạm lỗi nữa. Theo họ đó còn là cách để thể hiện tình yêu thương, bởi vì
"thương cho roi cho vọt"
2. Thực chất, cách giáo dục này không phải là một biện pháp tích cực và có hiệu
quả. Điều này đã được minh chứng bằng thực tế. Rất nhiều đứa trẻ bước ra khỏi
những năm tháng ấu thơ với nỗi ám ảnh không bao giờ mất về cách đối xử thô
bạo của cha mẹ đối với bản thân mình. Làm bất cứ việc gì cũng có thể bị chửi
mắng và khi lỡ phạm lỗi thì bị đánh đập thậm tệ. Cứ ròng rã liên tục như vậy,
cuối cùng những đứa trẻ không tiến bộ lên chút nào mà thậm chí là còn ngược
lại : từ ngoan thành hư, từ hiền thành dữ, từ thông minh lanh lợi hoá ra lì lợm,
chậm chạp Nhìn chung, có hai xu hướng phát triển cơ bản : hoặc là quậy phá
nghịch ngợm, hoặc là trở nên trầm cảm khó gần. Trước mặt cha mẹ, các em
dường như ngoan hơn, nhưng thực chất cái ngoan đó chỉ là đối phó. Thậm chí,
nhiều em đã có những phản ứng rất tiêu cực : bỏ nhà đi, hoặc tự vẫn. Tất cả
những biến đổi như vậy đều là biểu hiện của sự tổn thương trầm trọng về mặt tinh
thần. Đối với những đứa trẻ này, tuổi thơ tươi đẹp trở thành những năm tháng u
ám kinh hoàng ; tổ ấm gia đình có thể trở thành địa ngục trần gian và cha mẹ
trong mắt các em là những con người nào đó hết sức xa lạ và độc đoán. Các em
mất đi cảm giác được yêu thương, che chở, lúc nào cũng thon thót lo sợ và lâu

dần có thể trở nên trơ lì. Đó là điều rất nguy hiểm, bởi lẽ nó sẽ để lại một dấu ấn
trong nhân cách, tâm hồn của các em sau này.
Giáo dục con cái bằng cách này sẽ để lại những hậu quả lớn, không chỉ đối
với trước mắt mà còn là về lâu dài trong tương lai của các em, của xã hội.
3. Cha mẹ, ai cũng yêu thương con cái, ai cũng muốn những đứa con của mình
trưởng thành nên người. Thế nhưng, giáo dục con cái như thế nào để các em vừa
cảm nhận được tình yêu thương đó vừa có sự tiến bộ trong nhân cách là điều rất
quan trọng. Đứa trẻ nào cũng có thể dễ dàng mắc sai lầm. Và đằng sau mỗi sai
lầm đó bao giờ cũng có một nguyên nhân, một lí do. Cha mẹ muốn dạy dỗ các
em một cách có hiệu quả thì phải bắt đầu từ những nguyên nhân đó. Tìm hiểu
nguyên nhân, phân tích cặn kẽ phải trái, khuyên răn nhẹ nhàng nhưng cương
quyết, thêm một chút cảm thông độ lượng thiết nghĩ không có đứa trẻ nào mà
lại không nghe, không trở nên tiến bộ. Kiềm chế cơn nóng giận là điều quan
trọng khi giáo dục trẻ em. Nhiều đứa trẻ rơi vào cảm giác oan ức, rồi đâm ra oán
giận cha mẹ vì họ không bao giờ để ý đến nguyên nhân vì sao các em làm như
vậy mà ngay lập tức xỉ vả, thượng cẳng chân hạ cẳng tay cho hả cơn giận mà
thôi.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
"Thương cho roi cho vọt", điều đó không có nghĩa là bất cứ lúc nào cũng có
thể sử dụng bạo lực đối với trẻ em. Đến một mức độ nào đó, chính những người
làm cha, làm mẹ đã và đang xâm phạm đến quyền trẻ em ngay trong gia đình của
mình - điều mà cả xã hội đang quan tâm và bảo vệ.
Kết bài :
Cha mẹ luôn là hiện thân của tình yêu thương, của lòng nhân từ bao dung, là
nơi những đứa con tìm về sau những sai lầm vấp ngã. Đừng làm mất đi trong các
em tất cả những điều quí giá và thiêng liêng ấy.
Đề số 5
Nạn phá rừng đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ý kiến của em về vấn đề
này.
Đáp án đề số 5

DÀN BÀI
Mở bài :
Con người đã nỗ lực để tạo nên rất nhiều những giá trị có ý nghĩa để làm
giàu đẹp thêm cuộc sống của mình. Thế nhưng bên cạnh đó cũng chính con
người đang tự huỷ hoại đi rất nhiều những giá trị mà mà mình đang có. Nạn phá
rừng là minh chứng tiêu biểu nhất. Đã đến lúc tất cả chúng ta không thể dửng
dưng trước vấn đề này.
Thân bài :
1. Rừng được ví là lá phổi xanh của trái đất. Thế nhưng, lá phổi này đang ngày
càng nhỏ đi. Ở Việt Nam, hàng năm có hàng chục ngàn ha rừng bị phá huỷ.
Những cánh rừng xanh thẫm, những khu rừng nguyên sinh giàu có giờ chỉ còn là
vùng đất trống đồi trọc, phơi ra những gốc cổ thụ trơ trọi, những thảm thực vật
cằn cỗi. Những xe gỗ vẫn lặng lẽ đều đặn di chuyển về xuôi và những cánh rừng
cũng lặng lẽ biến mất, để lại những khoảng trống ngày càng lớn trên bề mặt trái
đất của chúng ta.
2. Rất dễ thấy nguyên nhân của vấn đề này. Người ta chặt rừng để lấy gỗ bán và
lấy đất canh tác. Rừng bảo vệ che chở cho con người nhưng đang bị tàn phá bởi
chính lòng tham và sự thiếu ý thức, thiếu nhận thức của con người.
3. Khi những cánh rừng bị tàn phá và biến mất, hậu quả không hiện ra cụ thể và
ngay lập tức. Nó sẽ đến rất từ từ, nhưng sẽ rất lâu dài và khủng khiếp.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Rừng trả lại cho trái đất một bầu không khí trong lành. Hiện nay, bầu không
khí đang bị ô nhiễm và vẩn đục bởi bộ máy thanh lọc nó đang trở nên yếu đi. Hạn
hán, lũ lụt, thiên tai ngày càng tăng cũng bởi một phần từ đó.
Rừng bị tàn phá dẫn đến hiệu ứng nhà kính và trái đất của chúng ta đang
ngày càng nóng lên, những khối băng khổng lồ ở hai địa cực có nguy cơ tan chảy.
Sự cân bằng sinh thái bị phá huỷ và con người sẽ sống như thế nào khi môi
trường tự nhiên không còn.
Như vậy, phá rừng để lấy gỗ và lấy đất, cái lợi là dành cho một vài người
nhưng cái hại là dành cho tất cả. Sự tồn tại của trái đất giữa vũ trụ đang bị đe doạ

bởi chính bàn tay con người.
4. Cần phải ngăn chặn ngay tình trạng này. Tất cả mọi người trong xã hội phải ý
thức sâu sắc về sự nguy hiểm và mức độ nghiêm trọng của nạn phá rừng hiện
nay, từ đó có chung một thái độ cương quyết trong việc bảo vệ rừng. Làm ngơ,
tiếp tay cho bọn buôn gỗ lậu cũng chính là đang khuyến khích cho nạn phá rừng
ngày càng phát triển. Nhưng cũng cần có thêm nhiều biện pháp cứng rắn và chặt
chẽ hơn trong vấn đề này, cần kiên quyết xử lí những kẻ trực tiếp và gián tiếp phá
rừng, giúp dân từ bỏ thói quen canh tác lạc hậu. Đồng thời, việc trồng rừng để bổ
sung diện tích rừng bị phá, phủ xanh đất trống đồi trọc, nhân thêm nhiều cánh
rừng mới là một việc làm rất hiệu quả và là việc phải làm của con người.
Kết bài :
Hãy thử tưởng tượng, đến một ngày nào đó, trên trái đất sẽ không còn một
cánh rừng nào, con người sẽ phơi mình ra dưới mặt trời nóng bỏng và cuồng
phong của vũ trụ. Và liệu sau đó trong tương lai, trái đất có còn là hành tinh của
sự sống nữa hay không ? Bảo vệ những cánh rừng chính là bảo vệ bản thân cuộc
sống của mỗi chúng ta.
Đề số 6
1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
2. Phân tích đoạn thơ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
Đáp án đề số 6
1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Bài làm
Đồng chí ! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy
đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình

cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà
thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy
tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người
chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những
người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê
nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng
trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật
xúc động :
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "nước mặn đồng
chua", "đất cày lên sỏi đá". Từ "xa lạ" gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không
nói hai người xa lạ mà là "đôi người xa lạ", vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở
rộng thêm. "Hai người" cụ thể quá. Đôi người là từng "đôi" một - nhiều người.
Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn
quen nhau nói lên một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham
gia kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng
gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau,
thương nhau và gọi nhau là "đồng chí".
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí"
Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ
nhàng, thủ thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra
làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm
nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động
lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí - một tiếng nói thiêng liêng. Đồng

chí một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành
đồng chí.
Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề
bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "Ruộng nương anh
gửi bạn thân cày", "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay" cả chuyện "Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính" Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng : Các
anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các
anh lại cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả
họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các
anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn
lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh
rách vai, quần tôi có vài mảnh vá dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi.
Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách
nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải,
không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình
đồng chí là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả
những ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những
người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời
có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời "Đầu súng
trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện
thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu
vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng
cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn
cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ,

thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng
chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao,
Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng
trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực
của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, không phô trương,
không lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đó tạo nên sự thành công
của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác
và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.
2. Phân tích đoạn thơ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật)
Bài làm
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam
thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca"
bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt
mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là "Vết xe
lăn" nóng bỏng trong những bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ.
Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe Trường Sơn
của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình
tượng thơ hết sức độc đáo : những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất
chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý
tưởng thật bất ngờ - đó là "trái tim cầm lái":
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo :
"Không có kính không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung
kính vỡ đi rồi". Thật là đơn giản ! Chiến tranh bom đạn tàn phá. Xe không kính
chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần
nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Đã không kính - gió, bụi, mưa tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn
khi xe lại không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xước. Một hình ảnh trần
trụi do chiến tranh gây nên. Người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực
để lái xe trong mạo hiểm, phiêu lưu. Tất cả đều vượt qua bởi :
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng
mà cả bài thơ vui nhộn chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : Xẻ
dọc Trường sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Cả
nước lên đường đánh Mĩ vì Miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những
người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không
mui xe Trái tim rực lửa căm thù giặc Mĩ và nóng bỏng yêu thương đồng bào
miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mĩ, là
trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .
Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật
đã thể hiện thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm
tháng đánh Mĩ hi sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng thơ Phạm Tiến Duật và những "Vết xe trên
dãy Trường Sơn" sẽ còn nóng bỏng trong tâm hồn của những người Việt Nam
yêu nước. Những chiếc xe độc đáo ấy của một thời đã góp phần làm nên huyền

tích Trường Sơn.
Đề số 7
1. Vẻ đẹp của người lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
2. Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo
luận đề: Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới.
Đáp án Đề số 7
1. Vẻ đẹp của người lính trong khổ thơ cuối bài Đồng chí (Chính Hữu)

Bài làm
Là người lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính
Hữu chủ yếu viết về người lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí được sáng tác
năm 1948, là bài thơ thành công nhất của ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng
đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân dân trong thời kì
kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả
giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê - những
vùng quê nghèo khó - song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu
đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau
Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : Áo anh rách vai, quần tôi có
vài mảnh vá Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay
những cơn sốt rét rừng hành hạ Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó để
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa
thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là
biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba
hình ảnh gắn kết với nhau : Người lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng

hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt
lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
chí đã sưởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó
vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng
Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh,
bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong
sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt,
suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng
trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người
bạn" Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ
giặc tới.
Ngoài tả thực, hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng.
Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa
vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ.
Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình
đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ
thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý
nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh
bộ đội Cụ Hồ.
Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa
khắc họa chân thực mà sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến
chống Pháp.
Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của
những người lính. Đó là sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại,
mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết như
một lời nhắn nhủ với mọi người : Hãy biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm
đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính
2. Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoạn văn
theo luận đề "Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới".

Bài làm
Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tượng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng
đội gắn với giai cấp của người lính. Cả bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình
cảm của người lính. Vẻ đẹp của bài thơ Đồng chí là vẻ đẹp đời sống tâm hồn
người lính, nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là tình đồng chí đồng đội :
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chỉ cần thương nhau tay nắm lấy bàn tay là
đủ hơi ấm để chống chọi với cái rét run người nơi đại ngàn. Những đêm rừng
hoang sương muối Trong cái cầm tay nhau ấy, hình ảnh đất nước và tinh thần
đoàn kết giai cấp được diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết phục. Chính tình
cảm cao đẹp và lí tưởng sáng ngời "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" đó mà
những người lính được nâng lên tầm cao khái quát trong đó có sự hài hòa giữa
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Đầu súng trăng treo mang ý nghĩa sâu sắc cho
tinh thần thời đại.
Đề số 8
.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành
trang mang theo con đường ra trận là trái tim yêu nước. Ý kiến của em ?
Đáp án Đề số 8
.
Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho
thấy hành trang mang theo con đường ra trận là trái tim yêu nước. Hãy
phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Bài làm
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả
cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc
Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng
với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi
phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến

trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự
nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu
đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.
Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đường ra trận. Hành trình đó có
những lúc dãi dầu nắng mưa, có những ngày vượt suối băng đèo và có tiếng reo
cười trong tình thân chan hòa đồng đội, trong một mái ấm gia đình giữa đất trời
bao la. Kết cấu đó trước hết thể hiện qua số lượng chữ trong câu :
Mở đầu chặng đường hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ
đầu dài ra 10 chữ và kết thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh
bình thường của thơ vần nhịp. Nó là điệu nói :
Không có kính không phải vì xe không có kính
BA câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái
đỉnh đạc với số lượng chữ rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8- 6- 6, bằng-
bằng - trắc.
Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính
sự thắng thế của thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc
dù kết thúc của nó lại là thanh trắc. Chính thanh trắc này lại mở đường cho xe đi
tới : Nhìn thẳng.
Năm khổ thơ tiếp theo, số lượng câu chữ trở lại bình thường, hoán đổi đều
đặn ở hai kiểu kết hợp : 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7 . Đường ra trận đẹp lắm, nên xe
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
không kính cứ chạy bon bon, người lái xe đã nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy
gió xoa mắt đắng, thấy con đường chạy thẳng vào tim. Quan trọng nhất, thấy
được nụ cười rạng rỡ của nhau. Ấy cũng chính là thấy được lòng dũng cảm tiềm
ẩn đằng sau những câu đùa vui và hành động tếu táo :
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lượng chữ trong
câu thơ : 8- 8- 8- 8. Bốn câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn
chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thường bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của

bài thơ mở rộng bằng thanh bằng :
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn
thử thách ở phía trên kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không
kính, dù đường ra mặt trận có khi đồng nghĩa với cái chết thì người lính lái xe ra
trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an toàn bởi vì có một trái tim. Đó là trái tim
biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hòa bình. Hành trang ra trận cần
biết bao một trái tim như thế.
Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt
Nam : Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý
sâu xa nào khiến người đọc phải suy luận, nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là
thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng ngôn ngữ thô mộc của đời sống thường nhật,
không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, hình ảnh thơ thể hiện đạt tới độ
chân thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động
sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ yếu tố cách tân và hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản
sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về anh bộ
đội trong hai cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX
Đề số 9
.
Hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ
về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Đáp án Đề số 9
Hình ảnh người lính qua hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về
tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
Bài làm
Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
(Tố Hữu)
Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích

hào hùng : đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung
tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó là anh bộ đội Cụ Hồ.
Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại.
Trong số những bài thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu
và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai
giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm nhận đầy đủ
hơn về hình ảnh người lính.
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ
đô. Đầu năm 1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm
Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến
đường Trường sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969.
Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh của
dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập tới là hai trong những tác phẩm tiêu
biểu của mỗi thời kì văn học. Hay sự thể hiện hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ.
Người lính trong hai bài thơ này là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt Nam
1945 - 1975 sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là, người lính cách mạng trong
kháng chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô
tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác với khuynh hướng lãng mạn anh hùng
mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của
Chính Hữu trong Đồng chí hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và
chất thơ trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong
khó khăn, thiếu thốn và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết,
sâu nặng :
Quê hương anh nước mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí !
Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ :
Đồng chí. Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự
giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo khó, là cùng chung mục đích, lí
tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ ) Một chữ chung khiến những người vốn xa lạ thành
đôi tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí.
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ
đội Cụ Hồ một tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình cảm
này không phải chỉ vì sự cảm thông sâu xa tâm tư, nỗi lòng của nhau mà là cái
chung lớn lao. Là những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời chiến đấu. Tất cả diễn
đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở thành
sáo rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính,
người đồng đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tương ứng
để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời : "Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay". Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Chính Hữu :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX
truyền lại. Tình của những dân ấp, dân lân, "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc
cấy tay vốn quen làm - Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó"
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu). Những con người ấy vốn dĩ
không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng
cuộc chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng
mạn. Bức tượng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí :

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đó là cuộc đời thực của những người lính nông dân nghèo khổ nơi : nước mặn
đồng chua, đất cày lên sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày
được tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành dáng hình mới.
Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu
kháng Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hóa thân
khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua 20 năm dưới mái trường Miền Bắc
đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Người chiến sĩ trong
Bài thơ về tiểu đội xe không kính không mang đặc điểm như đã nói ở trên tuy vẫn
cùng bốn phương hội tụ, với tất cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những
người chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong bom đạn : đã về đây họp thành
tiểu đội : Không có kính rồi xe không có đèn, không có mui xe Bởi vì : Bom
giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nên phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, mưa xối xả
song :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là
ta, chúng ta. Tất cả đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm.
Không có kính không phải vì xe không có kính / bom giật bom rung kính vỡ đi
rồi. Nhưng : Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng /Bụi
phun tóc trắng cười ha ha / Mưa tuôn mau thôi / Gặp bè bạn kính vỡ rồi /
Họ không cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ từ trong
bom rơi họp thành tiểu đội. Nếu hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đồng chí là
một bức tượng đài : Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo thì
người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một tổ hợp của những khuôn mặt trai trẻ,
hồn nhiên. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong các tiêu điểm của hình tượng người lính -

Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu gian khổ đến ngày
toàn thắng 1975.
Đề số 10
1. Không khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ Đoàn
thuyền đánh cá của Huy Cận.
2. Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá.
a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội
biển. Bình luận tính chính xác của hai từ xuống và đội.
b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì ?
Đáp án Đề số 10
1.Không khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
2. Chép lại theo trí nhớ bốn câu thơ đầu và bốn câu thơ kết bài thơ Đoàn
thuyền đánh cá (Huy Cận)
a) Phân tích ý nghĩa của hình ảnh Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội biển.
Bình luận tính chính xác của hai từ xuống và đội.
b) Theo em ở hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm
trạng gì ?
Bài làm
1. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được
sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả.
Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu
lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên
nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn
trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH.
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh :
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ
mệt mỏi. Thế nhưng với con người làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu mặt

trời xuống biển mở ra một sự bắt đầu với Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Đánh
cá trên biển là công việc nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà những người đánh
cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái, tràn trề niềm vui, phấn chấn :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Tiếng hát được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp khúc và nó trở thành âm
thanh chủ đạo trong bài thơ :
- Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về
biển cả. Hình ảnh đàn cá lóng lánh màu sắc như một bức tranh sơn mài.
Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh người lao động xuất hiện với
tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh thật
khỏe khoắn, rắn chắc :
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những người
lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời
nước bao la :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Trên cái không gian bát ngát ấy của trăng, gió, trời, biển, hình ảnh con người
mới hiện lên với chiều kích của không gian, đó chính là niềm vui hăng say lao
động, làm giàu cho Tổ quốc bằng sức lực, trí tuệ của mình.
Công việc nặng nhọc của người lao động đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm
vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên :
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Tiếng hát làm cho họ đỡ mệt nhọc. Còn trăng làm công việc đỡ vất vả hơn, vì

ánh trăng in mặt nước, sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dưới nước như gõ vào mạn
thuyền. Cái hiện thực đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công
việc đánh cá của người lao động. Như vậy con người lao động đã chinh phục
được tự nhiên. Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền quay trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Cuối câu thơ là một hình ảnh tô đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả
của người lao động. Sau một đêm làm việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trương nay họ
đã về bến với hình ảnh mắt cá huy hoàng cá phơi dài muôn dặm.
Đoàn thuyền đánh cá là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con người
mới, của cuộc sống mới những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ đã
nói về lòng yêu nghề, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu sự nghiệp xây dựng đất nước
của những người lao động. Bút pháp lãng mạn, cảm hứng không gian bất tận,
Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách mạng
Tháng Tám.
2/
Khổ thơ đầu :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Khổ thơ kết :
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
a) Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, lấy cảm hứng từ cuộc

sống lao động đánh cá trên biển Hòn Gai vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX.
Trong bài thơ này tác giả sử dụng rất nhiều hình ảnh đẹp, kì vĩ của thiên nhiên,
vũ trụ, đặc biệt là hình ảnh "mặt trời xuống biển" và "mặt trời đội biển" ở khổ thơ
đầu và khổ thơ kết. Đây là hai hình ảnh nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên
thành công của bài thơ.
"Mặt trời xuống biển" và "Mặt trời đội biển" là hai không gian, thời gian
gắn liền với hoạt động của đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền xuất phát khi biển
vào đêm, lúc vũ trụ nghỉ ngơi là lúc con người hoạt động. Đoàn thuyền trở về khi
một ngày mới xuất hiện trên biển, con người lao động thật hăng say, nâng lên tầm
vóc vũ trụ.
Từ "xuống" rất chính xác, diễn tả cảnh mặt trời lặn, nhưng là xuống biển,
tức là đoàn thuyền xuất phát từ đảo xa bờ, không có bóng dáng đất liền, chỉ có
bốn bề là biển mênh mông. Còn từ "đội" ở phần kết cũng rất chính xác vì diễn tả
cảnh bình minh trên biển, mặt trời như được mọc lên từ biển, xuyên qua biển, tạo
nên bình minh rực rỡ. Hai hình ảnh này có ý nghĩa diễn tả đoàn thuyền lênh đênh
trên biển, như thách thức biển khơi.
b) Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lãng mạn, hăng say lao động trên
biển. Cái tôi trữ tình của nhà thơ hòa vào cái ta chung để diễn tả tâm trạng của
Tuyển tập 50 đề tự luận ngữ văn lớp 9 (có hướng dẫn làm bài chi tiết)
những con người lao động mới xây dựng miền Bắc XHCN. Đó là cái chất hào
hùng không còn phải cúi mình trước biển khơi. Bài thơ đem đến một cảm hứng
lạc quan, khắc tạc tư thế chiến thắng của con người. Họ ra khơi giữa trời đêm, trở
về khi trời sáng. Họ là những con người chinh phục thiên nhiên.
Đề số 11
1. Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài Đoàn thuyền
đánh cá của Huy Cận để viết một bài văn có tên đề :
Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn
2. Viết lời bình cho khổ thơ sau đây :
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
Đáp án Đề số 11
1. Hãy chọn một số câu thơ trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận để
viết một bài văn có tên đề : Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn.
Bài làm
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao
động mới hăng say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của
bức tranh thơ này là màu sáng lóng lánh. Để rồi, khi đọc thi phẩm ta cảm tưởng
lạc vào đêm hoa đăng chiến thắng trên biển - Hào hùng, tráng lệ và lãng mạn.
Như bao bài thơ khác, thiên nhiên xuất hiện trong Đoàn thuyền đánh cá
thật quen thuộc : mặt trời, trăng, sao, gió, mây Tuy nhiên, bằng cái nhìn của
một con người mới XHCN, đi giữa miền Bắc hòa bình với ngòi bút miêu tả theo
phong cách ấn tượng đầy tài năng của Huy Cận, thiên nhiên đã trở nên chân thực,
sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh tế. Bên cạnh hình ảnh thiên
nhiên ấy, con người hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc sống và tinh thần
hăng hái lao động. Đặt mình vào tư cách con người lao động trên biển khơi mênh
mông, Huy Cận đã lắng nghe được sự hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con
người.
Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn
thuyền đánh cá gắn với hình ảnh mặt trời tráng lệ : "Mặt trời xuống biển như hòn
lửa" - "Mặt trời đội biển nhô màu mới". Trong câu thơ đầu tác giả sử dụng hình
ảnh ví von vô cùng biểu cảm, giàu sức gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời xuống biển

×