Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Đánh giá một số mô hình chăn nuôi trâu, bò tại xã La Hiên và xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 98 trang )




ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN


TRƢỜNG
ĐẠI HỌC

PHẠM










NGUYỄN THỊ HẢO











ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH CHĂN NUÔI TRÂU, BÒ
TẠI XÃ LA HIÊN VÀ XÃ TRÀNG XÁ, HUYỆN VÕ NHAI,
TỈNH THÁI NGUYÊN











LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



















Thái Nguyên - năm
2010




ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN


TRƢỜNG
ĐẠI HỌC

PHẠM








NGUYỄN THỊ HẢO









ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH CHĂN NUÔI TRÂU, BÒ
TẠI XÃ LA HIÊN VÀ XÃ TRÀNG XÁ, HUYỆN VÕ NHAI,
TỈNH THÁI NGUYÊN





Chuyên ngành: Sinh thái
học


Mã số: 60 - 42 -
60





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC









NGƢỜI HƢỚNG
DẪN KHOA HỌC: PGS-TS. HOÀNG
CHUNG











Thái Nguyên - năm
2010







LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới PGS.TS Hoàng

Chung - Người thầy đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban lãnh đạo trường Đại học sư phạm Thái Nguyên,
ban chủ nhiệm khoa Sinh – KTNN, các thầy cô giáo, các cán bộ, nhân viên
trong khoa và các cán bộ, nhân viên của Viện Khoa học sự sống - Trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các vị lãnh đạo và cán bộ của Ủy
ban nhân dân hai xã La Hiên và Tràng Xá, Uỷ ban nhân dân huyện Võ Nhai –
Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, khích lệ, động viên, tạo điều kiện
của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Thái Nguyên, tháng 10 năm
2010


Tác
giả







Nguyễn Thị Hảo








LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố
trong bất kỳ một công trình khác nào.


Tác
giả







Nguyễn Thị Hảo






DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT




DS : Dạng sống

ĐVAT : Đơn vị thức ăn

NC : Nghiên cứu

TS : Tổng số

TT : Thứ tự

UBND : Uỷ ban nhân dân

VCK : Vật chất khô




MỤC LỤC



Trang


MỞ
ĐẦU


1


Ch
ƣ
ơng
1: TỔNG QUAN TÀI
LIỆU


3

1.1. Tình hình chăn nuôi trâu bò trên thế giới và ở Việt Nam 3

1.1.1. Tình hình chăn nuôi trâu bò trên thế giới

3

1.1.2. Tình hình chăn nuôi trâu bò ở nước ta

6

1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam 8

1.2.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 9

1.2.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt
Nam
12

1.3. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên


14

1.3.1. Nghiên cứu về thành phần
loài
14

1.3.2. Nghiên cứu về năng
suất


15

1.3.3. Nghiên cứu về chất lượng cỏ

16

1.4. Vấn đề sử dụng và thoái hóa đồng cỏ

18

1.5. Các loại thức ăn và đặc điểm thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây

trồng làm thức ăn cho bò

20

1.5.1. Các loại thức
ăn
20


1.5.2. Đặc điểm, thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây trồng làm thức
ăn
21

Ch
ƣ
ơng
2: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU
25

2.1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội huyện Võ
Nhai


25

2.1.1. Đặc điểm tự
nhiên
25

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã
hội


29

2.2. Đặc điểm tự nhiên - xã hội xã La Hiên

30


2.2.1. Đặc điểm tự
nhiên
30

2.2.2. Đặc điểm xã
hội


31

2.3. Đặc điểm tự nhiên - xã hội xã Tràng Xá

32




2.3.1. Đặc điểm tự
nhiên
32

2.3.2. Đặc điểm xã
hội


33

Ch
ƣ

ơng
3: ĐỐI
T
Ƣ
ỢNG,
NỘI DUNG VÀ
PH
Ƣ
ƠNG
PHÁP NGHIÊN
CỨU
35

3.1. Đối tượng, địa điểm và nội dung nghiên cứu 35

3.2. Phương pháp nghiên cứu

35

3.2.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 35

3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm
38

Ch
ƣ
ơng
4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 48


4.1. Thực trạng nguồn thức ăn gia súc tại các xã của huyện Võ Nhai 48

4.1.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất tại các xã của huyện Võ Nhai 48

4.1.2. Các thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên
cứu
52

4.1.3. Các thảm cỏ trồng trong vùng nghiên
cứu
75

4.2. Thực trạng về khai thác thức ăn gia súc hiện nay tại huyện Võ Nhai 79

4.2.1. Thực trạng về khai
thác
79

4.2.2. Đánh giá chung và đề xuất phương
hướng
81

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

83

TÀI LI ỆU THAM
KHẢO

84


PHỤ
LỤC

88




DANH MỤC BẢNG BIỂU


Trang


Bảng 1.1: Số lượng và phân bố đàn trâu trên thế giới 3

Bảng 1.2: Số lượng và phân bố đàn bò trên thế giới 4

Bảng 1.3: Lượng thịt bò sản xuất trên thế
giới
4

Bảng 1.4: Lượng sữa sản xuất trên thế giới 5

Bảng 1.5: Số lượng đàn trâu bò của cả nước trong những năm qua 6

Bảng 1.6: Số lượng bò sữa và sản lượng sữa ở Việt Nam kể từ năm
1990
7


Bảng 1.7: Số lượng trâu bò cày kéo của cả nước trong những năm
qua
8

Bảng 1.8: Sản lượng vật chất khô và chất lượng những loài cỏ trên vùng

đất thấp vào 45 ngày cắt 11

Bảng 1.9: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày 11

Bảng 1.10: Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ 18

Bảng 2.1: Khí tượng thuỷ văn huyện Võ Nhai - Thái
Nguyên
26

Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã La Hiên tính đến ngày 1/1/2010 48

Bảng 4.2: Thực trạng sử dụng đất xã Tràng Xá tính đến ngày 1/1/2010 50

Bảng 4.3: Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu 52

Bảng 4.4: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự nhiên tại

các điểm nghiên
cứu
64

Bảng 4.5: Sinh khối của thảm cỏ tại xã La Hiên

(g/m
2
)
71

Bảng 4.6: Sinh khối của thảm cỏ tại xóm Khuôn Ruộng, xã Tràng Xá (g/m
2
) 71

Bảng 4.7: Sinh khối của đồi cỏ tại xóm Khuôn Ruộng, xã Tràng Xá
(g/m
2
)
72

Bảng 4.8: Thành phần hóa học của một số loài cỏ chính 73

Bảng 4.9: Kết quả phân tích mẫu đất tại các bãi chăn thả 75

Bảng 4.10: Năng suất cỏ trồng tại các điểm nghiên cứu 76

Bảng 4.11: Kết quả phân tích mẫu đất tại khu vực trồng
cỏ
77

Bảng 4.12: Thành phần hóa học của cỏ Voi tại các điểm nghiên cứu 78










1. Lý do chọn đề tài

MỞ ĐẦU

Việt Nam là một nước nông nghiệp trong đó chăn nuôi gia súc ăn cỏ
như trâu, bò, dê, cừu, thỏ là nghề truyền thống lâu đời của nông dân nước ta.
Tuy nhiên, chăn nuôi gia súc của nước ta vẫn còn phát triển chậm. Muốn phát
triển chăn nuôi gia súc thì thức ăn là vấn đề rất quan trọng, quyết định sự
thành bại của ngành chăn nuôi ở các địa phương. Thức ăn thô xanh là nguồn
dinh dưỡng chủ yếu cho gia súc ăn cỏ, nhưng hiện nay nguồn thức ăn cơ bản
vẫn là tận dụng cỏ tự nhiên và phụ phẩm trong nông nghiệp. Đồng cỏ thâm
canh còn rất nhỏ bé. Muốn phát triển chăn nuôi gia súc bắt buộc phải phát
triển mạnh đồng cỏ. Vấn đề này còn chưa được chú ý nhiều trong tiềm thức
của người chăn nuôi.
Đồng cỏ Việt Nam chủ yếu là loại hình thứ sinh do sự tàn phá của các
loại rừng sinh ra. Tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và
gia súc mà nó biểu hiện ở các trạng thái khác nhau. Xu thế chung là ngày
càng bị thoái hóa về mọi mặt, một số bãi chăn thả trở thành đất trống, đồi
trọc không còn khả năng khai thác làm ảnh hưởng lớn đến việc tăng trưởng
số lượng và chất lượng đàn gia súc, cũng như sự phát triển của ngành chăn
nuôi nói chung. Đồng cỏ trồng của ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là
trồng xen, tận dụng đất dư thừa, hiệu quả đem lại chưa cao, chưa thành phổ
biến đại trà.
Võ Nhai là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, có địa hình khá
phức tạp, đồi núi là chủ yếu, đất ruộng ít, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu trong

đó có chăn nuôi gia súc nhưng thu nhập từ chăn nuôi còn rất thấp. Vì vậy, công
tác nghiên cứu về thực trạng, hình thức và mức độ sử dụng các thảm cỏ nhằm
phục vụ cho chăn nuôi là hết sức cần thiết. Để góp phần làm sáng tỏ thực trạng
hiện nay về việc khai thác, sử dụng các thảm cỏ tự nhiên và cỏ trồng tại địa





phương, hiệu quả kinh tế của các mô hình chăn nuôi hiện có, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá một số mô hình chăn nuôi trâu, bò tại xã
La Hiên và xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Điều tra về khí hậu, đất đai, thuỷ văn, thực trạng các thảm thực vật tự
nhiên và cây trồng phục vụ cho chăn nuôi. Từ đó đánh giá thực trạng và khả
năng đáp ứng thức ăn cho gia súc của địa phương.
- Đánh giá một số mô hình khai thác thức ăn, sơ bộ cho biết hiệu quả
kinh tế của từng mô hình đó. Đề xuất mô hình sử dụng hợp lý (trồng cây cỏ
loại nào) và phương hướng phát triển cho địa phương.
3. Đóng góp mới của đề tài

- Xác định được thực trạng, tình hình và mức độ sử dụng các thảm cỏ

phục vụ cho chăn nuôi trong một số vùng sinh thái hiện nay.

- Xác định được hiệu quả của một số mô hình chăn nuôi.

- Đề xuất khả năng phát triển chăn nuôi tại vùng nghiên cứu và mô hình
sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, đạt hiệu quả kinh tế cao.






Chƣơng
1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Tình hình chăn nuôi trâu bò trên thế giới và ở Việt Nam

1.1.1. Tình hình chăn nuôi trâu bò trên thế giới

Trâu bò được thuần hóa cách đây khoảng 8 - 10 ngàn năm và từ đó
đến nay ngành chăn nuôi trâu bò đã không ngừng phát triển và được phân bố
khắp thế giới. Chăn nuôi trâu bò là cách đơn giản để người dân địa phương
khai thác đất đai nhằm sản xuất thịt, sữa, sức kéo, phân bón và một số sản
phẩm khác.
Bảng 1.1: Số
lƣợng
và phân bố đàn trâu trên thế
giới


(Đơn vị: nghìn
con)



Năm

1965
1975
1985
1995
2000
2005
Châu Phi
1 617
2 204
2 429
2 800
3 200
3 920
Châu Á
91 925
109 855
132 492
145 769
162 728
168 594
Châu Âu
464

440
177
144
240
306

Bắc và Trung Mỹ
5

7

8

5

6

6

Nam Mỹ
82

267
882
1 651
1 150
1 095
Châu Đại Dương
0,5

0,4

0,2

0,2


0,1

0,1

Toàn thế giới
94 458
113 200
136 339
150 633
164 968
173 921
(Nguồn: FAO Statistic - 2006)

Ta thấy trâu chủ yếu tập trung ở các nước nhiệt đới châu Á với số lượng
không ngừng tăng. Sau đó là ở châu Phi và ít nhất là ở châu Đại Dương.
Trong khi đó đàn bò có xu hướng ổn định về số lượng đầu con và phân
bố khá đều ở khắp thế giới. Bảng 1.2 cho thấy số lượng và phân bố đàn bò
trên thế giới.





Bảng 1.2: Số
lƣợng
và phân bố đàn bò trên thế giới

(Đơn vị: triệu
con)



Năm

1965
1975
1985
1995
2000
2005
Châu Phi
133,8
155,7
175,4
192,7
201,2
241,7
Châu Á
328,7
343,9
374,2
424,2
444,1
455,4
Châu Âu
116,9
133,9
132,8
107,4
105,9
131,2

Bắc và Trung Mỹ
157,9
190,0
173,9
165,7
160,19
163,9
Nam Mỹ
158,0
211,9
250,6
294,5
297,8
342,0
Châu Đại Dương
26,0
42,7
31,3
35,8
37,3
27,7
Toàn thế giới
1 008,4
1 187,1
1 259,2
1 311,5
1 319,6
1 372,3
(Nguồn: FAO Statistic -
2005)



Ngành chăn nuôi bò thịt chuyên dụng đã phát triển trên thế giới từ đầu
thế kỉ XVIII. Bảng 1.3 cho thấy lượng thịt bò sản xuất trên thế giới trong mấy
thập kỷ gần đây.
Bảng 1.3:
L
ƣ
ợng
thịt bò sản xuất trên thế
giới


(Đơn vị: triệu
tấn)


Năm

1965
1975
1985
1995
2000
2003
Châu Phi
2,2

2,6


3,4

3,6

4,3

4,8

Châu Á
3,1

4,2

5,8

10,6
12,8
14,3
Châu Âu
7,0

10,2
11,1
9,5

8,8

8,7

Bắc và Trung Mỹ

10,7
13,5
13,5
14,5
15,5
15,1
Nam Mỹ
4,8

6,2

8,2

10,6
11,8
12,8
Châu Đại Dương
1,3

2,1

1,8

2,4

2,6

2,8

Toàn thế giới

33,0
45,2
51,3
57,0
59,8
62,1
(Nguồn: FAO Statistics - 2004)

Hiện nay ở các nước phát triển chăn nuôi bò thịt chủ yếu dựa vào các
hệ thống thâm canh nuôi bò non (6 đến 30 tháng tuổi) và vỗ béo bằng các





khẩu phần cao năng lượng. Trong khi đó, chăn nuôi bò thịt ở các nước đang
phát triển, trừ Achentina, Brazil và Mehico, chủ yếu là các hệ thống chăn nuôi
quảng canh.
Phương thức chăn nuôi bò sữa thay đổi tùy theo điều kiện và tập quán
của từng nước. Các nước châu Âu và Bắc Mỹ có ngành chăn nuôi bò sữa theo
hướng chuyên dụng. Hệ thống chủ yếu là bãi chăn - chuồng nuôi với việc sử
dụng rộng rãi đồng cỏ lâu năm, mùa hè chủ yếu dựa vào chăn thả trên đồng
cỏ, còn mùa đông dùng nhiều thức ăn tại chuồng (cỏ ủ xanh, cỏ khô, thức ăn
tinh). Các nước phát triển ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Đại Dương sản xuất tới
68% sản lượng sữa của thế giới với năng suất sữa bình quân cao hơn nhiều so
với các nước đang phát triển. Phần lớn ngành chăn nuôi bò sữa ở các nước
đang phát triển thuộc về các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ. Số trang trại nuôi bò
sữa ở các nước phát triển có xu hướng giảm xuống, trong khi đó số hộ chăn
nuôi bò sữa ở các nước đang phát triển có xu hướng ổn định.


Bảng 1.4:
L
ƣ
ợng
sữa sản xuất trên thế giới

(Đơn vị: triệu
tấn)


Năm

1965
1975
1985
1995
2000
2003
Châu Phi
11,5
14,1
18,5
22,2
27,2
28,7
Châu Á
45,0
58,1
89,1
128,5

159,2
172,4
Châu Âu
136,5
156,7
181,7
159,9
161,9
160,7
Bắc và Trung Mỹ
69,2
69,4
832
90,0
97,4
99,3
Nam Mỹ
16,8
22,6
27,4
40,4
44,9
46,5
Châu Đại Dương
13,0
12,9
14,2
17,8
23,5
25,1

Toàn thế giới
364,6
424,6
512,7
536,9
579,1
600,9
(Nguồn: FAO Statistics - 2004)

Về chăn nuôi trâu bò cày kéo ước tính có tới 2 tỷ người trên thế giới
đang phụ thuộc vào sức kéo của gia súc để làm đất, vận chuyển hàng hóa và





các lao tác khác. Trâu bò lao tác không chỉ là phương tiện sống cho hàng
triệ
u
gia đình mà còn đóng góp vào các hệ thống sản xuất được chấp nhận cả về
mặt xã hội trên thế giới . Theo ước tính hiện có khoảng 250 triệu gia súc lao
tác thuộc các loài khác nhau, trong đó chủ yếu là trâu bò. Trâu bò ở rất nhiều
nơi trên thế giới được dùng kiêm dụng kết hợp cày kéo với sinh sản, khai thác
thịt hay sữa.
1.1.2. Tình hình chăn nuôi trâu bò ở nước ta

Về truyền thống chăn nuôi trâu bò thịt ở nước ta thực chất là chăn nuôi
bò địa phương kết hợp lấy thịt với khai thác sức kéo phân bón phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Ngày nay, trong khi đàn trâu bò cày kéo có xu hướng giảm
thì chăn nuôi trâu bò theo hướng lấy thịt đang ngày càng phát triển mạnh hơn

để đáp ứng nhu cầu về thịt ngày càng tăng của nhân dân. Bảng 1.5 cho thấy
diễn biến đàn trâu bò qua một số năm gần đây ở nước ta.
Bảng 1.5: Số
lƣợng
đàn trâu bò của cả
nƣớc
trong những năm qua

(Đơn vị: nghìn
con)


Năm

Số
trâu

Số


1980

2313

1664

1985

2590


2598

1990

2854

3121

1995

2963

3638

2000

2960

4127

2005

2922

5541

2007

2990


6720


(Nguồn: FAO Statistics - 2008)

Nhờ mức sống của người dân ngày càng được nâng cao nên nhu cầu
tiêu thụ thịt trâu và thịt bò ngày càng tăng, giá thịt trâu bò cũng như giá con
giống đang tăng lên nhanh chóng. Điều đó đang thúc đẩy và là cơ hội để
ngành chăn nuôi trâu bò thịt trong nước phát triển.





Về chăn nuôi trâu bò sữa, nước ta vốn không có truyền thống nên
không có các giống trâu bò sữa chuyên dụng đặc thù nào mà đều là giống
nhập nội hoặc lai tạo. Theo tài liệu Cục Nông nghiệp (2003), trong tổng đàn
bò sữa hiện có, trên 75% tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ
cận như Đồng Nai, Bình Dương và Long An…, khoảng 20% ở các tỉnh phía
Bắc, dưới 2% ở các tỉnh miền Trung và trên 2% ở Tây Nguyên. Hiện tại,
trong cơ cấu giống đàn bò sữa cả nước bò HF thuần chiếm khoảng 10% và bò
lai chiếm khoảng 90%. Chăn nuôi bò sữa hiện tại chủ yếu là các hộ gia đình
(95%), ngoài ra có một số ít cơ sở chăn nuôi Nhà nước và liên doanh. Số
lượng bò sữa và sản lượng sữa được thể hiện trong bảng 1.6.
Bảng 1.6: Số
lƣợng
bò sữa và sản
lƣợng
sữa
ở Việt Nam kể từ năm 1990



Năm


1990

1992

1994

1996

2000

2005

2006

2007
Số bò
sữa


(nghìn
con)


11,0


13,1

16,5

22,0

35,0

104,1

113,0

99,0
Sản
lƣợng
sữa


(nghìn
tấn)


9,3

13,0

16,2

27,9


52,2

197,7

215,9

234,4
(Nguồn: Cục Nông nghiệp - 2008)

Ngoài ra, trâu bò còn được sử dụng để cày kéo. Gần đây do sự thu hẹp
đất đai canh tác, do có cơ giới hóa một phần các hoạt động nông nghiệp nên
nhu cầu về trâu bò cày kéo có xu hướng giảm, thể hiện qua sự giảm về đầu
con trâu bò cày kéo trong những năm qua. Tuy vậy, ngày nay công việc làm
đất nặng nhọc vẫn thu hút gần 70% trâu và 40% bò trong toàn quốc, đáp ứng
khoảng trên 70% sức kéo trong nông nghiệp. Số lượng trâu bò cày kéo được
trình bày trong bảng 1.7.





Bảng 1.7: Số
lƣợng
trâu bò cày kéo của cả
nƣớc
trong những năm qua

(Đơn vị: nghìn
con)



Năm

Trâu



1990

1938

1421

1995

2065

1632

2000

1969

1627

2002

1840

1516


( Nguồn: Cục Nông nghiệp - 2003)

1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam

Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hòa
thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng

m thức ăn
cho gia súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích
khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và
hạn chế cỏ dại [1].
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có
khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của
trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn
của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1,4:1 [2]. Cỏ còn
là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là
nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa
kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà
sử dụng được nhiều năm [12].
Họ hòa thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ
cao trong số thực vật trên đồng cỏ, mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là
lượng hydratcacbon và đặc biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt






khi thu hoạch. Các cây họ đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn
gia súc nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
prôtêin và khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ sung [26].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu

hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [37]:

- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần
thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi
thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.

- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.

- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân hủy từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các
nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ
ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng
nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả
năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia
súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và
cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích
gieo trồng.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới

Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn
đề thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,…
Chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở

vùng Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.





Ở Thái Lan, với 70% dân số làm việc liên quan đến sản xuất nông
nghiệp, trong khi đó sản phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ
cung cấp theo nhu cầu tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ
trương tăng thu nhập của người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn,
đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò
trong dự án được cấp hạt giống cỏ để trồng.
Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực
phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống Brachiaria
Pennisetum, cỏ Stylo…sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn sản
xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [28].
Một số nước khác như Malaysia, Lào,…cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống
cỏ Hòa thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại.
Như vậy, có thể thấy phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi
gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy
ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.
Hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum plicatulum là
những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy, hai
giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan [34].
Ở Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria

decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15-20, 18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha được trình bày trong bảng 1.8.





Bảng 1.8: Sản
lƣợng
vật chất khô và chất
lƣợng
những loài cỏ trên
vùng


đất thấp vào 45 ngày
cắt


Tên khoa học
Tên Việt Nam
Năng suất (tấn/ha)
Prôtêin (%)
Brachiaria mutica
Cỏ lông Para
9 -
15

6 -
10


Digitaria decumbens
Pangola
15 -
20

7-
11

Paspalum atratum
Cỏ đắng
18 -
25

6 -
7

Paspalum plicatulum

6 -
10

5 -
6

( Nguồn: Division of Animal Nutrision, Anon -
2000)


Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan)


cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x

50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha
tương đương 18 tấn phân bón/1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở
lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày
[35]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.9.
Bảng 1.9: Sản
lƣợng
VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30
ngày


Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000

8,9

11/9/2000

7,1

11/10/2000

6,9

11/11/2000

6,8


11/12/2000

4,6

11/01/2001

2,6

11/02/2001

4,1

11/03/2001

4,3

11/04/2001

5,8

11/05/2001

3,7


(Nguồn: Division of Animal Nutrision, Anon - 2001)






Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978), giống Brachiaria decumbens
có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không
bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón
lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt
36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens),
Para (Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum) [36].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của
Riveros và Wilson (1970) [39] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng
suất đạt từ 23.500-28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện
cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm /ha/năm trên nền đất đỏ bazan
màu mỡ.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam

Kết quả các công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng chưa
nhiều. Những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào nghiên
cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như:
Phan Thị Phần, Lê Hòa Bình và các cộng sự (1999), [21]; Vũ Thị Kim
Thoa, Khổng Văn Đĩnh (2001), [27] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu
vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả:
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám tỉnh Bình
Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg K
2
O và 500 kg vôi/ ha/ năm. Lượng
phân đạm bón từ 60 – 90 kg N /ha /năm, năng suất chất xanh cỏ Panicum
maximum TD58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha /năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 –
60,44%, năng suất hạt 287-323 kg /ha /năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp
là 40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên hai loại đất của vùng đông bằng và vùng đất

đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc
độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 –





100 tấn /ha/năm. Cỏ Ghi nê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha,
tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 khá cao, khả
năng sử dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
Ở Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên,
tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ sinh
trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội cho
biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45-1,82 cm/ ngày.
Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 có tốc
độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [22].
Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Mùi, Lê Hòa Bình,
Đặng Đình Hanh (2004), đã nghiên cứu xây dựng mô hình thử nghiệm thâm
canh, xen canh cỏ hòa thảo, họ đậu làm thức ăn cho gia súc tại Thái Nguyên,
năng suất các giống cỏ đạt từ 90-179 tấn/ha trong điều kiện trồng thuần; 93-
138,5 tấn/ha trong điều kiện xen với cây ăn quả; 17-18,9 tấn/ha trong điều
kiện trồng theo băng; 28,5-36,9 tấn/ha trong điều kiện trồng theo đường đi.
Hoàng Chung, Giàng Thị Hương (2006), tại Mai Sơn - Sơn La đã tiến
hành tưới nước và bón phân cho cỏ trồng (cỏ voi, cỏ ghinê), tăng
1
-2
lứa/năm, năng suất tăng từ 1,9 đến 2,16 lần, năng suất tăng từ 100 tấn – 120
tấn ha [13].
Diện tích trồng cỏ của cả nước hiện nay chỉ đáp ứng được 7,6% nhu

cầu thức ăn thô xanh của gia súc ăn cỏ. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
này do các địa phương chưa quy hoạch đất trồng cỏ, chưa khai thác hết diện
tích đất chưa sử dụng và chưa mạnh dạn chuyền đổi một phần đất nông
nghiệp sang trồng cỏ thâm canh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn nhấn mạnh ngành chăn nuôi phải có sự điều chỉnh cơ cấu chiến
lược, cụ thể là đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ được coi là hướng





chính. Muốn vậy cần có sự chuyển biến mạnh và đột phá trong khâu thức ăn.
Đối với những vùng phát triển mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ , cỏ phải được
coi là cây trồng chính và trồng cỏ phải được coi là hướng chuyển dịch hướng
tới thâm canh.
1.3. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên

1.3.1. Nghiên cứu về thành phần loài

Nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu được tiến
hành từ lâu trên thế giới. Người ta có thể nghiên cứu thành phần loài ở từng
vùng hay trên từng thảm thực vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo
nguyên, ở Liên Xô (cũ), có nhiều nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong
đồng cỏ, thảo nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915),
Graxits (1927), Sennhicop (1938), Creepva (1978),… Nói chung, theo các tác
giả thì ở mỗi một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc
trưng, cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng
sống, đó là chỉ tiêu quan trọng của các công trình nghiên cứu về thực vật.
Việt Nam, những nghiên cứu về thành phần loài trong đồng cỏ, savan
hoặc một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm

1950 trở về đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu thành phần loài trong
đồng cỏ như:
Các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964), đã nghiên cứu
thành phần loài của thảm thực vật ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi loại hình
này là savan cỏ [18].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang
Anh (1969), khi nghiên cứu thành phần loài đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã
gọi đây là đồng cỏ [29].
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của
đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ,





savan, thảo nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài
thuộc 54 họ và 44 chi. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam”
năm 2004 là 79 họ, 402 loài [11].
Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình “Đồng cỏ Bắc Việt
Nam”, tác giả đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ của vùng này với sự
phân chia 5 vùng đồng cỏ Bắc Việt Nam [30].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loài, dạng
sống của savan bụi ở vùng đồi trung du Bắc Thái đã phát hiện được 123 loài
thuộc 47 họ khác nhau [14]…
1.3.2. Nghiên cứu về năng suất

Vấn đề nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã
bắt đầu từ thế kỉ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính
chất thống kê trong nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những công trình
nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho

chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên nhiều
kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái
sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục…
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành
cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó
của các kiểu thực bì khác nhau: Salưt (1950), Andreev, Lapverenko và
Leonchiev (1955); Badilevich (1958), Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia
(1960), Xemen-Nova-Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng
Chung (1974), Uchekhin (1977)… Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các
tác giả: Kalininna (1954); Xemennôva-Chian-Sanskia (1966)…





Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Xemennop và
Chian - Sanskia (1966); Kharitonôp (1967); IgonachenKo, Kirillova và
Ponhiatopskaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967)… có những công trình nghiên cứu quá trình tích lũy vật chất hữu cơ,
cũng như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay
hệ sinh thái. Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của
các thảm cỏ của các tác giả như: Iwaka (1979); Ogawa và cộng sự (1961);
Iwaki và cộng sự (1964,1966). Tại Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu
về năng suất của các quần xã cỏ trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về
năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất
đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay

đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985),… chỉ
nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu
tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển
chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành
nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên
hai đai (nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong những công trình nghiên cứu của ông
đã đề cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất, phần
dưới mặt đất và đi đến kết luận về quy luật biến đổi năng suất trên đồng cỏ
vùng núi phía Bắc Việt Nam: “ Trong các điều kiện thảm thực vật (savan -
đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo trình tự
sau: Đồng cỏ á thảo nguyên - Đồng cỏ - Savan cỏ” [10].
1.3.3. Nghiên cứu về chất lượng cỏ

- Độ ăn được:

Những loài trong đồng cỏ Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt, thành
phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hòa thảo, trong đồng cỏ tồn tại một số





loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng được gia
súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo thời gian và
theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm sinh thái, với
các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều cao thảm cỏ và
thành phần hóa học của nó cùng các hình thức tác động của con người vào
thảm cỏ.
Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả kì
sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum

conjugatum và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm
dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và
phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở nên cứng và sắc
như cỏ Tranh, Chè vè,…
Thành phần cây họ Đậu trong đồng cỏ Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp, sinh khối tập trung chủ
yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của
một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như
Carex, Rhynchospora,… một vài loài khác năng suất rất thấp [11].
- Thành phần hóa học của thực vật:

Thành phần hóa học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ
tiêu đó là: vật chất khô, prôtêin, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng
sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần
hóa học của một số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể
hiện ở bảng 1.10[11].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
prôtêin, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ
tiêu prôtêin được chú ý nhiều hơn cả.

×