Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý tại khu bảo tồn thần sa phượng hoàng, huyện võ nhai, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.62 KB, 84 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND Ủy ban nhân dân
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
KBT Khu bảo tồn
BQL Ban quản lý
BV&PTR Bảo vệ và phát triển rừng
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
BVR Bảo vệ rừng
KHKT Khoa học kỹ thuật
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
XTTS Xúc tiến tái sinh
TVVP Tang vật vi phạm
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
iii
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, trong đời sống vật chất và tinh thần của con người, trong việc duy
trì các chu trình tuần hoàn tự nhiên và sự cân bằng sinh thái, là cơ sở của sự
sống còn, sự thịnh vượng và bền vững của con người cũng như của trái đất
nói chung. Chính vì thế trong những thập kỷ vừa qua, nhiệm vụ bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường đã
trở thành mối quan tâm đặc biệt của cộng đồng thế giới, điều này được thể
hiện trong tuyên bố của Hội nghị môi trường đầu tiên ở Stockhoml năm 1972
và công ước bảo vệ đa dạng sinh học năm 1993.
Ở Việt Nam công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh khởi xướng và phát động chiến dịch trồng cây từ năm 1959,
trong suốt quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học bằng việc ban hành nhiều văn


kiện mang tính chất pháp lý liên quan đến bảo tồn Đa dạng sinh học, như Luật
Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Bảo vệ môi trường,
Kế hoạch hành động đa dạng sinh học… và tham gia các Công ước Quốc tế.
Với đặc điểm diện tích tự nhiên trải dài trên gần 15 vĩ độ (8
0
20’ -
22
0
22’ vĩ độ Bắc) và hơn 7 kinh độ (102
0
10’ - 109
0
20’ kinh độ Đông), địa
hình đa dạng, biến đổi từ độ cao 3.143 m cho đến âm dưới mực nước biển,
khí hậu nhiệt đới gió mùa, là nơi hội tụ của các luồng thực vật di cư… Việt
Nam là một trong những nước được đánh giá có tính đa dạng cao về các hệ
sinh thái rừng, đa dạng loài…Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó nguyên nhân chính là mất rừng đang đe dọa nghiêm trọng đa dạng
sinh học. Năm 1943, diện tích rừng nước ta là 14,3 triệu ha tương đương độ
che phủ 43%, đến năm 1990 diện tích rừng chỉ còn 9,18 triệu ha, tương đương
độ che phủ 27,2% [13], từ năm 1990 đến nay nhiều chủ trương, đường lối của
1
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước diện tích rừng Việt Nam không
ngừng tăng lên, tính đến 31 tháng 12 năm 2010 diện tích rừng cả nước là
13.388.075 triệu ha tương đương độ che phủ 39,5%. Trong đó, rừng tự nhiên
10.304.816 triệu ha, rừng trồng 3.083.259 triệu ha [5] nhưng chất lượng rừng chưa
được cải thiện nhiều, một số loài thực vật, động vật có nguy cơ bị diệt chủng.
Hệ thống rừng đặc dụng được coi là chiến lược bảo tồn thiên nhiên lâu
dài của Việt Nam và là cơ hội tồn tại của các loài động - thực vật đang bị đe
dọa. Hiện Việt Nam có 145 khu rừng đặc dụng, trong đó có 30 vườn Quốc

gia, 57 khu dự trữ thiên nhiên, 13 khu bảo tồn loài và 45 khu bảo tồn cảnh
quan với tổng diện tích 2,292 triệu ha [14].
Khác với rừng sản xuất và rừng phòng hộ, việc thành lập, xây dựng kế
hoạch và tổ chức quản lý rừng đặc dụng thường được tiếp cận một chiều từ
trên xuống, chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức đến vai trò và vị trí
của các bên liên quan, sự phối hợp giữa các bên liên quan trong công tác quản
lý bảo vệ rừng chưa nhịp nhàng, thiếu chặt chẽ dẫn đến có lúc, có nơi khó
khăn, lúng túng trong chỉ đạo, triển khai quản lý bảo vệ rừng đặc dụng, trong
khi đó tiềm năng quản lý bảo vệ rừng trong xã hội chưa được khai thác, chưa
khuyến khích thu hút được các lực lượng tham gia một cách tích cực trong
công tác quản lý bảo vệ rừng. Mặt khác, bảo tồn thiên nhiên thường mâu
thuẫn với những lợi ích kinh tế trước mắt của cộng đồng dân cư, dẫn đến tại
một số khu rừng đặc dụng tình trạng chặt phá rừng, khai thác, săn bắt động
vật trái phép vẫn xẩy ra, đe dọa nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của các
khu rừng đặc dụng.
Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tình trạng khai
thác vận chuyển lâm sản trái phép, lấn chiếm đất rừng, săn bắn, bẫy động vật,
khai thác khoáng sản vẫn thường xuyên xảy ra, mặc dù Ban quản lý Khu bảo
tồn và các lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng đã có nhiều nỗ lực [3].
2
Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với công tác quản lý bảo vệ rừng
đặc dụng nói chung và quản lý rừng đặc dụng tại Khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa - Phượng Hoàng nói riêng, đó là cần phải khai thác được sức mạnh
tổng hợp của các bên liên quan trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Để thực
hiện được vấn đề này cần phải đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý rừng
hiện nay, tìm ra được tồn tại, khó khăn, thách thức; phân tích, đánh giá được
tiềm năng, khả năng đồng quản lý rừng của các bên liên quan để từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp, sát đúng với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, luật
pháp Nhà nước hiện hành.
Để góp phần giải quyết các vấn đề trên tại Khu bảo tồn thiên nhiên

Thần Sa - Phượng Hoàng xuất phát từ lý luận và thực tiễn, với sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS. Lê Sỹ Trung tôi thực hiện luận văn Thạc sĩ khoa học
Lâm nghiệp, với chủ đề “Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải
pháp đồng quản lý tại khu bảo tồn Thần Sa - Phượng Hoàng, huyện Võ
Nhai, tỉnh Thái Nguyên”.
3
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Khái niệm đồng quản lý
Khái niệm đồng quản lý hay hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên
(Comanagement of Protected Areas) được nhiều tác giả định nghĩa, sau đây là
một số khái niệm thường được dùng trong các nghiên cứu về đồng quản lý.
Rao và Geisler, định nghĩa đồng quản lý là sự chia sẻ việc ra quyết
định giữa những người sử dụng tài nguyên địa phương với các nhà quản lý
tài nguyên về chính sách sử dụng các vùng bảo vệ. Các đối tác cần hướng tới
một mục mối quan tâm chung là bảo tồn thiên nhiên để trở thành “đồng
minh tự nguyện”.
Borrini - Feyerabend, đưa ra khái niệm về đồng quản lý các khu bảo
tồn (Protected Areas) là tìm kiếm sự hợp tác, trong đó các bên liên quan cùng
nhau thỏa thuận chia sẻ những chức năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên một
vùng lãnh thổ hoặc một khu vực tài nguyên dưới dạng tình trạng bảo vệ.
Wild và Mutebi, lại cho rằng đồng quản lý là một quá trình hợp tác
giữa các cộng đồng địa phương với các tổ chức nhà nước trong việc quản lý
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên hoặc các tài sản khác, các bên liên quan;
nhà nước hay tư nhân cùng nhau thông qua một hiệp thương, xác định sự
đóng góp của mỗi đối tác và kết quả là cùng nhau ký một hiệp ước phù hợp
mà các đối tác đều chấp nhận được.
Andrew W.Ingle và các tác giả, 1999 cho rằng đồng quản lý được coi
như sự sắp xếp quản lý được thương lượng bởi nhiều bên liên quan, dựa trên
cơ sở thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc quyền hưởng lợi được nhà nước công

nhận mà hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận được. Quá trình
đó được thể hiên trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm soát việc sử
dụng tài nguyên.
4
Borrini - Feyerabend, khái niệm về đồng quản lý như là một dạng hợp
tác trong đó có hai hoặc nhiều đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác định
và thồng nhất việc chia sẻ chức năng quan lý quyền và trách nhiệm về một
vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên được xác định. Đồng
thời với mục tiêu về văn hóa, chính trị việc đồng quản lý là nhằm tìm kiếm sự
“công bằng” trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Qua các khái niệm của các tác giả nói trên, đồng quản lý rừng Khu bảo
tồn được hiểu như sau: Đồng quản lý rừng Khu bảo tồn là sự tham gia của hai
hay nhiều đối tác vào công tác quản lý bảo vệ rừng Khu bảo tồn, trong đó
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và quyền lợi của các đối tác được thống
nhất thông qua thảo luận trên cơ sở khả năng, năng lực của các bên và không
trái với pháp luật hiện hành, Công ước Quốc tế Nhà nước đang tham gia,
nhằm đạt mục tiêu chung quản lý tài nguyên rừng Khu bảo tồn tốt hơn, vừa
thỏa mãn mục tiêu riêng của từng đối tác.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Tính pháp lý về quản lý rừng đặc dụng
Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 [18], quy định tổ chức quản lý rừng đặc
dụng giao khoán ngắn hạn đất rừng đặc dụng trong phân khu bảo vệ nghiêm
ngặt cho hộ gia đình chưa có điều kiện di chuyển ra khỏi khu vực đó để bảo
vệ, giao khoán đất rừng đặc dụng thuộc phân khu phục hồi sinh thái cho hộ
gia đình cá nhân sinh sống ổn định trong khu vực đó để bảo vệ và phát triển
rừng, UBND tỉnh có thẩm quyền giao đất cho thuê đất vùng đệm đối với hộ
gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất nghiên cứu thí nghiệm về
lâm nghiệp.
Điều 50, 51 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [19], quy định tổ
chức quản lý rừng đặc dụng, khai thác lâm sản trong khu bảo vệ cảnh quan và

phân khu dịch vụ - hành chính của Vườn Quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên
5
được thực hiện theo quy chế quản lý rừng, không gây thiệt hại đến mục tiêu
bảo tồn và cảnh quan của khu rừng; được khai thác các cây đổ gãy, các loài
lâm sản ngoài gỗ trừ các loài động thực vật nguy cấp quý hiếm cấm khai thác
theo quy định của Chính phủ.
Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 [11] của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng. Tại mục 3, Điều 15 quy
định tổ chức cộng đồng dân cư được Nhà nước giao rừng đặc dụng mà cấp Bộ
hoặc UBND tỉnh không thành lập Ban quan lý khu rừng, có trách nhiệm tổ
chức quản lý khu rừng được giao; ban quản lý khu rừng đặc dụng có năng lực
và điều kiện phát triển du lịch sinh thái, được thành lập một bộ phận trực thuộc
để thực hiện nhiệm vụ này, theo hình thức bước đầu là đơn vị sự nghiệp có thu;
ban quản lý khu rừng đặc dụng huy động vốn, lồng ghép nguồn vốn; Nhà nước
khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng.
Nghị định số 23/2004/NĐ - CP [9] về việc hướng dẫn thi hành luật bảo
vệ phát triển rừng; Điều 5, 6 quy định rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về
bảo vệ và phát triển rừng của UBND cấp huyện và xã;
Nghị đinh số 99/2009/NĐ - CP ngày 2/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản. Trong đó quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và
mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng;
Luật Đa dạng sinh học năm 2008, quy định sự đa dạng về nguồn đầu tư
bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học;
Thông tư 70/2007/TT- BNN- KL ngày 1/8/2007 của Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn về việc hướng dẫn xây dựng quy ước quản lý bảo vệ
và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư bản, làng, buôn, thôn, ấp;
Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên
Việt Nam đến năm 2010.

6
1.2.2. Đồng quản lý nhằm kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên với sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững
Để phát triển kinh tế xã hội con người phải khai thác tài nguyên thiên
nhiên, trong đó có tài nguyên rừng, trong khi đó bảo tồn là bảo vệ và tạo điều
kiện cho chính bản thân nó phát triển hơn, như vậy ở một góc độ nào đó bảo
tồn mâu thuẫn với sự phát triển kinh tế xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này
thì đồng quản lý là giải pháp hữu hiệu, nó đảm bảo cho con người khai thác
nguồn tài nguyên một cách hợp lý, hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế nâng
cao đời sống, kinh tế - xã hội phát triển nguồn lực để bảo tồn phát triển rừng
đặc dụng được tốt hơn.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Đồng quản lý rừng đặc dụng vận dụng khoa học tiên tiến kết hợp
kiến thức bản địa
Rừng đặc dụng được Nhà nước giao cho các Ban quản lý rừng đặc dụng
quản lý, đây là đội ngũ có kiến thức khoa học kỹ thuật trong quản lý bảo vệ
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học; các bên tham gia (các bên liên quan tham gia
đồng quản lý) đặc biệt cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị xã hội họ là
những người có kinh nghiệm, hiểu biết về khu rừng, khi vận dụng một cách
sáng tạo những kinh nghiệm, kiến thức khoa học tiên tiến thì công tác quản lý
bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
1.3.2. Đồng quản lý rừng đặc dụng giả quyết mâu thuẫn giữa lợi ích Quốc
gia và lợi ích các bên liên quan
Lợi ích rừng đặc dụng mang lại thường mang tính Quốc gia, Quốc tế.
Hiệu quả khó có thể đo đếm và phải mất nhiều thời gian mới phát huy hiệu
quả, trong khi đó cộng đồng dân cư quan tâm đến rừng đặc dụng thường với
mục tiêu ngắn hạn, phục vụ nhu cầu cuộc sống trong một thời gian, thời điểm
nhất định. Trên thực tế thường thì lợi ích quốc gia và lợi ích cá nhân; giữa lợi
7
ích lâu dài và lợi ích trước mắt thường không hoàn toàn đồng nhất, để giải

quyết hài hòa vấn đề này thì đồng quản lý rừng có tính khả thi cao.
1.3.3. Đồng quản lý rừng đặc dụng với chiến lược xóa đói giảm nghèo
Các khu rừng đặc dụng thường được quy hoạch thành lập ở vùng sâu
vùng xa, nơi mà đời sống của người dân đang gặp khó khăn và sự phụ thuộc
vào rừng của người dân lớn hơn ở nơi khác, nếu việc quản lý bảo vệ rừng đặc
dụng chỉ được thực hiện bởi các ban quan lý rừng đặc dụng, vô hình dung đã
gây khó khăn hơn cho người dân sống gần rừng tìm kiếm cơ hội nâng cao đời
sống vật chất. Trong khi đó, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn là
những vùng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt. Đồng quản lý rừng là phương
thức quản lý tạo cơ hội cho các bên liên quan trong đó có cộng đồng người
dân tham gia nhiều hơn trong công tác quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng
sinh học, đồng thời tạo nguồn thu nhập hợp pháp và thường xuyên; nâng cao
đời sống vật chất tinh thần, như vậy đồng quản lý rừng đặc dụng góp phần
xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.
1.4. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Đồng quản lý hay hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên
(Comanagement of Protected Areas) lần đầu tiên được biết đến ở Ấn Độ sau
đó Châu Phi, Châu Mĩ và đã được nhiều tác giả nghiên cứu, hệ thống lại.
Năm 1996 [28], Wild và Mutebi đã nghiên cứu hợp tác quản lý tại
Vườn Quốc gia Bwindi Impenetrable và Mgahinga Gorilla thuộc Uganda,
trong nghiên cứu này tác giả nghiên cứu hợp tác giữa Ban quản lý Vườn quốc
gia và cộng đồng dân cư; hai bên thỏa thuận ký kết quy ước cho phép người
dân khai thác bền vững một số lâm sản, đổi lại có nghĩa vụ tham gia bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn. Như vậy phương thức đồng quản lý ở đây
là giữa Ban quản lý Vườn với cộng đồng người dân.
8
Năm 1999 [27], trong bài viết của Sherry, E.E về Vườn Quốc gia Vutul
ở Canada, tác giả đã đề cao vai trò của sự liên minh giữa chính quyền, thổ dân
và Ban quan lý Vườn Quốc gia trong việc huy động lực lượng tham gia quản

lý kết quả mang lại thật khả quan công tác bảo tồn được thực hiện tốt hơn, giá
trị của Vườn quốc gia tăng lên. Đồng quản lý ở đây đã kết hợp kiến thức bản
địa với mục tiêu bảo tồn, Ban quản lý Vườn chuyển giao kỹ thuật bảo tồn, xây
dựng các mô hình phát triển kinh tế còn người dân thực hiện các mô hình đó.
Sự hợp tác đã giải quyết hài hòa giữa chính sách của chính quyền và bản sắc
truyền thống của người dân.
Schuchemann [26], đã nghiên cứu tại Vườn Quốc gia Andringitren
thuộc Nước Cộng hòa Madagascar, để thực hiện quản lý Vườn quốc gia
Chính phủ Madagascar đã có Nghị định đảm bảo quyền của người dân trong
Vườn quốc gia như sau: Quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên rừng
phục hồi để sử dụng tại chỗ, giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng… đổi lại
người dân phải tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái. Đồng quản lý
ở đây đã có nhiều bên tham gia hơn bao gồm cả đơn vị quản lý du lịch trong
vườn và chính quyền địa phương.
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad [24], tại Khu bảo tồn Hoàng gia
Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với một
số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. 30% -
50% lợi ích thu được từ du lịch sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động kinh tế xã
hội của cộng đồng; nghiên cứu này chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên
rừng phục vụ du lịch ở vùng đệm.
Trong báo cáo của Moenieba, Isaacs và Najma Mohamed [23] về “Hợp
tác quản lý với người dân ở Nam Phi: Phạm vi vận động” đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại Vườn Quốc Gia Richtersveld. Cộng đồng người
dân ở đây là người di cư từ vùng khác đến, chủ yếu làm nghề khai thác Kim
cương, cuộc sống khó khăn, nhận thức về bảo tồn thiên nhiên chưa cao trong
9
khi đó công việc của họ làm ảnh hưởng tới đa dạng sinh học của Vườn Quốc
gia, Ban quản lý Vườn Quốc gia đã đề xuất phương thức hợp tác quản lý với
cộng đồng người dân, dựa trên hương ước quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng
dân cư. Theo đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh học trên địa phận của

mình, còn chính quyền và Ban quản lý Vườn Quốc gia hỗ trợ người dân xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội.
Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan được đánh giá là Quốc gia có nhiều
thành công trong công tác xây dựng các chương trình đồng quản lý các khu
rừng bảo vệ. Các cộng đồng dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài nguyên
rừng thường thành thạo khi đóng vai trò là người bảo vệ hoặc người tham gia
quản lý khu bảo tồn. Poffenberger, M. và Mc Gean, B. 1993 trong báo cáo
“Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm
tại Vườn Quốc gia Dong Yai nằm ở vùng Đông Bắc và khu rừng phòng hộ
Nam Sa ở phía Bắc Thái Lan. Đây là những vùng quan trọng đối với công tác
bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời cũng là vùng có nhiều đặc điểm độc đáo
về kinh tế, xã hội, về thể chế của cộng đồng người dân địa phương trong quản
lý và sử dụng tài nguyên. Tại Dong Yai, người dân đã chứng minh được khả
năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn, đồng thời phối hợp
với Cục Lâm nghiệp Hoàng Gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn
định về môi trường sinh thái, cũng như phục vụ lợi ích của người dân trong
khu vực. Họ khẳng định rằng nếu Chính phủ có chính sách khuyến khích và
chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ thành công trong việc kiểm soát
các hoạt động khai thác quá mức tài nguyên rừng, các hoạt động phá rừng và
tác động tới môi trường.
1.5. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Đồng quản lý tài nguyên rừng là một khái niệm khá mới ở Việt Nam.
Theo một số tài liệu [16], [17], [21], khái niệm đồng quản lý rừng lần đầu tiên
10
được đưa vào Việt Nam năm 1997, tại khóa tập huấn về “Kết hợp bảo tồn và
phát triển” (Integrated Conservation and Development - ICD) tổ chức tại
Vườn Quốc gia Cát Tiên do Quỹ quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tài trợ, sau đó
khái niệm này tiếp tục được giới thiệu trong một số khóa tập huấn về bảo tồn
thiên nhiên của các dự án được các tổ chức quốc tế tài trợ.
Năm 2002 [20], Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell và các tác giả đã có

nghiên cứu phối hợp quản lý và bảo tồn ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông.
Các tác giả đánh giá nghịch lý về sử dụng đất đai và nhà ở, tình hình quản lý
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản thuộc vùng đệm Khu bảo
tồn thiên nhiên Pù Luông. Nghiên cứu này đã đưa ra một số phân tích về sự
phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên rừng và đánh giá một số thể chế,
chính sách hiện có đối với công tác quản lý rừng đặc dụng.
Năm 2003 [15], Hội thảo để thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Phu Xai
Lai Leng do cộng đồng quản lý được tổ chức tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ
An, tại hội thảo nhiều ý kiến tham luận và trao đổi của các nhà quản lý, các
chuyên gia về một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn.
Năm 2003 [16], Nguyễn Quốc Dựng đã có nghiên cứu về đồng quản lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, nghiên cứu đã có đánh giá giá trị đa
dạng sinh học của Khu bảo tồn, tiềm năng đồng quản lý của các bên liên
quan, bao gồm: Chính quyền xã Tà Bhinh, cộng đồng dân tộc Cơ Tu, Kiểm
Lâm, UBND huyện; đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý.
Đồng quản lý ở đây là sự hợp tác giữa Ban quản lý vườn, chính quyền và
cộng đồng người dân.
Năm 2004, Nguyễn Quốc Dựng cho rằng: đồng quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên là quá trình tham gia và hiệp thương của nhiều đối tác có mối
quan tâm tới nguồn tài nguyên trong khu bảo tồn, nhằm đạt được một thỏa
thuận thống nhất về quản lý vừa đáp ứng mục tiêu chung là bảo tồn thiên
11
nhiên, vừa đáp ứng mục tiêu riêng có thể chấp nhận được phù hợp với từng
đối tác.
Năm 2006, Vũ Đức Thuận đã nghiên cứu đề xuất đồng quản lý Khu
bảo tồn thiên nhiên Copia, tỉnh Sơn La, nghiên cứu đã phân tích các bên liên
quan và đề xuất một số nguyên tắc, giải pháp để tiến tới tổ chức đồng quản lý
rừng Khu bảo tồn.
Năm 2007, Phạm Văn Hạ đã nghiên cứu đồng quản lý Vườn Quốc gia
Chư Yang Sin - Đăk Lăk.

Năm 2009, Nguyễn Xuân Hoan đã nghiên cứu đồng quản lý khu bảo
tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh, nghiên cứu đã phân tích các bên liên quan và
phong tục tập quán thể chế chính sách của người dân và đề xuất nguyên tắc,
giải pháp để tổ chức đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.
Ngày 2 tháng 2 năm 2012 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số
126/QĐ-TTg về việc thí điểm chia sẻ lợi ích trong quản lý, bảo vệ và phát
triển bền vững rừng đặc dụng tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy, Nam Định và
vườn quốc gia Bạch Mã, tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Việc thí điểm
này sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng khung pháp lý về chính sách chia sẻ lợi
ích, quyền và nghĩa vụ của Ban quản lý các khu rừng đặc dụng với cộng đồng
địa phương theo nguyên tắc đồng quản lý nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển
bền vững rừng đặc dụng, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của
người dân sống ở trong khu rừng đặc dụng và vùng đệm khu rừng đặc dụng.
Nhu cầu đồng quản lý rừng đặc dụng ở Việt Nam nói chung và Khu
bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nói riêng rất lớn, các dự án đã,
đang và sẽ thực hiện rất cần hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn để đưa ra
được các nguyên tắc và giải pháp thực hiện các nguyên tắc về đồng quản lý
phù hợp với điều kiện từng khu rừng đặc dụng, từng vùng sinh thái.
Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng đã có một số
nghiên cứu nhưng chủ yếu tập trung đánh giá về mức độ đa dạng sinh học và
12
giá trị bảo tồn của khu, ngoài ra Nguyễn Xuân Tùng (2010) đã nghiên cứu và
đề xuất một số giải pháp về bảo vệ và phát triển rừng tại khu bảo tồn nhưng
nghiên cứu chỉ dứng lại ở chỗ đưa ra các biệp pháp quản lý bảo vệ rừng ở mặt
tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người dân và tăng cường thực
thi pháp luật. Do vậy, đề tài tiến hành nghiên cứu đồng quản lý tại Khu bảo
tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, trong đó tập trung đánh giá thực
trạng công tác quản lý bảo vệ rừng; phân tích vai trò, khả năng, tiềm năng hợp
tác cũng như mâu thuẫn giữa các bên liên quan. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý Khu bảo

tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, góp phần giải quyết những khó
khăn trong công tác quản lý rừng Khu bảo tồn.
Qua tổng quan nghiên cứu các vấn đề về đồng quản lý trong và ngoài
nước nhận thấy các nghiên cứu trước đây, phần lớn các tác giả chủ yếu tập
trung nghiên cứu đồng quản lý giữa Ban quản lý khu bảo tồn với cộng đồng
dân cư sống trong và gần rừng, chưa có nhiều chú ý đến các cơ quan, tổ chức
khác có mối quan tâm hoặc có chức năng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn.
Qua đó đề tài nghiên cứu sẽ mở rộng thêm hướng nghiên cứu tới các cơ quan
tổ chức khác có mối quan tâm, có chức năng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn
và vùng lân cận.
13
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN THẦN SA - PHƯỢNG HOÀNG
2.1. Điều kiện tự nhiên khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm cách thành phố
Thái Nguyên 40 km về phía Đông Bắc, có tọa độ địa lý:
Từ 21
o
45
'
12
''
đến 21
o
56
'
30
''

vĩ độ Bắc
Từ 105
o
51
'
05" đến 106
o
08'38" kinh độ Đông
Phía Tây giáp huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Phía Bắc giáp xã Thần Sa, Sảng Mộc và huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn.
Phía Đông giáp xã Nghinh Tường và huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Phía Nam giáp xã Thần Sa huyện Võ Nhai.
2.1.2. Địa hình
Khu bảo tồn thuộc vùng núi cao nằm phía Đông Bắc của tỉnh Thái
Nguyên, địa hình chia cắt hiểm trở, núi đá chiếm gần 87% diện tích khu bảo
tồn. Khu vực thuộc phần cuối cùng phía Nam của dãy Ngân Sơn bắt đầu từ
Bắc Kạn. Độ cao tuyệt đối trung bình khoảng 700m.
2.1.3. Khí hậu
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa ảnh hưởng của khí hậu vùng cao, một năm chia thành 2
mùa, mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Số giờ nắng trung bình năm là 1.560
giờ năm cao nhất là 1.750 giờ năm thấp nhất là 1.470 giờ. Chế độ ẩm với
lượng mưa trung bình năm là 1.750ml, năm cao nhất tới 2.450ml năm thấp
nhất 1.250ml. Lượng mưa phân bố không đều, từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng
bốc hơi bình quân năm 885mm, bằng 50,6% lượng mưa trung bình năm,
14
lượng bốc hơi lớn thường xảy vào các tháng 12 và tháng 1, gây nên tình trạng
khô hạn nghiêm trọng ảnh hưởng đến cây trồng vụ đông xuân. Độ ẩm không
khí trung bình năm từ 82% giữa các tháng trong năm biến thiên từ 75 - 86%.

Độ ẩm không khí thấp nhất trong năm vào tháng 4 và tháng 5. Ở các thung
lũng sương muối thường xuất hiện vào tháng 12, tháng 1 với tần suất xuất
hiện 1 - 3 lần/năm. Đây là yếu tố bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của
động thực vật.
2.1.4. Thực trạng kinh tế
Theo kết quả điều tra dân sinh kinh tế xã hội, cuộc sống của nhân dân
trong khu vực còn ở mức thấp. Sản lượng lương thực bình quân gần 500
kg/người/năm. Thu nhập bình quân đạt 6 triệu đồng/người/năm. Số hộ nghèo
trong khu vực là 1.921 hộ, chiếm 38,97% tổng số hộ. Do cuộc sống khó khăn,
người dân thường xuyên vào rừng kiếm củi, khai thác gỗ, khai thác vàng để
kiếm sống đã tác động xấu đến rừng. Đây là một trong những nguyên nhân
chính làm suy giảm giá trị của rừng cả về diện tích và chất lượng.
2.1.5. Kinh tế - xã hội
2.1.5.1. Dân số và Lao động
Theo thống kê dân số tính đến hết năm 2011, dân số trong vùng là
20.895 nhân khẩu, sinh sống tại 4.929 hộ gia đình, trên địa bàn 66 xóm bản,
thuộc 6 xã và 1 thị trấn, mật độ dân số trong vùng bình quân là: 45
người/km2. Phân bố dân cư không đều, đa số các xóm bản tập trung ở thung
lũng, gần sông suối, có khả năng làm ruộng nước và dọc theo các trục đường
giao thông.
Tổng số lao động trong vùng là 9.351 lao động chiếm 44,75% dân số,
trong đó lao động nông nghiệp là chủ yếu chiếm trên 85%; lao động thuộc các
ngành nghề khác bao gồm cán bộ chủ chốt xã, huyện, cán bộ y tế, giáo dục.
15
2.1.5.2. Dân tộc và phong tục tập quán canh tác
Trong khu vực có 5 dân tộc chủ yếu là Tày, Dao, Nùng, Kinh, H'mông.
Ngoài ra còn một số dân tộc khác có ít người như Cao Lan, Sán Dìu. Dân tộc
Tày có số dân đông nhất chiếm 42,4%. Tiếp đến là dân tộc Dao 23,4%. Dân
tộc Nùng chiếm 16,0%. Dân tộc Kinh chiếm 10,7%. Dân tộc H’mông chiếm
7,4%. Các dân tộc còn lại chỉ chiếm 0,1%.

Cùng chung sống trong một cộng đồng, đã có nhiều hoạt động học tập,
trao đổi, giao lưu lẫn nhau nhưng giữa các dân tộc vẫn có những phong tục
tập quán canh tác khác nhau.
2.1.6. Thực trạng cơ sở hạ tầng xã hội
- Giao thông: Hệ thống giao thông trong vùng chưa phát triển. Toàn bộ
hệ thống giao thông chỉ có gần 150 km đường ô tô. Trong đó có 59 km đường
nhựa và bê tông, đường cấp phối (19,21km) và còn lại là đường đất. Tất cả
các xã trong vùng đều đã có đường ô tô đến được trung tâm xã. Tuy nhiên
chất lượng đường rất xấu nên việc đi lại rất khó khăn, đặc biệt là trong mùa
mưa lũ. Ngoài ra còn hàng trăm km đường mòn dân sinh trong các xã, xóm
bản, mặt đường nhỏ hẹp, chất lượng xấu.
- Thủy lợi: Do địa hình trong khu vực phức tạp, chủ yếu là núi đá, bị
chia cắt mạnh nên đa phần các thửa ruộng nằm trong các thung lũng, diện tích
nhỏ, việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi tưới tiêu rất khó khăn.
Theo số liệu điều tra khảo sát các xã trong vùng, hệ thống kênh mương
đã xây dựng được gần 20 km, trong đó có 1 km kênh mương cứng. Hiện nay,
một số đoạn kênh mương đã xuống cấp và hiệu suất sử dụng các công trình
này chưa cao. Vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Thời gian tới
cần kiểm tra, tu sửa, nâng cấp và xây dựng thêm hệ thống kênh mương để
phục vụ sản xuất lương thực được hiệu quả.
- Điện nước sinh hoạt: Tất cả các xã trong khu vực đã có hệ thống điện
lưới quốc gia. Tuy nhiên, đường điện mới chỉ được kéo đến các trung tâm xã
16
và một số xóm bản nằm ven đường giao thông chính của xã. Các bản nằm xa
trục đường chính vẫn chưa được sử dụng điện hoặc chất lượng điện thấp (điện
yếu) do đường truyền tải kém. Hiện tại, một số hộ sử dụng máy thủy điện nhỏ
và máy nổ để phát điện sử dụng trong gia đình
Do điều kiện địa hình núi đá rất phức tạp nên chương trình nước sinh
hoạt thôn xóm đã được đầu tư xây dựng nhưng vẫn ở phạm vi hẹp. Nhiều hộ
gia đình vẫn phải tìm nguồn nước tự nhiên từ trong núi để phục vụ sinh hoạt

hàng ngày
- Y tế: Các xã trong khu vực đều đã xây dựng trạm y tế đặt ở trung tâm
xã. Tại các trạm y tế các xã có 10 bác sỹ, y tá điều dưỡng 20 hoạt động khám
chữa bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngoài ra còn có 66 cộng tác viên tham
gia y tế cộng đồng, 14 y sỹ hoạt động y tế học đường. Tuy lực lượng cán bộ y
tế đã được tăng cường nhưng do đội ngũ cán bộ y tế chưa đồng đều, trình độ
chuyên môn chưa cao, cơ sở vật chất và thuốc men còn thiếu nên công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng như công tác tuyên truyền phòng
chống dịch bệnh trong nhân dân còn hạn chế.
- Giáo dục: Toàn bộ khu vực có 25 trường, 228 lớp với 4 cấp học: mầm
non, tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Các trường ở thị trấn
và ở trung tâm các xã được xây dựng khá khang trang nên điều kiện học tập
đã cơ bản đảm bảo việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Còn lại một số
trường ở các xóm bản, nhất là các lớp tiểu học chưa được xây dựng kiên cố.
Cơ sở vật chất rất thiếu thốn. Việc dạy và học của giáo viên và học sinh ở đây
còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Tình hình kinh tế, xã hội xã Thượng Nung
2.2.1. Lịch sử hình thành xã Thượng Nung
Xã Thượng Nung huyện Võ Nhai được thành lập tháng 3 năm 1945, là
một xã miền núi cách trung tâm huyện Võ Nhai có địa giới hành chính giáp
ranh với các xã khác của Huyện.
17
Phía Bắc giáp với xã Sảng Mộc.
Phía Nam giáp với xã Cúc Đường.
Phía Đông giáp với xã Vũ Chấn.
Phía Tây giáp với xã Thần Sa.
Tổng diện tích tự nhiên 4.229,34 ha trong đó chủ yếu là diện tích đất
lâm nghiệp; diện tích đất canh tác nông nghiệp 739,44 ha chiếm 17,48% đất
tự nhiên của xã.
Với điều kiện địa lý chủ yếu là rừng núi đá vôi, đường giao thông đi lại

khó khăn nền kinh tế chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Trình độ dân trí không
đồng đều do vậy việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương còn hạn chế.
2.2.2. Dân số
Xã Thượng Nung có 7 xóm (trong đó có 3 xóm vùng cao), 472 hộ với
2.390 nhân khẩu, trong đó lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp. Tại xã
chủ yếu có 3 dân tộc chính là: Tày, H’Mông và Kinh. Trong số 472 hộ có tới
175 hộ người dân tộc H’Mông [21].
2.2.3. Cơ sở hạ tầng
Giao thông: Hệ thống giao thông đi lại rất khó khăn đặc biệt là đường
giao thông lên các xóm Lũng Luông, Lũng Cà và Lũng Hoài. Tuyến đường từ
Thị trấn Võ Nhai vào Thượng Nung đi lại rất khó khăn nên rất khó khăn cho
việc lưu thông hàng hóa và phát triển các ngành kinh tế khác.
Thủy lợi: Do địa hình trong khu vực phức tạp, chủ yếu là núi đá, bị chia
cắt mạnh nên đa phần các thửa ruộng nằm trong các thung lũng, diện tích nhỏ,
việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi tưới tiêu rất khó khăn.
Y tế: Có 1 trạm y tế , 02 bác sỹ, 03 y tá và điều dưỡng, y tế thôn bản và
mạng lưới cộng tác viên là 11 người.
Giáo dục: Cơ sở vật chất trường học từng bước được nâng cấp, có hệ
thống trường học từ mần non đến trung học cơ sở. Tổng số học sinh trung học
18
cơ sở có 116 học sinh, tiểu học có 247 học sinh và 166 học sinh bậc mầm
non. Giáo viên THCS là 17 giáo viên, tiểu học 37 và mầm non là 18 giáo
viên.
Điện, nước: Tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia là 62% (trong đó còn 3 xóm
vùng cao chưa được kéo điện); Tỷ lệ hộ dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 60%
(nước theo chương trình nước sạch nông thôn và nước dẫn từ nguồn về).
2.2.4. Tình hình dân sinh
Diện tích tự nhiên rộng, mật độ dân số thấp nhưng do nhiều nguyên
nhân đến nay Thượng Nung vẫn là một xã nghèo của huyện Võ Nhai, tỷ lệ hộ
nghèo chiếm 55%; thu nhập đầu người đạt 6 triệu đồng/người/năm [21].

- Về trồng trọt: diện tích đất canh tác nông nghiệp 739,44 ha, trong đó
diện tích đất trồng lúa hàng năm 106,88ha, năng suất bình quân đạt 140-
150kg/sào/vụ, diện tích còn lại trồng các loại cây như: Lạc, sắn, ngô, khoai là
568,74 ha (năng suất bình quân ngô đạt 120-130kg/sào/vụ) [21].
- Chăn nuôi: Thượng Nung là xã thuần nông, đất đồi núi rộng, có điều
kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, tuy nhiên do người dân thiếu
vốn, trình độ chăn nuôi còn lạc hậu, chủ yếu là nuôi tận dụng tring hộ gia
đình, năng suất chất lượng đàn gia súc, gia cầm thấp, dẫn đến hiệu quả chăn
nuôi chưa cao. Tính đến 31 tháng 12 năm 2011 tổng đàn trâu hiện có 260 con;
Đàn bò 617 con; Đàn lợn 2.896 con; Gia cầm hiện có 21.000 con.
- Lâm nghiệp: Đất sản xuất lâm nghiệp toàn xã là 3258,94 ha chiếm
77,1% địa hình rừng núi đá vôi xen lẫn rừng trồng, nương rẫy của nhân dân.
Diện tích đất rừng sản xuất trên toàn xã chỉ có 209,25 ha chiếm 4,9% tổng
diện tích tự nhiên trên toàn xã do đó việc phát triển trồng rừng sản xuất còn
manh mún, nhỏ lẻ, chưa có đầu ra phù hợp.
- Thương mại, dịch vụ: Cả xã có 03 xe ôtô phục vụ vận chuyển hàng
hóa dân dụng, 05 máy xay xát, 8 máy cầy thô sơ. Nhìn chung thương mại dịch
19
vụ hàng hóa cả xã kém phát triển. Chủ yếu phải phụ thuộc về các mặt hàng do
bên ngoài cung cấp vào.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu đất theo mục đích sử dụng xã Thượng Nung
Ghi chú: LPN: đất lâm nghiệp; SXN: đất sản xuất nông nghiệp; CSD:
đất chưa sử dụng; PNN: đất phi nông nghiệp; NTS: đất nuôi trồng thủy sản.
Bảng 2.1: Diện tích đất theo mục đích sử dụng xã Thượng Nung
TT Mục đích sử dụng Mã Diện tích (ha)
Tổng diện tích đất nông nghiệp 4000,52
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN 739,44
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 675,62
1.1.1.1 Đất trồng lúa LUA 106,88
1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 568,74

1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 63,82
1.2 Đất lâm nghiệp LNP 3258,94
1.2.1 Đất rừng sản xuất RSX 209,25
1.2.3 Đất rừng đặc dụng RDD 2055,82
1.3 Đất nuôi trồng thủy sản NTS 2,14
(Nguồn: Ban địa chính xã Thượng Nung)
Qua điều kiện tự nhiên dân sinh kinh tế xã hội xã Thượng Nung cho
thấy nền kinh tế của xã là nông - lâm nghiệp tự cung, tự cấp, các ngành tiểu
thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ hầu như không có. Thu nhập bình quân
đầu người ở mức thấp đạt khoảng 6 triệu đồng/người/năm, điều kiện sản xuất
20
lạc hậu, trình độ dân trí thấp nên đời sống của bà con nhân dân trong xã gặp
rất nhiều khó khăn còn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên.
Trang bản đồ
21
Chương 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về đồng quản lý rừng đặc dụng
làm cơ sở đề xuất các nguyên tắc đồng quản lý và giải pháp thích hợp thực
hiện các nguyên tắc đồng quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng
Hoàng, Tỉnh Thái Nguyên.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tiềm năng tài nguyên rừng, đồng quản lý của các bên liên
quan trong quản lý bảo vệ rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa -
Phượng Hoàng;
- Đề xuất được các nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý Khu bảo tồn
thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng.

3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Đối tượng
- Tài nguyên rừng ở Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng, cộng đồng
dân cư các xã trong khu bảo tồn và các bên liên quan.
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến công tác quản lý hệ
thống rừng đặc dụng.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
22

×