Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

hệ thống định vị gps và ứng dụng gps trên ôtô ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 46 trang )

Phần I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU.
Từ khi chiếc vệ tinh nhân tạo đầu tiên ra đời đã mở ra một ngành khoa học và
công nghiệp mới mang nhiều ứng dụng có ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.
Trước hết là các vệ tinh địa tĩnh. Hàng loạt các lĩnh vực chủ chốt đều có liên
quan đến vệ tinh như truyền hình, thông tin liên lạc, dự báo thời tiết Dẫn đường cũng
là một ứng dụng cơ bản và rộng rãi nhất dựa trên nền tảng vệ tinh. Hiện nay, dẫn đường
vệ tinh giúp định hướng cho các con tàu trên Đại Dương mênh mông, hỗ trợ máy bay
trên bầu trời bao la, nhưng phổ biến nhất lại là các ứng dụng trong xe hơi.
Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc dẫn đường chính là các vệ tinh, mà phổ biến
nhất là hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) và hệ thống dẫn
đường vệ tinh SAS (Satellite Navigation System). Các hệ thống này ban đầu do Bộ
Quốc phòng Mỹ xây dựng để phục vụ cho các mục đích quân sự, sau này đã mở rộng
ra các hoạt động dân sinh. Tại các nước phát triển như Mỹ và Tây Âu, người ta đã biết
đến lợi ích to lớn của GPS và SAS trong giao thông. Xe hơi có dẫn đường vệ tinh,
radio vệ tinh đã trở nên thông dụng với người tiêu dùng.
Ngoài các vệ tinh, để đảm bảo dẫn đường cho các phương tiện giao thông, nhất
thiết phải xây dựng cơ sở dữ liệu về đường sá và lưu trữ trong các thiết bị chuyên dụng.
Ở nước ta, do cơ sở dữ liệu giao thông vẫn chưa xây dựng được cũng như nhiều hạn
chế về công nghệ và kỹ thuật khác nên chưa thể ứng dụng dẫn đường vệ tinh trên xe
hơi được. Các mẫu xe đắt tiền ở Việt Nam hiện nay chưa có các chức năng dẫn đường
hoặc có nhưng sử dụng không được nhiều còn hạn chế.
Ngày nay các hệ thống dẫn đường vệ tinh trên xe hơi đang được nhiều
công ty đầu tư phát triển đảm bảo, dễ dàng vận hành cũng như giá thành hạ. Các
công ty như Sony, Alpine, Pioneer, Magellan, Clarion… đã trở thành tên tuổi
quen thuộc sản xuất các trang bị dẫn đường trên xe hơi.
Hệ thống dẫn đường trên xe hơi (Automotive Navigation System) là một
hệ thống dẫn đường vệ tinh được thiết kế để dùng trên xe hơi. Không giống như
GPS, hệ thống này sử dụng dữ liệu thu nhận để xác định vị trí của xe trên đường
đã được lưu sẵn trong cơ sở dữ liệu. Việc dẫn đường bằng la bàn cũng được bổ
sung thêm, sử dụng các dữ liệu về khoảng cách từ các cảm biến lắp trên hệ


thống truyền động và la bàn để tăng thêm độ tin cậy trong trường hợp tín hiệu GPS bị
mất hoặc nhiễu khi chạy trong các hẻm núi và trong hầm.
Honda là hãng đầu tiên đưa ra hệ thống dẫn đường trên xe hơi từ năm 1983,
chiếc Acura Legend năm 1990. Hệ thống analog này sử dụng các máy đo gia tốc để xác
định vị trí của xe, vì lúc đó GPS vẫn chưa ra đời. Hãng Pioneer đưa ra hệ thống dẫn
đường xe hơi đầu tiên dựa trên cơ sở GPS năm vào 1990. Magellan, một nhà sản xuất
hệ thống dẫn đường GPS, cũng cho ra mắt hệ thống dẫn đường xe hơi GPS tại thị
trường Mỹ năm 1995.
Hiện nay, các thiết bị dẫn đường thường được các hãng xe lắp theo một loại
trang bị tiêu chuẩn trên các mẫu xe đắt tiền. Trên các model thông thường, chức năng
dẫn đường vệ tinh là tùy chọn. Đối với những chiếc xe có tích hợp GPS tiêu chuẩn thì
có thể sử dụng ngay màn hình LCD để thực hiện các thao tác và quan sát đường đi.
Một máy tính trung tâm có dung lượng ổ cứng hoặc đầu đọc CD/DVD được dùng để
điều khiển và lưu trữ các cơ sở dữ liệu giao thông. Đối với các xe không có trang bị
dẫn đường vệ tinh, khách hàng vẫn có thể mua một bộ riêng để lắp. Chỉ cần đấu nối
nguồn và vài thao tác điều chỉnh đơn giản là có thể sử dụng được ngay.
Phần II
PS
trên C-
class
2007
mới.
GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU
GPS-LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GPS
GPS Global Positioning System là hệ thống xác định vị trí dựa trên vị trí của
các vệ tinh nhân tạo. Trong cùng một thời điểm, ở một vị trí trên mặt đất nếu xác định
được khoảng cách đến ba vệ tinh (tối thiểu) thì sẽ tính được tọa độ của vị trí đó.
GPS là hệ thống bao gồm các vệ tinh bay trên quỹ đạo, thu thập thông tin toàn
cầu và được xử lý bởi các trạm điều khiển trên mặt đất.
Năm 1978, nhằm mục đích thu thập các thông tin về tọa độ (vĩ độ và kinh độ),

độ cao và tốc độ của các cuộc hành quân, hướng dẫn cho pháo binh và các hạm đội,
Bộ Quốc phòng Mỹ đã phóng lên quỹ đạo trái đất 24 vệ tinh. Những vệ tinh trị giá
nhiều tỷ USD này bay phía trên trái đất ở độ cao 19.200 km, với tốc độ chừng 11.200
km/h, có nhiệm vụ truyền đi các tín hiệu radio tần số thấp tới các thiết bị thu nhận. Từ
những năm đầu thập kỷ 80, các nhà sản xuất lớn chú ý nhiều hơn đến đối tượng sử
dụng tư nhân. Trên các xe hơi hạng sang, những thiết bị trợ giúp cá nhân kỹ thuật số
PDA (Personal Digital Assistant) như Ipaq của hãng Compaq, được coi là một trang bị
tiêu chuẩn, thể hiện giá trị của chủ sở hữu.
24 vệ tinh của Bộ quốc phòng Mỹ nói trên, chỉ có 21 thực sự hoạt động, 3 vệ
tinh còn lại là hệ thống hỗ trợ. Tín hiệu radio được truyền đi thường không đủ mạnh để
thâm nhập vào các tòa nhà kiên cố, các hầm ngầm và hay tới các địa điểm dưới nước.
Ngoài ra nó còn đòi hỏi tối thiểu 4 vệ tinh để đưa ra được thông tin chính xác về vị trí
(bao gồm cả độ cao) và tốc độ của một vật. Vì hoạt động trên quỹ đạo, các vệ tinh đảm
bảo cung cấp vị trí tại bất kỳ điểm nào trên trái đất.
A.Các bộ phận chính của GPS:
1. Bộ phận người sử dụng (User Segment)
Bộ phận người sử dụng là người sử dụng và GPS ghi nhận. GPS ghi nhận là một
máy thu tín hiệu sóng vô tuyến đặc biệt. Nó được thiết kế để nghe tín hiệu sóng vô
tuyến được truyền từ các vệ tinh và tính toán vị trí dựa trên thông tin đó. GPS ghi nhận
có nhiều kích cỡ khác nhau và hình dáng khác nhau.
Tính chất và giá cả của GPS ghi nhận nói chung lệ thuộc vào chức năng mà bộ
phận thu nhận có ý định. Bộ phận thu nhận dùng cho ngành hàng hải và hàng không
thường sử dụng cho tính năng giao diện với thẻ nhớ chứa bản đồ đi biển. Bộ phận thu
nhận dùng cho bản đồ khả năng chính xác rất cao và có giao diện người sử dụng cho
phép ghi nhận dữ liệu nhanh chóng.
2. Bộ phận không gian (Space Segment)
Bộ phận không gian gồm các vệ tinh GPS mà nó truyền thời gian và vị trí tới
người sử dụng. Tập hợp tất cả các vệ tinh này được gọi là “chòm sao”.
2.1. Hệ thống NAVSTAR (Mỹ)
Hệ thống NAVSTAR gồm 24 vệ tinh với 6 quỹ đạo bay. Các vệ tinh này hoạt động

ở quỹ đạo có độ cao 20.200 km (10,900 nm) ở góc nghiêng 55 độ và với thời gian 12
giờ/quỹ đạo. Quỹ đạo bay không gian của các vệ tinh được sắp xếp để tối thiểu 5 vệ
tinh sẽ được người sử dụng nhìn thấy bao phủ toàn cầu, với vị trí chính xác hoàn toàn
(Position Dilution of Precision PDOP) của 6 vệ tinh hoặc ít hơn.
Mỗi vệ tinh truyền trên 2 band tần số L, L1 có tần số 1575.42 MHz và L2 có tần số
1227.6 MHz. Mỗi vệ tinh truyền trên cùng tần số xác định. Tuy nhiên, tín hiệu mỗi vệ
tinh thì thay đổi theo thời gian đến người sử dụng. L1 mang mã P (precise (P) code) và
mã C/A (coarse/acquisition (C/A) code). L2 chỉ mang mã P (P code).
Thông tin dữ liệu hàng hải được thêm các mã này. Thông tin dữ liệu hàng hải giống
nhau được mang cả 2 band tần số. Mã P thì thường được mã hoá vì thế chỉ mã C/A thì
có sẵn đến người sử dụng bình thường, một vài thông tin có thể nhận được từ mã P.
Khi mã hoá, mã P được hiểu như mã Y. Mỗi vệ tinh có 2 số nhận dạng. Đầu tiên là số
NAVSTAR với nhận dạng trên thiết bị vệ tinh đặc biệt. Thứ hai là số SV (the space
vehicle (SV) number). Số này được ấn định để ra lệch phóng vệ tinh. Thứ ba là số mã
tiếng âm thanh (the pseudo-random noise-PRN). Đây chỉ là số nguyên mà nó được sử
dụng để mã tín hiệu từ các vệ tinh đó. Một vài máy ghi nhận nhận biết vệ tinh mà
chúng đang ghi nhận từ mã SV, hoặc mã khác từ mã PRN.
2.2. Hệ thống GLONASS (Nga)
Hệ thống GLONASS gồm 24 vệ tinh, 8 vệ tinh cho một quỹ đạo bay gồm 3 quỹ
đạo. Các vệ tinh hoạt động với quỹ đạo có độ cao 19,100 km orbits ở góc nghiêng 64.8
độ và 11 giờ 15 phút/ quỹ đạo. Mỗi vệ tinh truyền trên 2 nhóm tần số L (two L
frequency groups). Nhóm L1 là tâm ở tần số 1609 MHz trong khi nhóm L2 được đăng
ký ở tần số 1251MHz. Mỗi vệ tinh truyền trên một cặp tần số duy nhất. Tín hiệu
GLONASS mang cả mã P (precise (P) code) và mã C/A (coarse/acquisition (C/A)
code). Mã P được mã hoá cho quân đội sử dụng trong khi đó mã C/A thì có sẵn cho
công dân sử dụng.
3. Bộ phận điều khiển (Control Segment)
Bộ phận điều khiển gồm toàn bộ thiết bị trên mặt đất được sử dụng để giám sát và
điều khiển các vệ tinh. Bộ phận này thường người sử dụng không nhìn thấy, nhưng đây
là bộ phận quan trọng của hệ thống. Bộ phận điều khiển NAVSTAR, được gọi là hệ

thống điều khiển hoạt động (operational control system (OCS)) gồm các trạm giám sát,
một trạm điều khiển chính (master control station (MCS)) và anten quay.
Các trạm giám thụ động không nhiều hơn GPS nhận mà đường bay của các vệ tinh
được nhìn thấy và do đó phạm vi tích luỹ dữ liệu từ tín hiệu vệ tinh. Có 5 trạm giám sát
thụ động, toạ lạc ở Colorado Springs, Hawaii, đảo Ascencion, Diego Garcia và
Kwajalein. Các trạm giám sát gởi dữ liệu thô về trạm MSC để xử lý.
Trạm MCS dược toạ lạc ở Falcon Air Force Base, cách 12 dặm về phía đông của
Colorado Springs, Colorado và được Mỹ quản lý. Air Force's 2nd Space Operations
Squadron (2nd SOPS). Trạm MCS nhận dữ liệu từ trạm giám sát trong thời gian 24
giờ/ngày và sử dụng thông tin này để xác định nếu các vệ tinh đang khoá hoặc lịch
thiên văn thay đổi và để phát hiện thiết bi trục trặc. Thông tin về tàu thuỷ di chuyển và
lịch thiên văn được tính toán từ tín hiệu giám sát và chuyển đến vệ tinh một lần hoặc
hai lần/ngày.
Thông tin tính toán bởi trạm MCS, cùng với các mệnh lệnh duy trì thường
xuyên được truyền bởi anten xoay trên mặt đất. Anten này toạ lạc tại đảo Ascencion,
Diego Garcia và Kwajalein. Anten có đủ phương tiện để truyền đến vệ tinh theo đường
liên kết sóng vô tuyến band S.
Thêm vào đó chức năng chính của trạm MCS duy trì 24 giờ hệ thống bản tin
điện tử với tình trạng và tin tức hệ thống sau cùng. Công dân liên lạc cho vấn đề này
với The United States Coast Guard's (USCG) Navigation Center (NAVCEN).
B. Hệ thống định vị toàn cầu GPS bao gồm 3 mảng:
1. Mảng người dùng: gồm người sử dụng và thiết bị thu GPS.
2. Mảng kiểm soát : bao gồm các trạm trên mặt đất, chia thành trạm trung tâm
và trạm con. Các trạm con, vận hành tự động, nhận thông tin từ vệ tinh, gửi tới cho
trạm chủ. Sau đó các trạm con gửi thông tin đã được hiệu chỉnh trở lại, để các vệ tinh
biết được vị trí của chúng trên quỹ đạo và thời gian truyền tín hiệu. Nhờ vậy, các vệ
tinh mới có thể đảm bảo cung cấp thông tin chính xác tuyệt đối vào bất kỳ thời điểm
nào.
3. Mảng còn lại gồm các vệ tinh: Hoạt động bằng năng lượng mặt trời, bay trên
quỹ đạo. Quãng thời gian tồn tại của chúng vào khoảng 10 năm và chi phí cho mỗi lần

thay thế lên đến hàng tỷ USD.
Một vệ tinh có thể truyền tín hiệu radio ở nhiều mức tần số thấp khác nhau,
được gọi là L1, L2 Những thiết bị nhận tín hiệu GPS thông thường bắt sóng L1, ở dải
tần số UHF 575,42 Mhz. Một đài phát thanh FM thường cần có công suất chừng
100.000 watt để phát sóng, nhưng một vệ tinh định vị toàn cầu chỉ đòi hỏi 20-50 watt
để đưa tín hiệu đi xa 19.200 km.
Tần số L1 chứa đựng 2 tín hiệu số (mã hoá bằng kỹ thuật số), được gọi là P-
code và C/A-code. Mã P nhằm bảo vệ thông tin khỏi những sự truy nhập trái phép. Tuy
nhiên, mục đích chính của các tín hiệu mã hóa là nhằm tính toán thời gian cần thiết để
thông tin truyền từ vệ tinh tới một thiết bị thu nhận trên mặt đất. Sau đó, khoảng cách
giữa 2 bên được tính bằng cách nhân thời gian cần thiết để tín hiệu đến nơi với tốc độ
của ánh sáng là 300.000 km/giây(khoảng cách = vận tốc x thời gian).
Tuy nhiên, tín hiệu có thể bị sai đôi chút khi đi qua bầu khí quyển. Vì vậy, kèm
theo thông điệp gửi tới các thiết bị nhận, các vệ tinh thường gửi kèm luôn thông tin về
quỹ đạo và thời gian. Việc sử dụng đồng hồ nguyên tử sẽ đảm bảo chính xác về sự
thống nhất thời gian giữa các thiết bị thu và phát.
Để biết vị trí chính xác của các vệ tinh, thiết bị nhận GPS còn nhận thêm 2 loại
tín hiệu mã hóa.
- Loại thứ nhất (được gọi là Almanac data) được cập nhật định kỳ và cho biết vị
trí gần đúng của các vệ tinh trên quỹ đạo. Nó truyền đi liên tục và được lưu trữ trong bộ
nhớ của thiết bị thu nhận khi các vệ tinh di chuyển quanh quỹ đạo.
- Tuy nhiên, phần lớn các vệ tinh có thể hơi di chuyển ra khỏi quỹ đạo chính của
chúng. Sự thay đổi này được ghi nhận bởi các trạm kiểm soát mặt đất. Việc sửa chữa
những sai số này là rất quan trọng và được đảm nhiệm bởi trạm chủ trên mặt đất, trước
khi thông báo lại cho các vệ tinh biết vị trí mới của chúng. Thông tin được sửa chữa
này được gọi là Ephemeris data. Kết hợp Almanac data và Ephemeris data, các thiết bị
nhận GPS biết chính xác vị trí của mỗi vệ tinh.
Hiện nay, nếu có bản đồ điện tử, nhiều thiết bị nhận GPS sẽ hiển thị rõ ràng vị
trí của bạn qua một màn hình, điều đó giúp cho việc định hướng trở nên cực kỳ thuận
lợi. Nhưng nếu tắt thiết bị nhận tín hiệu trong khoảng thời gian chừng 5 giờ đồng hồ,

nó sẽ mất đi các Almanac data (hay không còn nhận biết chính xác các vệ tinh trên quỹ
đạo trái đất). Khi hoạt động trở lại, thiết bị sẽ cần khoảng thời gian chừng 30 giây để
nạp lại thông tin về vị trí của vệ tinh, trước khi cho biết hiện thời bạn đang ở đâu.
C. Yếu tố có thể ảnh hưởng đến hoạt động của GPS:
- Khi các vệ tinh ở quá gần nhau, chúng sẽ khiến cho việc xác định một vị trí
chính xác trở nên khó khăn hơn.
- Vì tín hiệu radio đi từ vệ tinh xuyên qua tầng điện ly và tầng đối lưu, tốc độ
cần thiết để tín hiệu truyền tới thiết bị nhận sẽ bị chậm đi. Hệ thống GPS có dự phòng
điều đó bằng cách tính thêm khoảng thời gian chậm trễ trung bình, nhưng cũng không
được hoàn toàn chính xác.
- Chướng ngại lớn như các dãy núi hay các toà nhà cao tầng cũng làm cho thông
tin bị sai lệch.
- Giữa thiết bị nhận (nhất là của người dùng cá nhân) với vệ tinh (có thể không
hoàn toàn trùng khớp về mặt thời gian, và các vệ tinh đôi khi chạy lệch khỏi quỹ đạo
Phần III
HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG ĐỊNH VỊ GPS
Các vệ tinh GPS bay vòng quanh Trái Đất hai lần trong một ngày theo một quỹ
đạo rất chính xác và phát tín hiệu có thông tin xuống Trái Đất. Các máy thu GPS nhận
thông tin này và bằng các phép tính lượng giác tính được chính xác vị trí của người
dùng. Về bản chất máy thu GPS so sánh thời gian tín hiệu được phát đi từ vệ tinh với
thời gian nhận được chúng. Sai lệch về thời gian cho biết máy thu GPS ở cách vệ tinh
bao xa. Rồi với nhiều quãng cách đo được tới nhiều vệ tinh máy thu có thể tính được vị
trí của người dùng và hiển thị lên bản đồ điện từ của máy.
Máy thu GPS phải khoá được với tín hiệu của ít nhất ba vệ tinh để tính ra vị trí
hai chiều (kinh độ và vĩ độ) và để theo dõi được chuyển động. Với bốn hay nhiều hơn
số vệ tinh trong tầm nhìn thì máy thu có thể tính được vị trí ba chiều (kinh độ, vĩ độ và
độ cao). Một khi vị trí người dùng đã tính được thì máy thu GPS có thể tính các thông
tin khác, như tốc độ, hướng chuyển động, bám sát di chuyển, khoảng hành trình, quãng
cách tới điểm đến, thời gian Mặt Trời mọc, Mặt Trời lặn và nhiều thứ khác nữa.
Các máy thu GPS ngày nay cực kì chính xác, nhờ vào thiết kế nhiều kênh hoạt

động song song của chúng. Các máy thu 12 kênh song song (như của Garmin) nhanh
chóng khoá vào các vệ tinh khi mới bật lên và chúng duy trì chắc chắn liên hệ này,
thậm chí trong tán lá rậm rạp hoặc thành phố với các toà nhà cao tầng. Tình trạng nhất
định của khí quyển và các nguồn gây sai số khác có thể ảnh hưởng tới độ chính xác của
máy thu GPS. Các máy thu GPS có độ chính xác trung bình trong vòng 15 mét.
Các máy thu mới hơn với khả năng WAAS (Wide Area Augmentation
System) có thể tăng độ chính xác trung bình tới dưới 3 mét. Không cần thêm thiết bị
hay mất phí để có được lợi điểm của WAAS. Người dùng cũng có thể có độ chính xác
tốt hơn với DGPS (Differential GPS,) có khả năng sửa lỗi các tín hiệu GPS để có độ
chính xác trong khoảng 3 đến 5 mét. Cục Phòng vệ Bờ biển Mỹ vận hành dịch vụ sửa
lỗi này. Hệ thống bao gồm một mạng các đài thu tín hiệu GPS và phát tín hiệu đã sửa
lỗi bằng các máy phát hiệu. Để thu được tín hiệu đã sửa lỗi, người dùng phải có máy
thu tín hiệu vi sai bao gồm cả ăn-ten để dùng với máy thu GPS.
Cơ bản, GPS sử dụng nguyên tắc hướng thẳng tương đối của hình học
và lượng giác học. Mỗi vệ tinh truyền liên tục dữ liệu quỹ đạo cho tất cả các chòm sao
vệ tinh cộng thêm dữ liệu đến kịp thời và thông tin khác. Do đó, mỗi GPS nhận
(receiver) liên tục truy cập dữ liệu quỹ đạo chính xác từ vị trí của tất cả vệ tinh có thể
tính toán bằng các vi mạch có trên tất cả các GPS nhận. Từ đó tín hiệu hoặc sóng vô
tuyến di chuyển ở vận tốc hằng số, GPS nhận có thể tính toán khoảng cách liên quan từ
GPS đến các vệ tinh khác mà nó có thể nghe bằng cách so sánh dữ liệu thời gian được
truyền bằng các vệ tinh.
Hầu hết GPS nhận có thể đo vị trí của nó (kinh vĩ độ) khi đó GPS có thể
ấn định ít nhất 3 vệ tinh và sẽ cung cấp giá trị độ cao (so với mặt nước biển) với ít nhất
4 vệ tinh.
A. GPS Chính xác như thế nào?
Lý thuyết cố hữu về độ chính xác của GPS không quá 10m (<= 30 feet). Tuy
nhiên, để bảo mật lý do an toàn quốc gia, Bộ Quốc phòng Mỹ (the United State
Department Defense), cho chính hệ thống vệ tinh GPS, thường giới hạn độ chính xác
có thể đạt được bởi người sử dụng. Thực tế chỉ rõ hiệu suất sai số của máy sẽ không
quá 100m (khoảng 300 feet). Thực sự thông tin vị trí kinh vĩ độ đã hiển thị trên GPS

nhận sẽ sai số không quá 120 đến 180 feet.
S/A Dithering
Độ chính xác được giới hạn bởi tiến trình chính thức được biết như Selective
Availability (S/A) và gọi chung là nhiễu ("dithering"). Điều này được thực hiện bởi dữ
liệu thời gian đã truyền bởi vệ tinh ở mức độ nhỏ vì vậy kết quả tính toán vị trí dao
động xung quanh sai số nhỏ này. Đây là tiến trình ngẫu nhiên quá đơn giản giá trị trung
bình sẽ không loại bỏ toàn bộ sai số gây ra. Đơn vị bộ đội chặn lại bằng một thuật toán
máy tính (có nghĩa là chương trình) để chống lại hoặc hiệu chỉnh nhiễu. Đây được gọi
là mã P (P-Code).
Cao độ (Elevation)
Thông tin chính xác về cao độ cung cấp bởi GPS là thông tin vị trí trên bề mặt
(toạ độ kinh vĩ độ). Điều này tuỳ thuộc vào địa hình tới vệ tinh, khi các vệ tinh thường
ít hoặc nhiều hơn trên bầu trời, góc thu nhận dốc đứng.
Vận tốc (Speed)
Ở vận tốc dưới 2 dặm/giờ, ảnh hưởng nhiễu là ảnh hưởng đo vận tốc cung cấp
bở GPS; tuy nhiên, ở vận tốc nhanh hơn, ảnh hưởng của nhiễu thì không đáng kể khi
nhiễu dần dần rời rạc.
Vận hành sử dụng GPS
Hệ thống bản vẽ GPS được sử dụng cho các ứng dụng khác nhau. Chúng tạo và cập
nhật cơ sở dữ liệu GIS trong rất nhiều các lĩnh vực như khoa học tài nguyên thiên
nhiên, phân tích và phát triển đô thị, nông nghiệp và khoa học xã hội. Vị trí, thời gian
và thông tin thuộc tính được thu thập bằng cách đi bộ, xe đạp, xe môtô và máy bay
xung quanh các vị trí quan tâm.
• Ngành hàng hải (Navigation) - được sử dụng chính cho tàu thuỷ và hải phận trên
không nhưng phải có sự giám sát ở mặt đất
• Giám sát vi sai (Differential Surveying) (Real time digitizing)- được sử dụng mở
rộng cho mục đích giám sát như qui hoạch vùng.
• GPS có thể sử dụng cho cả việc xây dựng bản đồ và các vị trí mới có sẵn trên
bản đồ.
• Ứng dụng trong nông nghiệp (Agricultural Applications) – trong quản lý sâu

bệnh (Pest management): ứng dụng chính xác thuốc trừ sâu cho cây trồng.
Thu thập dữ liệu GPS cho GIS
GPS là công cụ hoàn hảo thu thập dữ liệu cho việc xây dựng và bảo quản GIS.
Có một vài vấn đề đặc biệt được nhận thấy khi sử dụng GPS để thu thập dữ liệu cho
GIS. Chúng ta phải xác định thu thập cái gì, khi nào và ở đâu để thu thập dữ liệu và thu
thập dữ liệu như thế nào?.
Xác định tọa độ một điểm:
Ðể xác định được toạ độ của một điểm thì GPS phải đo được khoảng cách tới ít
nhất 4 vệ tinh và vị trí của các vệ tinh.
- GPS nhận được hai loại thông tin dạng mã từ vệ tinh, đó là “almanac” và
“ephemeric”:
+ Dữ liệu “almanac”: cho biết vị trí của những vệ tinh ở gần nhau, dữ liệu này
được truyền tải và lưu trữ trong bộ nhớ GPS và được cập nhật thường xuyên khi vệ tinh
bay.
+ Dữ liệu “ephemeric”: bao gồm quỹ đạo bay, độ cao, vị trí và tốc độ bay của
mỗi vệ tinh (lịch thiên văn)
Khi GPS nhận được hai loại thông tin này sẽ xác định được vị trí của các vệ
tinh.
- Bên cạnh đó GPS cần phải biết khoảng cách từ các vệ tinh đến vị trí cần xác
định trên mặt đất, bằng công thức:
s = v * t
s: khoảng cách
v: vận tốc
t: thời gian
Trong công thức này ta chỉ xác định yếu tố thời gian vì vận tốc đường truyền tín
hiệu bằng với vận tốc ánh sáng (300.000 km/s)
Thời gian được tính từ lúc vệ tinh truyền tín hiệu đến khi GPS nhận được tín
hiệu.
Khi đó GPS sẽ tính được toạ độ tại một điểm bằng phương pháp giao hội cạnh
trong không gian.

Một nhận GPS tính toán chính xác vị trí của nó bằng cách đặt thời gian các tín
hiệu được gửi bằng vệ tinh GPS cao trên Trái Đất. Mỗi vệ tinh liên tục truyền thông
điệp đó bao gồm :
• Đồng thời thông báo đã được gửi
• Chính xác quỹ đạo thông tin (các Ephemeris)
• Các hệ thống y tế nói chung và quỹ đạo thô của tất cả các vệ tinh GPS (niên
lịch).
Các biện pháp thu trong thời gian quá cảnh của mỗi thư và tính khoảng
cách để mỗi vệ tinh. Trilateration Geometric được sử dụng để kết hợp với các khoảng
cách địa điểm của các vệ tinh để có được vị trí của người nhận. Vị trí này sau đó sẽ
hiển thị, có lẽ với một hiển thị bản đồ di chuyển hoặc vĩ độ và kinh độ; thông tin về độ
cao có thể được bao gồm. GPS Nhiều đơn vị cũng cho thấy nguồn gốc thông tin như
hướng và tốc độ, tính từ thay đổi vị trí.
Ba vệ tinh có thể có vẻ đủ để giải quyết cho vị trí, vì không gian có ba chiều.
Tuy nhiên, ngay cả một lỗi rất nhỏ đồng hồ nhân với tốc độ rất lớn của ánh sáng độ
truyền tín hiệu vệ tinh kết quả trong một lỗi định vị lớn. Vì vậy, thu sử dụng bốn hoặc
nhiều vệ tinh để giải quyết cho vị trí của máy thu và thời gian. Việc tính toán thời gian
rất chính xác là có hiệu quả tiềm ẩn do hầu hết các ứng dụng GPS, mà chỉ sử dụng địa
điểm. Một vài ứng dụng chuyên biệt GPS làm tuy nhiên thời gian sử dụng, bao gồm
những chuyển giao thời gian, thời gian tín hiệu giao thông, và đồng bộ hóa các trạm
điện thoại di động cơ.
Mặc dù bốn vệ tinh được yêu cầu cho các hoạt động bình thường, ít áp
dụng trong trường hợp đặc biệt. Nếu biến nhất là đã biết, một người nhận có thể xác
định vị trí của nó chỉ sử dụng ba vệ tinh. (Ví dụ, một con tàu hoặc máy bay có thể có
độ cao được biết đến) Một số máy thu GPS. Manh mối có thể sử dụng thêm hoặc giả
định (chẳng hạn như sử dụng lại các độ cao được biết đến cuối, reckoning chết, dẫn
đường quán tính, hoặc bao gồm thông tin từ máy tính của xe) để cho một suy thoái vị
trí khi ít hơn bốn vệ tinh có thể nhìn thấy.
Các hệ thống dẫn đường truyền thống hoạt động dựa trên các trạm phát tín hiệu
vô tuyến điện. Được biết đến nhiều nhất là các hệ thống sau: LORAN – (LOng RAnge

Navigation) – hoạt động ở giải tần 90-100 kHz chủ yếu dùng cho hàng hải, hay
TACAN – (TACtical Air Navigation) – dùng cho quân đội Mỹ và biến thể với độ chính
xác thấp VOR/DME – VHF (Omnidirectional Range/Distance Measuring Equipment)
– dùng cho hàng không dân dụng.
Gần như đồng thời với lúc Mỹ phát triển GPS, Liên Xô cũng phát triển một hệ
thống tương tự với tên gọi GLONASS. Hiện nay Liên minh Châu Âu đang phát triển
hệ dẫn đường vệ tinh của mình mang tên Galileo.
Ban đầu, GPS và GLONASS đều được phát triển cho mục đích quân sự, nên
mặc dù chúng dùng được cho dân sự nhưng không hệ nào đưa ra sự đảm bảo tồn tại
liên tục và độ chính xác. Vì thế chúng không thỏa mãn được những yêu cầu an toàn cho
dẫn đường dân sự hàng không và hàng hải, đặc biệt là tại những vùng và tại những thời
điểm có hoạt động quân sự của những quốc gia sở hữu các hệ thống đó. Chỉ có hệ
thống dẫn đường vệ tinh châu Âu Galileo (đang được xây dựng) ngay từ đầu đã đặt
mục tiêu đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của dẫn đường và định vị dân sự.
Các vệ tinh GPS bay vòng quanh Trái Đất hai lần trong một ngày theo một quỹ
đạo rất chính xác và phát tín hiệu có thông tin xuống Trái Đất. Các máy thu GPS nhận
thông tin này và bằng phép tính lượng giác tính được chính xác vị trí của người dùng.
Về bản chất máy thu GPS so sánh thời gian tín hiệu được phát đi từ vệ tinh với thời
gian nhận được chúng. Sai lệch về thời gian cho biết máy thu GPS ở cách vệ tinh bao
xa. Rồi với nhiều quãng cách đo được tới nhiều vệ tinh máy thu có thể tính được vị trí
của người dùng và hiển thị lên bản đồ điện tử của máy.
Máy thu phải nhận được tín hiệu của ít nhất ba vệ tinh để tính ra vị trí hai chiều
(kinh độ và vĩ độ) và để theo dõi được chuyển động. Khi nhận được tín hiệu của ít nhất
4 vệ tinh thì máy thu có thể tính được vị trí ba chiều (kinh độ, vĩ độ và độ cao). Một khi
vị trí người dùng đã tính được thì máy thu GPS có thể tính các thông tin khác, như tốc
độ, hướng chuyển động, bám sát di chuyển, khoảng hành trình, quãng cách tới điểm
đến, thời gian Mặt Trời mọc, lặn và nhiều thứ khác nữa.
Các máy thu GPS ngày nay cực kì chính xác, nhờ vào thiết kế nhiều kênh hoạt
động song song của chúng. Các máy thu 12 kênh song song (của Garmin) nhanh chóng
khóa vào các quả vệ tinh khi mới bật lên và chúng duy trì kết nối bền vững, thậm chí

trong tán lá rậm rạp hoặc thành phố với các toà nhà cao tầng. Trạng thái của khí quyển
và các nguồn gây sai số khác có thể ảnh hưởng tới độ chính xác của máy thu GPS. Các
máy thu GPS có độ chính xác trung bình trong vòng 15 mét.
Các máy thu mới hơn với khả năng WAAS (Wide Area Augmentation System)
có thể tăng độ chính xác trung bình tới dưới 3 mét. Không cần thêm thiết bị hay mất
phí để có được lợi điểm của WAAS. Người dùng cũng có thể có độ chính xác tốt hơn
với GPS Vi sai (Differential GPS, DGPS) sửa lỗi các tín hiệu GPS để có độ chính xác
trong khoảng 3 đến 5 mét. Cục Phòng vệ Bờ biển Mỹ vận hành dịch vụ sửa lỗi này. Hệ
thống bao gồm một mạng các đài thu tín hiệu GPS và phát tín hiệu đã sửa lỗi bằng các
máy phát hiệu. Để thu được tín hiệu đã sửa lỗi, người dùng phải có máy thu tín hiệu vi
sai bao gồm cả ăn-ten để dùng với máy thu GPS của họ.
B. Hệ thống vệ tinh GPS chia làm 3 phần:
1. Phần không gian.
Gồm 24 quả vệ tinh (21 vệ tinh hoạt động và 3 vệ tinh dự phòng) nằm trên các
quỹ đạo xoay quanh trái đất. Chúng cách mặt đất 12 nghìn dặm. Chúng chuyển động
ổn định, hai vòng quỹ đạo trong khoảng thời gian gần 24 giờ. Các vệ tinh này chuyển
động với vận tốc 7 nghìn dặm một giờ. Các vệ tinh trên quỹ đạo được bố trí sao cho các
máy thu GPS trên mặt đất có thể nhìn thấy tối thiểu 4 vệ tinh vào bất kỳ thời điểm nào.
Các vệ tinh được cung cấp bằng năng lượng Mặt Trời. Chúng có các nguồn pin
dự phòng để duy trì hoạt động khi chạy khuất vào vùng không có ánh sáng Mặt Trời.
Các tên lửa nhỏ gắn ở mỗi quả vệ tinh giữ chúng bay đúng quỹ đạo đã định.
2. Phần kiểm soát.
Mục đích trong phần này là kiểm soát vệ tinh đi đúng hướng theo quỹ đạo và
thông tin thời gian chính xác. Có tất cả 5 trạm kiểm soát được đặt rãi rác trên trái đất.
Bốn trạm kiểm soát hoạt động một cách tự động, và một trạm kiểm soát là trung tâm.
Bốn trạm này nhận tín hiệu liên tục từ những vệ tinh và gữi các thông tin này đến trạm
kiểm soát trung tâm. Tại trạm kiểm soát trung tâm, nó sẽ sửa lại data cho đúng và kết
hợp với hai anten khác để gữi lại thông tin cho các vệ tinh.
3. Phần sử dụng
Phần sử dụng là thiết bị nhận tín hiệu vệ tinh GPS và người sử dụng thiết bị này.

Dưới đây là một số thông tin đáng chú ý về các vệ tinh GPS (còn gọi là
NAVSTAR, tên gọi chính thức của Bộ Quốc phòng Mỹ cho GPS):
• Vệ tinh GPS đầu tiên được phóng năm 1978.
• Hoàn chỉnh đầy đủ 24 vệ tinh vào năm 1994.
• Mỗi vệ tinh được làm để hoạt động tối đa là 10 năm.
• Vệ tinh GPS có trọng lượng khoảng 1500 kg và dài khoảng 17 feet (5 m) với các
tấm năng lượng Mặt Trời mở (có độ rộng 7 m²).
• Công suất phát bằng hoặc dưới 50 watts.
Tín hiệu GPS
Các vệ tinh GPS phát hai tín hiệu vô tuyến công suất thấp giải L1 và L2. (Giải L
là phần sóng cực ngắn của phổ điện từ trải rộng từ 0,39 tới 1,55 GHz). GPS dân sự
dùng tần số L1 1575.42 MHz trong giải UHF. Tín hiệu truyền trực thị, có nghĩa là
chúng sẽ xuyên qua mây, thuỷ tinh và nhựa nhưng không qua phần lớn các đối tượng
cứng như núi và nhà.
L1 chứa hai mã "giả ngẫu nhiên"(pseudo random), đó là mã Protected (P) và mã
Coarse/Acquisition (C/A). Mỗi một vệ tinh có một mã truyền dẫn nhất định, cho phép
máy thu GPS nhận dạng được tín hiệu. Mục đích của các mã tín hiệu này là để tính
toán khoảng cách từ vệ tinh đến máy thu GPS.
Tín hiệu GPS chứa ba mẩu thông tin khác nhau – mã giả ngẫu nhiên, dữ liệu
thiên văn và dữ liệu lịch. Mã giả ngẫu nhiên đơn giản chỉ là mã định danh để xác định
được quả vệ tinh nào là phát thông tin nào. Có thể nhìn số hiệu của các quả vệ tinh trên
trang vệ tinh của máy thu Garmin để biết nó nhận được tín hiệu của quả nào.
Dữ liệu thiên văn cho máy thu GPS biết quả vệ tinh ở đâu trên quỹ đạo ở mỗi
thời điểm trong ngày. Mỗi quả vệ tinh phát dữ liệu thiên văn chỉ ra thông tin quỹ đạo
cho vệ tinh đó và mỗi vệ tinh khác trong hệ thống.
Dữ liệu lịch được phát đều đặn bởi mỗi quả vệ tinh, chứa thông tin quan trọng
về trạng thái của vệ tinh (lành mạnh hay không), ngày giờ hiện tại. Phần này của tín
hiệu là cốt lõi để phát hiện ra vị trí.
Nguồn lỗi của tín hiệu GPS
Những yếu tố có thể làm giảm tín hiệu GPS và vì thế ảnh hưởng tới chính xác

bao gồm:
• Giữ chậm của tầng đối lưu và tầng ion – Tín hiệu vệ tinh bị chậm đi khi xuyên
qua tầng khí quyển.
• Tín hiệu đi nhiều đường – Điều này xảy ra khi tín hiệu phản xạ từ nhà hay các
đối tượng khác trước khi tới máy thu.
• Lỗi đồng hồ máy thu – Đồng hồ có trong máy thu không chính xác như đồng hồ
nguyên tử trên các vệ tinh GPS.
• Lỗi quỹ đạo – Cũng được biết như lỗi thiên văn, do vệ tinh thông báo vị trí
không chính xác.
• Số lượng vệ tinh nhìn thấy – Càng nhiều quả vệ tinh được máy thu GPS nhìn
thấy thì càng chính xác. Nhà cao tầng, địa hình, nhiễu loạn điện tử hoặc đôi khi
thậm chí tán lá dầy có thể chặn thu nhận tín hiệu, gây lỗi định vị hoặc không
định vị được. Nói chung máy thu GPS không làm việc trong nhà, dưới nước
hoặc dưới đất.
• Che khuất về hình học – Điều này liên quan tới vị trí tương đối của các vệ tinh ở
thời điểm bất kì. Phân bố vệ tinh lí tưởng là khi các quả vệ tinh ở vị trí tạo các
góc rộng với nhau. Phân bố xấu xảy ra khi các quả vệ tinh ở trên một đường
thẳng hoặc cụm thành nhóm.
• Sự giảm có chủ tâm tín hiệu vệ tinh – Là sự làm giảm tín hiệu cố ý do sự áp đặt
của Bộ Quốc phòng Mỹ, nhằm chống lại việc đối thủ quân sự dùng tín hiệu GPS
chính xác cao. Chính phủ Mỹ đã ngừng việc này từ tháng 5 năm 2000, làm tăng
đáng kể độ chính xác của máy thu GPS dân sự. (Tuy nhiên biện pháp này hoàn
toàn có thể được sử dụng lại trong những điều kiện cụ thể để đảm bảo gậy ông
không đập lưng ông. Chính điều này là tiềm ẩn hạn chế an toàn cho dẫn đường
và định vị dân sự.)
Một vệ tinh có thể truyền tín hiệu radio ở nhiều mức tần số thấp khác nhau,
được gọi là L1, L2 Những thiết bị nhận tín hiệu GPS thông thường bắt sóng L1, ở dải
tần số UHF 575,42 Mhz. Một đài phát thanh FM thường cần có công suất chừng
100.000 watt để phát sóng, nhưng một vệ tinh định vị toàn cầu chỉ đòi hỏi 20-50 watt
để đưa tín hiệu đi xa 19.200 km. Tần số L1 chứa đựng 2 tín hiệu số (mã hoá bằng kỹ

thuật số), được gọi là P-code và C/A-code. Mã P nhằm bảo vệ thông tin khỏi những sự
truy nhập trái phép. Tuy nhiên, mục đích chính của các tín hiệu mã hóa là nhằm tính
toán thời gian cần thiết để thông tin truyền từ vệ tinh tới một thiết bị thu nhận trên mặt
đất. Sau đó, khoảng cách giữa 2 bên được tính bằng cách nhân thời gian cần thiết để tín
hiệu đến nơi với tốc độ của ánh sáng là 300.000 km/giây(khoảng cách = vận tốc x thời
gian). Tuy nhiên, tín hiệu có thể bị sai đôi chút khi đi qua bầu khí quyển. Vì vậy, kèm
theo thông điệp gửi tới các thiết bị nhận, các vệ tinh thường gửi kèm luôn thông tin về
quỹ đạo và thời gian. Việc sử dụng đồng hồ nguyên tử sẽ đảm bảo chính xác về sự
thống nhất thời gian giữa các thiết bị thu và phát. Để biết vị trí chính xác của các vệ
tinh, thiết bị nhận GPS còn nhận thêm 2 loại tín hiệu mã hóa. - Loại thứ nhất (được gọi
là Almanac data) được cập nhật định kỳ và cho biết vị trí gần đúng của các vệ tinh trên
quỹ đạo. Nó truyền đi liên tục và được lưu trữ trong bộ nhớ của thiết bị thu nhận khi
các vệ tinh di chuyển quanh quỹ đạo. - Tuy nhiên, phần lớn các vệ tinh có thể hơi di
chuyển ra khỏi quỹ đạo chính của chúng. Sự thay đổi này được ghi nhận bởi các trạm
kiểm soát mặt đất. Việc sửa chữa những sai số này là rất quan trọng và được đảm
nhiệm bởi trạm chủ trên mặt đất, trước khi thông báo lại cho các vệ tinh biết vị trí mới
của chúng. Thông tin được sửa chữa này được gọi là Ephemeris data. Kết hợp Almanac
data và Ephemeris data, các thiết bị nhận GPS biết chính xác vị trí của mỗi vệ tinh.
Hiện nay, nếu có bản đồ điện tử, nhiều thiết bị nhận GPS sẽ hiển thị rõ ràng vị
trí của bạn qua một màn hình, điều đó giúp cho việc định hướng trở nên cực kỳ thuận
lợi. Nhưng nếu tắt thiết bị nhận tín hiệu trong khoảng thời gian chừng 5 giờ đồng hồ,
nó sẽ mất đi các Almanac data (hay không còn nhận biết chính xác các vệ tinh trên quỹ
đạo trái đất). Khi hoạt động trở lại, thiết bị sẽ cần khoảng thời gian chừng 30 giây để
nạp lại thông tin về vị trí của vệ tinh, trước khi cho biết hiện thời bạn đang ở đâu. Hoạt
động của GPS có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: - Khi các vệ tinh ở quá gần
nhau, chúng sẽ khiến cho việc xác định một vị trí chính xác trở nên khó khăn hơn. - Vì
tín hiệu radio đi từ vệ tinh xuyên qua tầng điện ly và tầng đối lưu, tốc độ cần thiết để
tín hiệu truyền tới thiết bị nhận sẽ bị chậm đi. Hệ thống GPS có dự phòng điều đó bằng
cách tính thêm khoảng thời gian chậm trễ trung bình, nhưng cũng không được hoàn
toàn chính xác. - Chướng ngại lớn như các dãy núi hay các toà nhà cao tầng cũng làm

cho thông tin bị sai lệch. - Giữa thiết bị nhận (nhất là của người dùng cá nhân) với vệ
tinh (có thể không hoàn toàn trùng khớp về mặt thời gian, và các vệ tinh đôi khi chạy
lệch khỏi quỹ đạo. X.O.
Phần IV
GPS ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Hệ thống này gồm 27 vệ tinh nhân tạo, chạy bằng năng lượng mặt trời,
chuyển động quanh Trái đất hai lần trong một ngày theo một quỹ đạo chính xác và phát
tín hiệu xuống Trái đất. Bất cứ vị trí nào trên trái đất sẽ được tối thiểu ba vệ tinh nhìn
thấy và máy thu tín hiệu GPS trên trái đất so sánh thời gian phát và nhận tín hiệu để
tính được khoảng cách đến ba vệ tinh này, từ đó xác định được tọa độ của mình. GPS
hoạt động suốt ngày trong mọi điều kiện thời tiết, với sai số khoảng 5 đến 10m (đây là
cấp độ 3 mà chính phủ Mỹ cho phép trong dân sự).
GPS và công nghệ dẫn đường trên ôtô Hiện nay, ngoài GPS duy nhất đã hơn 20
năm qua, Liên minh châu Âu đang tiến hành dự án hệ thống định vị Galileo. Hệ thống
này do tổ chức phi quân sự điều hành, dự định sẽ chính thức hoạt động vào tháng 12-
2011, cung cấp các dịch vụ với độ chính xác khác nhau tùy thuộc các đối tượng khác
nhau. Một hệ thống khác của Liên bang Nga là GLONASS (Global’naya
Navigatsionnaya Sputnikovaya Sistema) cũng được xây dựng đã khá lâu cho mục đích
quân sự, tuy nhiên vào thời điểm này số lượng vệ tinh vẫn chưa đủ để bao phủ toàn bộ
bề mặt Trái đất. Tổng thống V. Putin đã yêu cầu hệ định vị toàn cầu này phải hoàn tất
vào năm 2010 và cuối năm 2006, Bộ trưởng Quốc phòng Nga đã thông báo trong tương
lai GLONASS sẽ được ứng dụng cho dân sự. Như vậy GPS của Mỹ hiện vẫn là hệ
thống duy nhất được sử dụng khá phổ biến trên ôtô làm phương tiện dẫn đường ở các
nước châu Âu, châu Mỹ và Úc. Hệ thống dẫn đường trên ôtô sử dụng một màn hình,
một thiết bị thu phát sóng, một bản đồ số với đầy đủ thông tin dữ liệu đường phố, nhà
cừa, cầu đường, sông ngòi, kênh rạch, rừng núi xây dựng từ những khảo sát thực tế
và kết hợp phần mềm xử lý để thể hiện sống động hình ảnh con đường, giúp người sử
dụng xác định được vị trí xe trên bản đồ, biết lộ trình đường đi đến điểm được chọn,
thông báo rõ số km cách điểm đến, vận tốc đang đi và vận tốc trung bình, báo đường
cấm, đường một chiều Thông qua một trạm quản lý trung tâm các lái xe còn được

thông báo điểm kẹt xe, có hỏa hoạn hay tai nạn gần đó không để tránh. Hiện nay, hãng
GM đang nghiên cứu phát triển hệ thống giao tiếp giữa xe và xe, sử dụng GPS để các
xe bắt tín hiệu với nhau, nhận biết khi có xe đến gần trong phạm vi nào đó. Hệ thống
này sẽ hỗ trợ tốt cho xe khi chuyển làn đường, đỗ xe và di chuyển tại nơi đông đúc để
tránh va chạm.
Vietmap ứng dụng GPS trên ôtô tại Việt Nam Tại Việt Nam, hệ thống định vị
toàn cầu GPS từ lâu đã được ứng dụng cho các công việc kiểm lâm, cứu nạn. Các thiết
bị thu phát sóng vệ tinh được sử dụng là Tomtom (Đan Mạch), Garmin, Holux (Đài
Loan) , tuy nhiên chỉ dừng ở mức độ thu nhận thông tin về kinh độ, vĩ độ và cao độ vì
chưa được tích hợp bản đồ số Việt Nam. Thời gian gần đây, việc tạo lập bản đồ số đã
có kết quả và trên thị trường xuất hiện một số thiết bị dẫn đường dành cho ôtô trong
giai đoạn vừa thăm dò vừa hoàn thiện sản phẩm. Cách đây hơn hai năm, khi còn là sinh
viên khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Nguyễn Tư Triều đã
bắt tay xây dựng phần mềm bản đồ số ứng dụng trên máy PDA để làm đề tài tốt
nghiệp. Xuất phát từ mong muốn Việt Nam cũng phải có sản phẩm hữu ích đó do chính
người Việt làm, anh đã bỏ công sức và tâm huyết cho đề tài này và tiếp tục phát triển
nó sau khi ra trường. Anh đưa toàn bộ sản phẩm của mình chia sẻ miễn phí trên mạng
và được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Một phiên bản mới của anh vào năm ngoái đã
ứng dụng được trên ôtô, ngoài việc tìm địa điểm, địa danh, tìm lộ trình ngắn nhất còn

×