Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

các bệnh dinh dưỡng của trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.24 KB, 22 trang )

1

BỆNH SUY DINH DƯỠNG

1. Thế nào là suy dinh dưỡng?
Suy dinh dưỡng (SDD) là một tình trạng bệnh, có khá nhiều ở trẻ em nước
ta. Trước đây, có thời gian ở một số địa phương, số trẻ em SDD lên tới trên 50%
tổng số trẻ. Ngày nay, do nhiều cố gắng chung, tỷ lệ đó đã giảm xuống. Tuy
nhiên trẻ SDD vẫn còn khá nhiều, và vẫn là một mối quan tâm lớn của xã hội.

Trẻ SDD là trẻ mà trong cơ thể thiếu chất dinh dưỡng, do đó thường là gầy
ốm, xanh xao, yếu đuối và chậm lớn.

SDD ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển về mọi mặt của trẻ. Trẻ SDD
không những chỉ chậm phát triển về cơ thể, mà còn chậm phát triển về trí tuệ. Vì
vậy, nếu trẻ bị SDD kéo dài thì không những không thể cao lớn, khỏe mạnh khi
lớn lên, mà còn không thể trở nên thông minh nhanh nhẹn trong tương lai được.

Một điều rất quan trọng nữa là ở trẻ SDD, sức đề kháng chống lại bệnh tật
bị giảm sút nghiêm trọng. Do đó, trẻ SDD rất dễ bị bệnh, nhất là các bệnh nhiễm
trùng. Và khi đã mắc bệnh, thì thường bệnh rất dễ trở nặng. Cho nên, phần lớn
các trẻ bị các bệnh thông thường như viêm phế quản, viêm phổi, tiêu chảy… mà
chết là do đã có SDD kèm theo.

Vì những lý do trên, hiện nay SDD vẫn được coi là một trong những bệnh
tai hại nhất đối với trẻ em nước ta.

2. Khi bị SDD, trẻ sẽ có những biểu hiện gì ?
Tùy theo mức độ nặng nhẹ, trẻ SDD sẽ có các biểu hiện như sau: Thoạt
đầu, khi mới bị SDD, triệu chứng thường không rõ ràng, ít gây chú ý của bà mẹ :
trẻ vẫn chơi, vẫn có vẻ bình thường, nhưng mất dần vẻ bụ bẫm và sụt cân dần.



Tiếp theo đó, ta sẽ thấy các bắp thịt ở cánh tay, ở đùi trẻ mềm nhão ra, rồi
dần dần teo nhỏ lại. Da dẻ trở nên xanh xao. Trẻ biếng cười đùa. Đến giai đoạn
sau, SDD sẽ ảnh hưởng nhiều tới tâm thần của trẻ: trẻ không ngủ, cơ thể xanh
xao, gầy ốm một cách rõ rệt.

Trên đây là các biểu hiện chung của SDD. Tuy nhiên, các trẻ SDD nặng có
những biểu hiện đặc biệt, mà các bà mẹ cần đặc biệt quan tâm.

3. SDD nặng có những biểu hiện gì đặc biệt?
SDD nặng có 3 thể loại: thể phù, thể teo và thể hỗn hợp. Mỗi thể lại có một
số biểu hiện khác nhau.



2

* SDD thể phù: Thường thấy ở trẻ mới sinh ra đã bị thiếu sữa, phải nuôi
bằng cháo hoặc bột. Trong cháo, bột thường chỉ có đường, muối, thiếu hẳn các
chất đạm như thịt, cá, trứng.

Các triệu chứng của trẻ SDD thể phù gồm có :
- Phù : trẻ bị phù dần dần – một số người gọi nhầm là sưng. Phù rõ nhất ở
chân, tay và mặt. Do tình trạng phù, cân nặng của trẻ có thể không sụt giảm, đôi
khi lại hơi tăng, làm cho một số bà mẹ tưởng là con mình mập ra. Nhưng quan
sát kỹ sẽ thấy - khác với trẻ bụ bẫm, khỏe mạnh thật sự - trẻ SDD thể phù
thường xanh xao, buồn bã, thờ ơ với mọi sự xung quanh, không chịu chơi, chậm
biết lẫy, biết ngồi, biết đi.

- Da trẻ có thể có những đốm ở tay chân, ở thân mình. Những đốm này

màu đỏ, sau đổi sang màu nâu hoặc đen. Ngoài ra, da còn có thể bị hăm đỏ, lở
loét.

- Tóc thường mọc thưa, bạc màu dễ rụng.

- Mắt thường bị khô, trẻ sợ ánh nắng. Nặng nữa, mắt có thể kéo màng rồi
loét ra, có khi dẫn tới mù lòa. Có chứng này là do cơ thể thiếu vitamin A, một
chất rất cần thiết cho mắt.

Ngoài ra, nhiều trẻ còn bị viêm chứng còi xương (sẽ nói đến ở một phần
sau). Trẻ thường có bụng to hơn bình thường, và hay bị tiêu chảy.

* SDD thể teo: Cũng hay thấy ở những trẻ mới sinh ra đã không được bú
sữa, phải bú nước cháo loãng; và cũng hay thấy ở những trẻ ăn dặm không đầy
đủ hoặc không đúng phương pháp. Ngoài ra, cũng có thể thấy ở những trẻ đã bị
bà mẹ bắt kiêng cữ quá đáng khi bị bệnh. Tôi luôn luôn gặp các trường hợp này
ở các trẻ bị bệnh sởi (ban đỏ) hoặc tiêu chảy.

Về triệu chứng, thì đơn giản :
- Khởi đầu, chỉ thấy trẻ sụt cân. Quan sát kỹ, sẽ thấy lớp mỡ dưới da trẻ
mất dần.

- Sau đó, trẻ càng ngày càng gầy sọp, vẻ mặt hốc hác, nhăn nheo, trông gần
giống con khỉ. Do đó, ở một số vùng nước ta, bà con gọi chứng SDD thể teo này
là “bệnh ban khỉ”.

* SDD thể hỗn hợp: Trong thể này, ta có các triệu chứng phối hợp cả hai
thể trên. Thông thường, đó là các trẻ SDD thể phù đã được điều trị, nhưng chưa
khỏi hoàn toàn. Do đó, phù thì chưa hết hẳn, nhưng lại thấy teo ở nhiều nơi.
Trong trường hợp này, việc điều trị cần được tiếp tục tích cực hơn nữa.




3

4. Do đâu mà trẻ bị SDD?
Có nhiều nguyên nhân có thể sinh ra SDD. Tuy nhiên, ở nước ta, thì những
nguyên nhân sau đây là hay gặp nhất!

* Bà mẹ bị bệnh, hoặc bị thiếu dinh dưỡng trong lúc mang thai. Ví dụ:
trong lúc mang thai, bà mẹ lại bị một bệnh kéo dài, như bệnh lao, bệnh tim, bệnh
gan v.v… mà không được chữa trị cẩn thận, hoặc có được chữa trị đầy đủ,
nhưng tình trạng bệnh chưa thuyên giảm.

Hoặc bà mẹ không có điều kiện để được bồi dưỡng đầy đủ, do đó bị thiếu
máu, suy yếu.

Do đó, ngay từ lúc còn là bào thai trong bụng mẹ, trẻ đã bị SDD. Trường
hợp này được gọi là “SDD bào thai”.

* Trẻ mới sinh ra đã mang một dị tật bẩm sinh. Ví dụ: trẻ bị chứng hẹp
ruột, làm cho trẻ cứ ăn vào là nôn ói ra, và do đó các chất dinh dưỡng không
được hấp thụ đầy đủ vào cơ thể. Hoặc trẻ bị một bệnh tim, làm cho máu không
thể lưu thông bình thường để nuôi dưỡng cơ thể cho tốt được. Những dị tật đó,
cuối cùng sẽ dẫn tới SDD.

* Trẻ không được nuôi dưỡng một cách hợp vệ sinh, nên luôn luôn bị các
bệnh nhiễm trùng như tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phế quản, viêm phổi v.v… hoặc
không được chích ngừa (tiêm phòng) đầy dủ, nên mắc phải lao phổi, ho gà, sởi
(ban đỏ) v.v…


* Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu nhất, hay gặp nhất là do nhiều bà mẹ
thiếu hiểu biết về phương pháp nuôi dưỡng trẻ. Qua nhiều cuộc điều tra nghiên
cứu, đã thấy trên 60% các bà mẹ chưa hiểu biết đầy đủ phương pháp nuôi dưỡng
con cái theo khoa học.

Những sai lầm thường thấy ở các bà mẹ này là :
- Tùy tiện cho trẻ dưới 6 tháng ngưng bú mẹ, thay bằng cháo, xúp, bột…,
do họ chưa thấy ích lợi to lớn của sữa mẹ.

- Không biết cho trẻ sau 4 tháng tuổi ăn thêm các chất như thịt, cá, dầu,
mỡ, trái cây… Dĩ nhiên, các chất này phải được chế biến sao cho trẻ thích ăn và
dễ tiêu hóa.

- Nhiều bà mẹ, khi trẻ mắc bệnh, đã bắt trẻ kiêng cữ một cách quá đáng. Có
trẻ bị bệnh hàng tháng trời chỉ được ăn một thức ăn độc nhất là cháo muối! Tình
trạng kiêng cữ vô lý đó dĩ nhiên sẽ dẫn tới hậu quả không tránh khỏi là SDD.



4

Như vậy, bạn đã thấy, không phải chỉ có thiếu ăn mới sinh ra SDD mà
không biết cách cho ăn cũng là nguyên nhân chủ yếu sinh ra SDD. Do đó, có
nhiều bà mẹ, kinh tế rất sung túc, mà con vẫn bị SDD.

Phải làm gì để phòng tránh SDD cho trẻ?
Chắc rằng các bạn đều mong muốn con cái mình khỏe mạnh, hồng hào, bụ
bẫm, ít bị bệnh và chóng lớn. Điều ước mong đó hoàn toàn có thể thực hiện
được trong hoàn cảnh nước ta hiện nay.


Sau đây là một số điều chủ yếu bạn cần làm :

1. Đầu tiên trẻ cần được chăm sóc tốt, ngay từ khi còn là một thai nhi
trong bụng mẹ.
- Người mẹ có khỏe mạnh, thì thai nhi mới mạnh khỏe. Do đó, người mẹ
cần được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đủ chất và điều độ. Nếu kinh tế gia đình bạn
chưa sung túc lắm, thì có thể người cha phải “hi sinh” một chút, để dành phần
“ưu tiên” cho người mẹ, nghĩa là cho cả hai người : người mẹ và thai nhi.

- Lao động của người mẹ trong thời gian mang thai phải được thu xếp hợp
lý. Người mẹ vẫn nên lao động, nhưng lao động một cách điều độ, nhẹ nhàng.
Phải tránh những cố gắng quá sức, như chạy nhanh, khiêng vác nặng. Nhất thiết
tránh thức khuya quá mức.

-Việc bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ là hết sức quan trọng. Trong thời gian
mang thai, tất cả các bệnh của bà mẹ - có khi chỉ là những bệnh rất nhẹ, như cảm
cúm… - đều ảnh hưởng tới thai nhi. Một số bệnh của bà mẹ lại có thể gây ra các
dị tật bẩm sinh cho trẻ như sứt môi, vẹo cột sống, khoèo chân tay v.v… và dẫn
tới SDD. Do đó, việc phòng bệnh, chữa bệnh cho các bà mẹ đang mang thai là
cực kỳ quan trọng. nếu không may bà mẹ mắc một bệnh gì đó trong lúc có thai,
thì nhất thiết phải đi khám bệnh ngay, để bác sĩ cân nhắc tình hình bệnh tật, thai
nghén… mà quyết định việc điều trị. Chớ bao giờ tự ý dùng thuốc bừa bãi. Có
nhiều loại thuốc có hại tới thai nhi, và đã có nhiều thai nhi bị dị tật do những
thuốc đó (những điều này đã được trình bày chi tiết ở phần trên).

2. Trẻ cần được nuôi dưỡng tốt ngay từ khi mới ra đời.
Việc đó sẽ đặt một cơ sở tốt cho sức khỏe căn bản của trẻ, để từ đó có thể
có điều kiện để phát triển sau này. Ở tuổi sơ sinh trẻ càng đựoc mạnh khỏe, thì
đến các lứa tuổi sau, trẻ càng có điều kiện phát triển tốt.


3. Trẻ cần được theo dõi sức khỏe định kỳ.
Hiện nay, các địa phương đã có các trạm y tế, bạn hãy cho trẻ đi khám định
kỳ tại đó, để theo dõi sự phát triển của trẻ và để phát hiện sớm bệnh tật nếu có,
để việc điều trị được kịp thời.



5

Bạn cũng cần cho trẻ tới các trạm y tế đó để chích ngừa (tiêm chủng) đầy
đủ và đúng hạn.

4. Bạn đừng quên “kế hoạch hóa” việc sinh đẻ.
Vấn đề này đã được nói đến rất nhiều. Ở đây, chỉ xin nhắc lại một điều
thực tế: có ít con, thì mới có điều kiện nuôi dưỡng, dạy dỗ trẻ thật tốt, để trẻ
mạnh khỏe, phát triển tốt và không bị SDD.

Vấn đề nuôi dưỡng trẻ

Nuôi dưỡng thế nào là tốt?
Đã có nhiều chuyên gia về dinh dưỡng nghiên cứu vấn đề này. Và cũng đã
có nhiều phương pháp dinh dưỡng được đề ra, được in thành sách. Những
phương pháp đó có những chi tiết khác nhau đôi chút nhưng về căn bản thì
giống nhau và tất cả đều nhằm một mục đích: cung cấp cho trẻ đủ chất dinh
dưỡng, và những chất đó phải được lựa chọn sao cho cơ thể trẻ có thể hấp thụ
được. Có thế, cơ thể trẻ mới phát triển tốt được.

Phương pháp mà tôi giới thiệu với bạn sau đây, là một phương pháp đã
được nghiên cứu cẩn thận ở nước ta, với sự giúp đỡ của “Quỹ Nhi đồng Liên

hiệp quốc” (UNICEF) và “Quỹ Dân số Liên hiệp quốc? (UNFPA) và đã được
chứng minh là đạt kết quả rất tốt.

Trước hết, bạn cần biết rằng, để phát triển cơ thể, trẻ luôn luôn cần đến
3 loại thức ăn sau đây :
1. Thức ăn xây dựng :
Loại thức ăn này làm cho cơ thể trẻ phát triển nhanh chóng, nên được
mang tên là “xây dựng”, gồm chủ yếu là chất đạm. Chất đạm có nhiều trong sữa,
thịt, cá, trứng, tôm, cua, cũng có trong một số thức ăn thực vật như các loại đậu
(đỗ), hoặc mè (vừng). Chất đạm cũng góp phần làm cho trí tuệ trẻ phát triển.

2. Thức ăn bảo vệ :
Loại thức ăn này mang tên “bảo vệ”, vì giúp cho cơ thể trẻ tăng cường sức
đề kháng chống lại bệnh tật. Các thức ăn này gồm các vitamin và các muối
khoáng, thường có nhiều trong các loại trái cây và rau xanh hoặc rau đỏ, như rau
ngót, rau dền, cà chua, cà rốt…

3. Thức ăn vận động :
Đây là loại thức ăn cung cấp “năng lượng” đưa “nhiên liệu” vào cơ thể trẻ,
để trẻ hoạt động được mạnh mẽ. Các thức ăn này gồm nhiều loại: gạo, mì, bắp,
khoai, dầu, mỡ, đường…

Ba loại thức ăn trên đây đều cần thiết cho trẻ, đều quan trọng ngang nhau.
Do đó, trong khi nuôi dưỡng trẻ, bạn phải nhớ cân bằng cả 3 loại nói trên.


6

Cho trẻ dưới 1 tuổi ăn như thế nào?
Có hai trường hợp khác nhau: trường hợp mẹ có sữa, và trường hợp mẹ

không có sữa.

* Trường hợp mẹ có sữa :
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất, quý nhất cho trẻ dưới 1 tuổi. Ngoài các chất
dinh dưỡng, sữa mẹ còn mang theo nhiều chất khác rất bổ ích, trong đó có
những chất được gọi là “kháng thể”. Những “kháng thể” này có tác dụng bảo vệ
bé, giúp cho trẻ có sức đề kháng để chống lại bệnh tật. Những bé được nuôi
bằng sữa mẹ thường khỏe mạnh, ít bệnh tật. Do đó, sữa mẹ tốt hơn sữa bò rất
nhiều.

Sữa non là sữa người mẹ có trong 6 ngày đầu sau khi sinh đẻ. Bạn hãy
cho bé bú sữa non thật sớm. Sữa non rất giàu năng lượng, có nhiều khả năng
tăng sức cho bé. Sữa non cũng chứa đứng rất nhiều “kháng thể”, giúp cho cơ thể
bé đề kháng chống lại nhiều bệnh tật sau này.

Bạn cũng nên cho bé bú vào bất kỳ lúc nào bé đòi bú. Hiện nay, các công
trình nghiên cứu về dinh dưỡng đã chứng minh rằng phương pháp này – cho bé
bú vào bất kỳ lúc nào bé đòi bú, nghĩa là lúc bé đói – là tốt hơn hẳn phương
pháp cũ – là phương pháp chia giờ cố định cho bú. Phương pháp mới – cho bé
bú vào bất kỳ lúc nào bé đòi bú – làm cho bé tăng cân nhanh hơn. Vả chăng,
theo phương pháp mới này, số lần cho bú cũng chỉ là 8 – 10 lần trong ngày,
không nhiều lần hơn phương pháp cũ.

Vào khoảng giữa tháng ba trở đi, bạn hãy cho bé uống thêm nước quả. Ví
dụ: mỗi ngày cho bé uống thêm 4 muỗng cà phê nước cam, chia làm 2 lần. Nên
chọn những trái cam ngọt, vì vị chua có thể gây nôn ói cho bé. Nếu không có
nước quả, bạn cho bé uống nước rau cũng tốt.

Từ tháng thứ tư trở đi, bạn có thể cho bé ăn thêm bột. Mới đầu, hãy pha bột
loãng, rồi dần dần, khi bé đã ăn được nhiều, bạn sẽ pha đặc lên. Trong khi đó,

vẫn cần cho bé bú mẹ đầy đủ và uống thêm nước quả hoặc nước rau. Bạn nên
cho thêm một chút dầu hoặc mỡ vào bột ăn hàng ngày.

Từ tháng thứ bảy trở đi, các thức ăn kể trên sẽ không đáp ứng đủ nhu
cầu phát triển của bé nữa. Lúc này, bạn có thể cho trẻ ăn thêm cháo, cần cho
thêm vào đó các loại thịt, cá, tôm, cua…, các loại đậu hoặc mè. Vẫn cần cho
thêm dầu, mỡ vào các thức ăn đó và đừng quên rau hoặc củ.

Trong khi đó, bạn vẫn nên cho bé tiếp tục bú mẹ. Nếu bé được bú mẹ trong
một năm thì tạm được, nhưng nếu bú mẹ được 2 năm thì mới gọi là “rất tốt”.

* Trường hợp mẹ không có sữa :


7

Có những người mẹ không có sữa. Và có cả những bà mẹ có sữa, nhưng vì
lý do bệnh tật, bác sĩ khuyên không nên cho bé bú. Trong cả hai trường hợp này,
phải cho bé bú ngoài. Khi đó, tốt nhất là cho bé được bú một bà mẹ khác có
nhiều sữa. Vì như trên đã nói - sữa mẹ là tốt nhất, không thể có loại sữa nào
khác - sữa bò, sữa trâu, sữa dê… có thể sánh được.

Còn nếu không có điều kiện như trên, thì dĩ nhiên phải dùng sữa một động
vật khác, thông dụng nhất là sữa bò và tiện dụng hơn cả là loại sữa bột.

Bạn chỉ nên cho trẻ ăn sữa “nguyên chất” trong 2 tháng đầu. Sau đó, nên
pha sữa bằng nước cháo loãng và nhớ cho bé dùng thêm nước quả hoặc nước
rau. Chớ bao giờ cho bé chỉ ăn nước cháo đường hoặc cháo muối mà không có
sữa, vì như thế bé sẽ nhanh chóng bị suy dinh dưỡng, từ đó sẽ luôn luôn bệnh
tật.


Từ tháng thứ sáu trở đi, nên cho bé ăn một số chất bổ khác : như bánh bích
quy, kem trứng gà v.v…

Nuôi dưỡng trẻ trên 1 tuổi như thế nào cho tốt?

Bé rất cần được tiếp tục nuôi dưỡng bằng sữa, dù là sữa mẹ hoặc sữa bò,
cho tới 3 tuổi. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, tuy sữa vẫn là thức ăn tốt, quý,
nhưng không đáp ứng được đủ nhu cầu phát triển của bé nữa. Bạn cần cho bé ăn
thêm các thức ăn khác: ngoài bột, cháo, có thể dùng thêm mì (sợi), bánh đa,
bánh phở nấu lên, rồi dần dần chuyển sang cơm (nấu mềm). Các thực phẩm
dùng thêm, các thức ăn trên cần phong phú, sao cho đủ các chất “xây
dựng”, “bảo vệ” và “vận động”.

Như vậy, hàng ngày bé cần có các thức ăn sau :

- Gạo
- Mì sợi
- Bánh phở, bánh canh


- Thịt, cá
- Trứng
- Đậu v.v…



- Quả (chín)
- Rau


Hh

- Dầu (hoặc mỡ)
- Đường

Chú ý cho bé ăn no và đủ chất, ít nhất là 4 bữa mỗi ngày. Nên thay đổi
thức ăn cho bé đỡ chán, thay đổi cả cách chế biến (nấu nướng). Không nên cho
Sữa mẹ (hoặc sữa bò)


8

bé ăn “quà vặt” luôn miệng. Các “quà vặt” đó sẽ làm cho bé đến bữa ăn chính lại
không ăn được nữa.

Cuối cùng, cần nhớ cho bé uống nước đầy đủ, chớ bao giờ để bé bị khát.

Nếu trong gia đình, phát hiện một bé bị SDD thì nên xử trí thế nào?
Đối với các bé SDD nhẹ: chưa bị teo đét, chưa bị phù, chưa mắc thêm một
bệnh gì khác, chỉ mớt sụt cân dần, xanh xao, các bắp thịt mềm nhão, biếng cười
đùa…, bạn hoàn toàn có thể chữa trị cho bé tại gia đình.

1. Việc đầu tiên bạn cần làm là điều chỉnh lại chế độ ăn uống của bé cho
đúng với phương pháp đã nêu ở phần trên. Tóm lại là cho bé một chế độ ăn
uống hợp lý, đủ chất và nhớ chia ra làm nhiểu bữa nhỏ. Không nên “nhồi nhét”
một lúc thật nhiều thức ăn, vì bộ máy tiêu hóa của bé còn yếu kém trong thời
gian SDD.

2. Việc thứ hai là cho bé dùng thêm một số thuốc :
* Vitamin A : cho bé uống 2 ngày liền :

+ Đối với bé dưới 12 tháng : mỗi ngày 100.000 đơn vị
+ Đối với bé trên 12 tháng : mỗi ngày 200.000 đơn vị

Sau 4 tuần, lại cho uống một lần như trên.

Vitamin A là một chất rất cần thiết cho bé, nhất là đối với các bé đang bị
SDD, vì vitamin A vừa có tác dụng phòng và trị bệnh khô mắt, bệnh quáng gà là
những bệnh làm mắt mờ dần và có thể dẫn tới mù lòa, hay xảy ra ở các bé SDD.

* Acide Folique: (biệt dược: Foldin, Specia Foldine v.v…) mỗi viên 5mg,
cho bé uống mỗi ngày 1 viên.

Acide Folique giúp cho sự phát triển các tế bào của bé, đồng thời cũng
giúp cho sự hấp thụ các chất dinh dưỡng từ ruột vào cơ thể bé tốt hơn.

* Sắt: (biệt dược: Fumafer, Ascofer, Heliofer v.v…). Mỗi biệt dược nói
trên lại chứa đựng một lượng sắt khác nhau. Vì vậy, bạn cần xem kỹ chai thuốc,
hoặc hộp thuốc và tờ hướng dẫn cách dùng kèm theo. Trong đó, có ghi lều trung
bình hàng ngày cho bé, bạn cứ theo đó cho bé dùng. Ví dụ : đối với viên
Fumafer là loại thuốc hiện đang có nhiều trên thị trường (mỗi viên chứa đựng
200mg sắt), thì liều trung bình cho bé là 1 – 3 viên mỗi ngày. Bạn cũng có thể
hỏi vị dược sĩ tại cửa hàng thuốc về liều lượng thuốc cụ thể cho bé.

Sắt là một chất rất cần thiết cho việc tạo ra hồng cầu (là các hạt màu đỏ, có
chức năng chủ yếu là nuôi dưỡng cơ thể). Bạn cũng lưu ý là khi bé uống viên


9

sắt, sẽ có thể đi tiêu ra phân đen, đó là điều bình thừong do chất sắt tiêu hóa ra,

không có gì đáng ngại.

Đối với các bé SDD nặng (như SDD thể teo đét, SDD thể phù, SDD thể
hỗn hợp), hoặc bị thêm một bệnh khác kèm theo, như tiêu chảy, kiết lỵ, viêm
phế quản v.v… thì nhất thiết phải đi khám bệnh tại một cơ sở y tế. bác sĩ sẽ
thăm khám, làm thêm xét nghiệm nếu cần, tiến hành điều trị và theo dõi hàng
ngày. Việc điều trị các bé SDD được tiến hành rất tích cực, vì khi bé đã bị SDD,
thì sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh sẽ bị suy giảm, do đó một bệnh bình
thường cũng có thể trở nên nguy hiểm. Những bé SDD rất nặng, kèm theo bệnh
nguy hiểm, có thể sẽ được vào nằm viện để việc điều trị được tích cực hơn.




































10
BỆNH CÒI XƯƠNG

1. Thế nào là bệnh còi xương?
Còi xương là một bệnh xảy ra khi cơ thể bé thiếu một chất, gọi là vitamin
D, do đó còn được gọi là “bệnh thiếu vitamin D”. bệnh này thường gặp ở trẻ em
dưới 3 tuổi, nhưng cũng có xảy ra ở một số trẻ em lớn tuổi hơn. Trong bệnh này,
xương của bé chậm phát triển, hoặc thậm chí không phát triển được và làm cho
xương bị dị dạng : nhưng cong xương, vênh xương,… Ngoài ra, còn làm cho
xương bị xốp không được rắn chắc, do đó dễ bị gãy xương, nứt xương v.v…

2. Vitamin D là chất gì, tại sao thiếu Vitamin D lại sinh ra còi xương?
Xương của con người muốn phát triển được tốt, muốn trở nên cứng rắn,
khỏe… thì cần có một số chất tới nuôi dưỡng, trong đó chủ yếu là chất
Calcium. Chất Calcium này có trong nhiều loại thức ăn : sữa, thịt, cá,

trứng, đậu… Tuy nhiên, Calcium chỉ có thể được hấp thụ tốt nếu có vitamin D
trong cơ thể. Vitamin D giúp cho Calcium từ những thức ăn trong bộ máy tiêu
hóa được hấp thụ vào máu, đồng thời cũng giúp cho Calcium trong máu được
vận chuyển tới các xương và được hấp thụ vào đó. Vì vậy nếu cơ thể của bé
thiếu vitamin D, thì các xương của bé – do không hấp thụ được đủ Calcium – sẽ
không phát triển được tốt, sẽ trở nên cong, vênh, xốp… và trở thành bệnh còi
xương.

3. Làm gì cho cơ thể bé có vitamin D?
Vitamin D có trong nhiều loại thực phẩm, nhưng có nhiều nhất là trong gan
động vật, gan cá – nhất là gan cá thu và trong trứng, trong bơ…

Tuy nhiên, các chất nói trên khi vào cơ thể của bé, mới đưa ra được một
chất chưa hẳn là vitamin D. Chất này được gọi là “tiền vitamin D” (tiền là
trước). “tiền vitamin D” nằm rãi rác dưới da. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào da
thì có một tia sáng – gọi là tia tử ngoại – sẽ chuyển “tiền vitamin D” thành
vitamin D.

Do đó, muốn có vitamin D trong cơ thể, thì ăn các thực phẩm có nhiều
vitamin D chưa đủ, mà còn phải cho cơ thể tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
nữa. Vì vậy, muốn tránh được bệnh còi xương, một việc cần thiết là phải cho bé
được tắm nắng đầy đủ, ví dụ mỗi sáng tắm nắng khoảng 30 phút. Các bé sống ở
những nơi tăm tối, lụp xụp, ít được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì thường hay
bị còi xương.

4. Làm thế nào để phát hiện bệnh còi xương?
Bệnh còi xương hoàn toàn có thể phát hiện, chẩn đoán chính xác ngay
trong gia đình bạn.

Những triệu chứng sau đây có thể nhận xét được dễ dàng :



11
a. Thoạt đầu, bạn thường thấy bé hay quấy khóc, ngủ luôn bị giật mình và
hay đổ mổ hôi. Tuy nhiên, lúc này các triệu chứng đó thường chưa làm bạn chú
ý đến lắm.

b. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, bạn sẽ thấy đầu của bé như to ra hơn,
so với thân thể của bé. Có trường hợp, bạn sờ thấy một vài cục bứu nổi lên
quanh đầu. Trong khi đó, bạn sờ lên thóp của bé, bạn lại thấy thóp đó chậm kín
lại (bình thường, thóp của bé phải khép kín sau 12 – 18 tháng).

Bạn cũng thấy răng của bé chậm mọc, và bé rất dễ bị sún răng, sâu răng.

c. Sau đó, xem xét, sờ nắn thân thể và tay chân, bạn sẽ thấy xương sống
(cột sống) của bé bị cong, bị vẹo… Đồng thời, xương tay chân cũng có thể bị
cong, nhất là xương chân, gây nên tình trạng “chân vòng kiềng”, “chân chữ bát”.
Do tình trạng xương yếu như trên, bé chậm biết lẫy, biết đứng, biết đi.

d. Cuối cùng, nếu bệnh còi xương xảy ra ở các bé dưới 1 – 2 tuổi, thì bé rất
dễ bị co giật (làm kinh). Có chứng này, là do cơ thể thiếu Calcium. Vì Calcium
không chỉ cần thiết cho xương, mà còn là một chất quan trọng làm cho hệ thần
kinh ổn định và phát triển.

5. Làm gì để phòng tránh bệnh còi xương cho bé?

Bạn có thể làm ba việc sau đây :
a. Đầu tiên, các bà mẹ phải bỏ tập quán sợ cho bé ra nắng gió. Ngay sau
khi bé ra đời được một tuần, nên ncho bé tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Mỗi
ngày, cho bé ra tắm nằng khoảng 30 phút hoặc 60 phút. Nên tắm nắng vào buổi

sáng, lúc mặt trời mới lên, thời tiết mát mẻ. Trong lúc tắm nắng, nên cởi bỏ tã
lót, quần áo… chỉ cần giữa ấm cổ, ngực nếu trời lạnh. Bà mẹ cũng nên đi tắm
nắng, vì mẹ cũng cần vitamin D.

b. Nên cho bé uống thêm vitamin D từ tuần thứ hai sau khi sinh, liều trung
bình là 400 đơn vị vitamin D mỗi ngày. Có thể uống liên tục hàng ngày cho tới
khi bé biết đi.

Với những bé đẻ non, hoặc mới sinh ra đã gầy ốm… thì có thể cho vitamin
D liều cao hơn : 600 – 1.000 đơn vị mỗi ngày.

c. Các bà mẹ khi đang mang thai mà ốm yếu… hoặc hoàn cảnh nhà cửa
chật chội, thiếu ánh sáng mặt trời, thì nên dùng vitamin D mỗi ngày 4.000 –
5.000 đơn vị. Có thể uống từ tháng thứ sáu của thai kỳ cho tới khi sinh đẻ.

Cuối cùng, đối với các bà mẹ và bé – khi đã đến tuổi ăn dậm được – thì
nên dùng thêm các chất có nhiều vitamin D : các loại gan động vật, trứng, bơ…


12
6. Nếu gia đình phát hiện bé bị còi xương, thì cần làm gì?
Dĩ nhiên, việc tốt nhất vẫn là đưa bé đi khám bệnh. Bác sĩ sẽ thăm khám,
làm một số xét nghiệm nếu cần để việc chẩn đoán được chính xác, đánh giá mức
độ còi xương của bé, sau đó sẽ quyết định việc điều trị.

Tuy nhiên, việc điều trị còi xương vẫn được tiến hành chủ yếu tại gia đình.
Chỉ trường hợp bé bị còi xương rất nặng, hoặc lại mang thêm một bệnh khác, thì
mới cần nằm viện.

Còn nếu bạn chưa có điều kiện cho bé đi khám bệnh hoặc theo dõi tại một

phòng khám, thì bạn có thể tạm thời cho bé dùng thuốc như sau :

- Vitamin D: 1.500 – 2.000 đơn vị mỗi ngày, uống liên tục trong 3 – 4 tuần.
Sau đó, chuyển sang liều dùng phòng bệnh (đã nói ở phần trên: 400 đơn vị
mỗi ngày) cho tới khi bé biết đi.
- Calcium – Gluconat : 0,500g mỗi ngày.

(Trên đây là liều trung bình cho các bé dưới 3 tuổi)

Trong khi đó, bạn cần luôn luôn thực hiện các đều đã nói trong phần phòng
bệnh, nhất là cho bé thường xuyên tắm nắng mỗi buổi sáng.


























13
BỆNH MẬP PHÌ (BÉO PHÌ)

1. Thế nào là mập phì?
Mập phì là tình trạng cơ thể tích lũy nhiều mỡ quá mức bình thường. Như
vậy, khi bé bị mập phì, bé sẽ có cân nặng hơn mức bình thường một cách rõ rệt.

Việc phát hiện chứng mập phì ở các bé thường do gia đình, khi các bà mẹ
thấy con mình mập hơn các bé khác cùng tuổi một cách thái quá, làm cho họ lo
ngại. Việc phát hiện đó của gia đình thông thường là đúng, và được xác định khi
đến kiểm tra tại cơ sở y tế. Cũng có thể sử dụng phương pháp cân đo để chẩn
đoán chứng mập phì, đối chiếu với bản so sánh sự phát triển của cơ thể trẻ em
(theo chiều cao và cân nặng) dưới đây :

Tuổi Sơ sinh 5-6 tháng

1 tuổi 2 tuổi 4 tuổi 6 tuổi
Cân nặng
(1 kg)
2,5-4 6-7 10 12 15 20
Chiều cao
(cm)
50 65 75 85 100 113


Các con số nói trên đánh giá sự phát triển cân bằng của cơ thể bé và nếu bé
đạt được cân nặng và chiều cao như trên thì có thể coi là sự phát triển của bé đã
tốt, đã «hài hòa». Tuy nhiên, các con số đó cũng chỉ là để tham khảo. Con của
bạn có thể có thời gian phát triển nhanh hơn một chút, có thời gian phát triển
chậm hơn một chút. Điều đó không có gì đáng ngại, miễn là con bạn vẫn luôn
luôn phát triển và nhất là cân nặng và chiều cao vẫn đi đôi với nhau, cùng phát
triển.

Tuy nhiên, nếu con bạn có chiều cao đạt chẩn mức bình thường, nhưng cân
nặng lại vượt mức bình thường 25%, thì bạn cần theo dõi cẩn thận, có thể bé sẽ
bị mập phì trong tương lai. Còn nếu cân nặng của bé lại vượt quá mức bình
thường tới 50%, thì chắc chắn bé đã bắt đầu bị mập phì rồi. Ở đây, bạn cũng cần
ghi nhớ một điều, là nếu bé tăng cân hơn bình thường, nhưng chiều cao cũng
tăng theo tỷ lệ như cân nặng, thì như vậy sự phát triển của bé vẫn là hài hòa, bé
cao lớn, nhưng không phải là mập phì.

Trên đây là nói về việc xác định chứng mập phì ở trẻ em. Còn đối với
người lớn – như từ tuổi dậy thì trở lên – thì việc xác định chứng mập phì có thể
căn cứ theo nhiều phương pháp khác chính xác hơn. Phương pháp đang thông
dụng, và cũng được các cơ quan của Tổ chức Y tế Thế giới sử dụng, là phương
pháp dựa vào một con số gọi là «chỉ số khối cơ thể» (BODY MASS INDEX =
BMI). Chỉ số này được tính bằng cách chia cân nặng cơ thể (tính theo kg) cho
bình phương của chiều cao (tính theo mét) như sau :




14
cân nặng (kg)
Chỉ số khối cơ thể (BMI) =

(chiều cao)
2
(m)


Trung bình, chỉ số này phải nằm trong khoảng 20-25 (lý tưởng nhất ở nam
giới là 22, ở nữ giới là 21,5).

Ví dụ : bạn có cân nặng 50kg, có chiều cao là 1,55m thì chỉ số khối cơ thể
của bạn sẽ là :
50 kg 50
= = 20,83
1,55m x 1,55 2,40

Như vậy bạn đã có một cơ thể phát triển hài hòa, không gầy ốm và cũng
không mập phì, vì chỉ số khối cơ thể của bạn nằm trong khoảng 20-25. Nhưng
nêu chỉ số đó lại là 25 trở lên, thì cơ thể bạn đã dư cân, bắt đầu phải coi chừng.
Còn nếu chỉ số đó lại là 30, hoặc hơn nữa thì chắc chắn bạn đã bị mập phì thật
sự rồi.

2. Chứng mập phì gây tác hại gì cho bé?
a. Về mặt thể lực :
Bé mập phì luôn luôn yếu hơn các bé khác, bạn chỉ cần tới quan sát một lớp
các học sinh nhỏ tuổi, bạn sẽ thấy các bé mập phì thường chậm chạp hơn,
nặng nề hơn các bé khác, bạn cũng có thể tới xem một số hoạt động thể dụng :
bạn sẽ thấy các bé đạt thành tích cao (như chạy nhanh, nhảy ca, nhảy xa…) bao
giờ cũng là những bé khỏe mạnh thân hình luôn luôn vừa phải không bao giờ
mập phì. Bé mập phì không bao giờ nhanh nhẹn, khỏe mạnh bằng các bé
bình thường được. Điều này thật dễ hiểu : có thể lý giải một cách đơn giản,
là nhiểu lớp mỡ đã chén ép các cơ bắp, cản trở sự hoạt động của các cơ bắp.


b. Về mặt sức khỏe nói chung :
Chứng mập phì có thể dẫn đến nhiều bệnh tai hại cho bé. Các bé mập phì
càng lớn lên càng có nhiều nguy cơ bị bệnh ở timmạch, bệnh tiểu đường và một
số bệnh khác. Trong cơ thể con người có một chất được gọi là Cholesterol. Chất
này khi có quá nhiều trong máu sẽ thành thủ phạm gây ra nhiều bệnh, nhất là
bệnh về tim mạch. Tình trạng tăng Cholesterol lại xảy ra ở những người mập phì
(Cholesterol được cơ thể tổng hợp chủ yếu từ mỡ).

c.Về mặt tâm lý :
Không ít trẻ mập phì thường có mặc cảm, cho mình là thô kệch, là xấu xí
(điều này hay thấy ở trẻ gái tuổi dậy thì). Sự mặc cảm đó làm cho các em luôn
luôn buồn phiền, không phấn khởi, không yên tâm học tập.



15
3. Nguyên nhân chứng mập phì do đâu ?
Nguyên nhân do bệnh nội tiết tố và sai lầm trong chế độ ăn uống.

Bệnh nội tiết tố là bệnh của một số cơ quan (đặc biệt) trong cơ thể con
người, những cơ quan này thường xuyên tiết ra một số chất rất cần thiết cho cơ
thể, những chất đó lại chuyển thẳng vào máu nên được gọi là nội tiết. Một số cơ
quan nội tiết như tuyến yên (nằm trong não), tuyến giáp trạng (nằm ở vùng trước
cổ), tuyến thượng thận (nằm ở trên thận)… Khi các tuyến này bị bệnh thì có thể
gây ra chứng mập phì. Tuy nhiên các bệnh nội tiết tố chỉ chiếm khoảng 2%
nguyên nhân gây ra chứng mập phì, do đó được coi là một nguyên nhân hiếm
gặp.

Sai lầm trong chế độ ăn uống mới là nguyên nhân chủ yếu, hay gặp

nhất. Đa số các trẻ em mập phì là do ăn uống quá mức, các năng lượng dư
thừa do ăn uống quá mức đó được tích lũy lại dần dần, mỗi ngày một tăng
trong lớp mỡ dưới da và càng ngày càng làm cho lớp mỡ đó phát triển gây
ra chứng mập phì.

Nguyên nhân của sự ăn uống quá mức ? Dĩ nhiên là do bà mẹ. Bà mẹ nào
cũng mong muốn cho con mình được « hay ăn, chóng lớn ».

Việc để cho bé ăn uống quá mức một cách tự do, nhất là ăn uống các
loại quà bánh hấp dẫn như bánh ngọt, kem sữa, sô-cô-la và các chế phẩm
khác của ca cao, nước ngọt… thì lại là một sai lầm. Các loại quà bánh đó là
những chất rất hay gây mập phì.

4. Làm gì khi bé bị mập phì ?
Chứng mập phì cần được chữa trị không chỉ vì lý do thẩm mỹ mà còn vì tác
hại tới sức khỏe, nếu bé mập phì mà không được chữa trị sớm thì chắc chắn sẽ
ngày càng mập phì hơn và khi bé đã lớn thì việc chữa trị càng khó hơn.

Một số điểm chữa trị chứng mập phì ở trẻ phải dựa trên hai nguyên tắc cơ
bản : một là hợp lý hóa chế độ ăn uống, hai là tăng cường vận động cơ thể.

a. Hợp lý hóa chế độ ăn uống.
Đảm bảo chế độ ăn của trẻ để trẻ phát triển về mọi mặt, không thể bắt trẻ
phải nhịn ăn hoặc ăn quá ít vì việc nhịn ăn hoặc ăn quá ít sẽ làm cho bé mõi
mệt, luôn luôn buồn ngủ, học hành kém đi, sức đề kháng của cơ thể chống
lại bệnh tật sẽ giảm sút, từ đó sẽ dễ dàng mắc bệnh.

Chú ý : Cho bé ăn uống đầy đủ nhưng cần phải đản bảo một số điểm như
sau :
-Hạn chế các chất béo động vật như mỡ, bơ… Thay vào đó bằng dầu thực

vật. Nhưng không dùng dầu thực vật nhiều. Khi nấu nướng thức ăn cho trẻ nên


16
dùng cách luộc, hấp, hoặc nướng… hơn là chiên, xào… và nên cho bé dùng
nhiều rau trong bữa ăn.

-Hạn chế tối đa các chất ngọt như bánh ngọt, kẹo, sô-cô-la, nước ngọt…
Không cho bé ăn quà vặt giữa các bữa ăn chính. Nếu bé kêu đói có thể cho bé ăn
các trái cây ít năng lượng như mận, khóm, đào…

Việc áp dụng chế độ ăn uống nói trên không làm đột ngột, mà nên làm từ từ
cho bé quen dần.

b. Tăng cường vận động cơ thể của bé.
Tốt nhất là cho bé thực hiện một số hoạt động thể dục thể thao, tập ít nhất 1-
2 lần mỗi ngày vào buổi sáng sớm và lúc chiều tối sau khi tan học. Đối với bé
trên 5 tuổi cho bé đi bộ chơi với cha mẹ cũng rất tốt.

Ngoài ra, nên chọn cho bé một vài môn thể thao mà bé yêu thích như đá
bóng (bóng nhỏ, chơi ở sân nhà), bóng ném… Dĩ nhiên các môn thể thao này
phải phù hợp với lứa tuổi của bé. Môn thể dục thể thao sẽ góp phần quan trọng
cho việc chữa trị chứng mập phì vì khi tập cơ thể sẽ tiêu thụ được dần dần năng
lượng dư thừa, làm tiêu hao dần dần các lớp mỡ nhiều quá đóng ở cơ thể.

Cần quan tâm cô giáo và cha mẹ cùng tham gia giúp đỡ trong việc chữa trị
chứng mập phì của bé, khuyến khích bé thực hiện chế độ ăn uống đã được quy
định, không vì tình cảm thương yêu bé mà cho bé ăn quà luôn miệng. Vì chính
sự ăn quà đó lại có hại cho bé, và sự cảm tình đó lại phản tác dụng ; Cũng không
nên nói chuyện nhiều đến các món ăn ngon trước mặt bé gây sự thèm thuồng

cho bé.



















17
BỆNH THIẾU VITAMIN A

1. Bệnh thiếu Vitamin A là bệnh gì?
Đó là một bệnh thường xảy ra ở trẻ em nhưng cũng có cả ở người lớn.
Bệnh làm cho trẻ chậm lớn, và đặc biệt làm cho trẻ bị khô mắt, quáng gà, có thể
dẫn tới mù hẳn. bệnh cũng làm giảm sức đề kháng của cơ thể, chống lại với các
bệnh nhiễm trùng. Do đó, bệnh thiếu Vitamin A được coi là một bệnh rất tai hại.

Mỗi năm trên thế giới có khoảng 6-7 triệu trẻ em bị bệnh thiếu vitamin A,

trong đó có khoảng 500.000 trẻ bị mù hẳn. bệnh phát sinh do cơ thể thiếu chất
Vitamin A, do đó được gọi là bệnh thiếu Vitamin A.

Vitamin A có tác dụng ra sao đối với cơ thể trẻ ?
-Vitamin A là một chất bổ, có trong sữa, trứng, thịt, cá, gan, nhất là gan
cá thu, mỡ…

-Vitamin A cũng có trong một số rau xanh, đậu, các loại quả và các củ
có màu.

-Vitamin A có tác dụng tốt đối với cơ thể, nhất là cơ thể trẻ em.

* Tác dụng chủ yếu của Vitamin A :
1/ Là làm cho trẻ phát triển nhanh, tăng cân, tăng chiều cao… Do đó khỏe
lên nhanh nên còn gọi là “Vitamin tăng trưởng”.

2/ Tăng sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật, nhất là các bệnh
nhiễm trùng.

3/ Vitamin A rất cần cho mắt: làm cho mắt không bị khô, bị loét, làm cho
mắt sáng ra có thể nhìn rõ lúc ánh sáng bên ngoài giảm và phân biệt tốt các màu
sắc.

Khi trẻ bị thiếu Vitamin A sẽ có những triệu chứng gì?
1/ Trẻ chậm lớn, chậm phát triển về chiều cao và cân nặng.
2/ Trẻ dễ bị các bệnh nhiễm trùng: tiêu chảy, mkiết lỵ, sưng phổi.
3/ Đặc biệt hơn cả là triệu chứng về mắt, mắt các trẻ bị thiếu Vitamin A sẽ
dần dần bị khô, bị đục nhìn không rõ, nhất là lúc sẩm chiều. Do đó đi lại hay bị
té, bị vấp vào đồ vật; Trường hợp nặng xuất hiện các đám mờ trắng. Nếu điều trị
không kịp thời bệnh sẽ làm cho trẻ mù hẳn.

Ngoài ra, tình trạng thiếu Vitamin A cũng làm cho da bị khô đi, dễ tróc
vẩy, bong vẩy… từ đó rất dễ bị nhiễm trùng da. Do đó các tyrẻ thiếu Vitamin A
luôn luôn bị ghẻ lở, mu nhọt ở đầu, ở thân thể.
Có gì làm gì để phòng tránh bệnh thiếu Vitamin A?


18
1/ Các bà mẹ cần cho trẻ ăn uống theo đúng phương pháp như đã nói trong
phần “bệnh suy dinh dưỡng”. Chủ yếu là cho trẻ dùng sữa, cho trẻ ăn dậm sau 4
tháng tuổi, chú ý đến chất béo trong khẩu phần ăn của trẻ. Cũng cần bỏ tập quán
tai hại là bắt trẻ kiêng cử một cách quá đáng khi bị bệnh.
2/ Cho trẻ uống Viatmin A để đề phòng : trẻ dưới 1 tuổi uống 100.000 đơn
vị; trẻ trên 1 tuổi uống 200.000 đơn vị. Cứ mỗi 6 tháng lại uống một liều như
trên.
Việc uống Vitamin A để phòng bệnh rất cần thiết, nhất là các trẻ không có
sữa mẹ, phải nuôi bằng sữa hộp đặc; Trong các loại sữa này hầu như không
có Vitamin A.

Nếu phát hiện trẻ bị thiếu Vitamin A nên xử lý như thế nào?
-Tốt nhất vẫn là cho trẻ đi khám bệnh, đánh giá mức độ bệnh và quyết định
một phương pháp điều trị thích hợp.
-Đối với những trẻ ở vùng xa xôi chưa có điều kiện đi khám bệnh được thì
có thể cho trẻ tạm thời dùng Vitamin A như sau:
1/ Đối với trẻ dưới 1 tuổi:
-Ngày đầu thì 100.000 đơn vị, ngày thứ hai 100.000 đơn vị, 10 ngày sau
100.000 đơn vị (tổng cộng là 300.000 đơn vị).
2/ Đối với trẻ trên 1 tuổi : Ngày đầu 200.000 đơn vị, ngày thứ hai 200.000
đơn vị, 10 ngày sau 200.000 đơn vị (tổng cộng là 600.000 đơn vị).
Liều thuốc trên có tác dụng kéo dài trong 6 tháng. Song song với việc dùng
Vitamin A cần cho trẻ ăn uống thật đúng phương pháp. Nếu thấy trẻ bị tổn

thương ở mắt như có một hoặc một số đám mờ bạc ở mắc thì nhất thiết phải đưa
trẻ đi khám bệnh ngay không chậm trễ.








BỆNH TÊ PHÙ

1. Bệnh tê phù là bệnh gì?
Là một bệnh cũng hay xảy ra ở các trẻ nhỏ. Bệnh thường làm cho trẻ bị tê
– có khi bị bại, hoặc liệt cả hai chân – và bị phù (sưng) mặt, hai chân. Bệnh phát
sinh do cơ thể thiếu chất Vitamin B1, do đó còn được gọi là bệnh thiếu Vitamin
B1.

Vitamin B1 quan trọng như thế nào đối với cơ thể?
Vitamin B1 là một chất có trong nhiều loại trái cây (quả), rau, đậu…
Trong sữa, thịt, trứng, gan… có một số Vitamin B1. Trong cám gạo cũng có


19
Vitamin B1. Do đó nếu gạo xay xát quá kỹ, hết cám, cũng sẽ làm mất nhiều
Viatmin B1.

Vitamin B1 là một chất hết sức cần thiết cho các hoạt động của hầu hết
các cơ quan trong cơ thể : thận, gan, ruột… các bắp thịt khi cử động cũng cần
có Vitamin B1. Tuy nhiên, có hai cơ quan có nhu cầu cao nhất về Vitamin B1 là

tim và bộ máy thần kinh. Nếu thiếu Vitamin B1 thì triệu chứng đầu tiên ở trẻ em
là phù (do tim bị suy yếu), tê, bại, hoặc liệt (do hệ thần kinh bị suy yếu).

Ở trẻ nhỏ có những dấu hiệu gì có thể dẫn đến bệnh tê phù?
Một số trẻ có khi chỉ thấy nổi bật là triệu chứng về tim mạch; ngược lại
một số trẻ khác thì thấy triệu chứng về thần kinh lại rõ nét nhất. Do đó bệnh tê
phù có hai thể chủ yếu : thể tim mạch và thể thần kinh.

-Thể tim mạch: Thường xảy ra ở các trẻ do mẹ ăn thiếu chất, phần lớn là
do kiêng cử một cách quá đáng trong khi mang thai và sau khi đẻ. Do đó trong
máu bà mẹ và trong sữa đều thiếu Vitamin B1; Các bà mẹ này thường xanh
xao, yếu mệt và có thể bị phù mặt và hai chi dưới. trẻ bú sữa các bà mẹ này
vài tháng sẽ thấy da xanh tái, chân tay lạnh, hay toát mồ hôi, vật vã, khó
ngủ. Đặc biệt có những cơn thở khó, có khi tím tái cả người, rõ nhất là ở mặt,
môi, các đầu ngón tay chân. Nhìn kỹ thì có thể thấy trẻ hơi phù ở mặt và tay
chân làm các bà mẹ tưởng lầm là con mình “mập” ra, để ý kỹ thấy trẻ tuy có vẻ
mập nhưng lại xanh xao, yếu đuối, không hồng hào. Nếu không được điều trị kịp
thời sẽ có thể làm cho trẻ chết nhanh chóng.

-Thể thần kinh : Các triệu chứng thường xuất hiện từ từ, thoạt đầu bà mẹ
chỉ thấy con mình yếu hai chân, tình trạng yếu đó càng ngày càng nặng. nếu
không được điều trị sớm bệnh có thể làm trẻ bại liệt hẳn hai chân.

Ngoài ra một số dây thần kinh ở các nơi khác cũng có thể bị suy yếu : dây
thần kinh vận động mắt bị suy yếu sẽ làm cho hai mắt trẻ trở nên đờ đẫn,
không linh hoạt, dây thần kinh “quặt ngược” (là một dây thần kinh “đặc biệt” ở
trong thanh quản) bị liệt làm cho trẻ khan tiếng hoặc mất tiếng.

Ngoài ra bạn cũng cần biết thêm là có khi do tình trạng thiếu Vitamin B1 ở
trẻ chưa đến nỗi trầm trọng lắm, trẻ sẽ không có một triệu chứng gì. Chỉ đến khi

trẻ bị một bệnh khác nhiễm vào như: tiêu chảy, kiết lỵ, ban đỏ… thì các
triệu chứng thiếu Viatmin B1 mới bộc lộ rõ ràng. Điều đó sẽ làm cho căn
bệnh mới nhiễm phải sẽ nặng hơn, nguy hiểm hơn.

Phải làm gì để phòng ngừa bệnh tê phù?
Điều quan trọng nhất là phải giáo dục cho các bà mẹ bỏ được tập quán sai
lầm kiêng cử quá mức khi mang thai và khi nuôi con bằng sữa mình. Các bà
mẹ cần được ăn uống đầy đủ chất và hợp lý.


20

Đối với trẻ nhỏ, tránh không cho trẻ ăn dậm trước 4 tháng tuổi.Khi đến
thời gian ăn dặm cần cho trẻ ăn dậm đầy đủ các chất.
Trường hợp mẹ không có sữa thì nên nuôi trẻ bằng sữa động vật: sữa bò,
sữa dê, sữa trâu… hoặc ít nhất cũng là sữa đậu nành. Thời gian dùng kéo dài tới
6 tháng tuổi. Tuyệt đối không nên chỉ nuôi trẻ bằng nước cơm, nước cháo, hoặc
bột.
Cần xử lý thế nào khi trong gia đình có trẻ bị tê phù?
- Đưa trẻ đi khám bệnh.
- Nếu trẻ chỉ có một vài triệu chứng nhẹ như có vẻ hơi xanh xao, yếu hai
chân… mà bạn lại chưa có điều kiện đưa trẻ đi khám bệnh được, cho trẻ dùng
ngay Vitamin B1: Viên 10mg mỗi ngày 1 -2 viên là đủ, cho uống trong một
tháng; Trong đó điều chỉnh lại chế độ ăn, cho trẻ ăn đầy đủ chất và đúng phương
pháp.
-Trường hợp trẻ đã có những triệu chứng tim mạch quan trọng, như có cơn
khó thở, tím tái… thì bạn phải đưa trẻ đi khám bệnh ngay không chậm trễ.















BỆNH THIẾU MÁU THIẾU SẮT

Nhiều trẻ xanh, ốm được chẩn đoán là thiếu máu thiếu sắt. vậy thiếu
máu thiếu sắt là bệnh gì?
Ở những người bình thường và khỏe mạnh, thì cứ mỗi mm
3
máu có khoảng
4.000.000 – 5.000.000 hồng cầu. Mỗi hồng cầu đều chứa đựng một chất gọi là
hémoglobine, có nhiệm vụ chủ yếu là nuôi dưỡng con người. Hémoglobine
có thành phần cấu tạo chủ yếu là chất sắt.

Người nào mà cơ thể có đầy đủ chất sắt thì sẽ có đủ hémoglobine, hồng
hào, khỏe mạnh… Người thiếu sắt thì thiếu hémoglobine, xanh xao, gầy yếu…
bệnh thiếu máu thiếu sắt là bệnh thiếu máu – nghĩa là thiếu hémoglobine do
thiếu sắt gây ra.



21

Ở Việt Nam, có nhiều trẻ em thiếu máu, nhất là các trẻ bị suy dinh dưỡng
hoặc thấy ở những trẻ bị lao phổi, bệnh sốt rét tái phát nhiều lần, bệnh tiêu chảy
mãn tính… Bệnh lãi móc (giun móc) được treo lơ lững trong ruột gây chảy máu
liên tục trong ruột trong nhiều ngày tháng cũng gây ra bệnh thiếu sắt.
Ở trẻ em dưới hai tuổi, nguyên nhân chủ yếu lại là do thiếu cung cấp sắt:
-Trong sữa bò tỷ lệ chất sắt rất ít nên những btrẻ được nuôi bằng sữa bò dễ
mắc bệnh.
-Trong nhiều thức ăn dậm có nhiều chất sắt hơn trong sữa (như thịt, cá,
trứng, đậu, rau xanh…). Do đó những trẻ được ăn dậm sớm có thể tránh được
bệnh thiếu máu thiết sắt. Nếu ăn dậm với toàn chất bột thì nguy cơ mắc bệnh
thiếu máu thiết sắt càng tăng vì trong bột rất thiếu sắt.
Ngoài ra Vitamin C cũng đóng một vai trò đáng chú ý, giúp cho cơ thể hấp
thụ được chất sắt, có nhiều trong trái cây, rau tươi. Nếu trẻ được ăn quá ít rau,
trái cây, nghĩa là thiếu Vitamin C thì cũng có thể bệnh thiếu máu thiếu sắt,
mặc dù có thể được ăn nhiều thực phẩm nhiều chất sắt như thịt, cá, trứng.
Lúc mang thai bà mẹ bị bệnh thiếu máu thiếu sắt thì trẻ mới sinh ra cũng
đã bị thiếu máu thiếu sắt.
Có thể dựa vào những triệu chứng gì để phát hiện trẻ bị bệnh thiếu
máu thiếu sắt?
1/ Trẻ xanh xao, yếu đuối – sự xanh xao, yếu đuối sẽ xuất hiện dần dần, có
khi người nhà không để ý tới. Nhưng nếu so sánh với một đứa trẻ khỏe mạnh sẽ
thấy con mình da xanh hơn, hoạt động chậm chạp hơn.
2/ Trẻ chán ăn, ít ngủ, hay quấy khóc, vật vã.
3/ Sau một thời gian theo dõi thấy trẻ chậm biết ngồi, chậm biết đứng,
chậm biết đi. Sờ nắn các bắp thịt của tay chân trẻ thấy mềm nhão, không được
cứng cáp như các trẻ cùng lứa tuổi khỏe mạnh.
Ở những trẻ đã biết nói, trẻ hay kêu đau, nhức trong xương. Nếu bệnh trở
nặng, thấy cả tóc trẻ cũng bạc màu và rụng. bệnh sẽ tiến triển xấu và trở nên
trầm trọng nếu không được điều trị kịp thời.
Có thể làm gì để phòng ngừa bệnh thiếu máu thiếu sắt?

1/ Các bà mẹ đang mang thai thì nên đi khám thai, khám bệnh để thầy
thuốc xem có bị thiếu máu thiếu sắt thì điều trị ngay. Như vậy thì thai nhi sẽ
được đủ sắt ngay từ khi mới sanh.
2/ Đối với trẻ không có sữa mẹ, nuôi bằng sữa bò thì chọn sữa bột được bổ
sung thêm sắt.
3/ Phải cho trẻ bắt đầu ăn dậm đúng thời gian vì trong sữa mẹ mất dần chất
dinh dưỡng mà cơ thể của trẻ đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng hơn, trong đó có sắt
mà sữ mẹ và sữa bò không có khả năng đáp ứng đủ.
4/ Trẻ đẻ non, đẻ sinh đôi, đẻ thiếu tháng nên đi khám bệnh để thầy thuốc
cho dùng thêm sắt nếu cần, cũng như một số thuốc bổ khác.
Thiếu máu thiếu sắt điều trị như thến nào?
-Nên cho trẻ đi kham bệnh sớm để thầy thuốc phát hiện sớm một số triệu
chứng khác mà gia đình không thể nhận thấy như có thể thấy gan, lách của trẻ


22
đã bị to lên, tim đã bị suy yếu… Những triệu chứng này cũng do bệnh thiếu máu
thiếu sắt gây nên.
-Thầy thuốc cũng có thể cho làm một số xét nghiệm máu để đánh giá tình
trạng thiếu sắt ở trẻ từ đó đề ra một phương pháp điều trị thích hợp.
-Trường hợp trẻ ở nông thôn xa xôi chưa có điều kiện đi khám bệnh, xét
nghiệm thì cần xử lý một số bệnh pháp như sau :
1/ Cho trẻ uống thuốc có mg chất sắt nhưng với liều lượng cao hơn. Thí dụ
với thuốc Fumafer,thì ở trẻ từ 2 tháng tuổi trở lên:
+ Dạng viên thì mỗi ngày 1-3 viên.
+ Dạng bột thì mỗi ngày 1-4 muỗng.
Chia liều lượng trên làm 2 đến 3 lần trong ngày, uống trước hoặc sau bữa
ăn có thể pha cùng sữa.
Hoặc cho trẻ dùng viên Oxalat, nếu có.
2/ Cho trẻ uống thêm Viatamin C. Mỗi viên mang 50mg. Có thể cho trẻ

uông1-4 viên, chia làm 2-3 lần, uống cùng với viên sắt trước hoặc trong bữa ăn.
Vitamin C cần thiết cho sự hấp thu sắt vào cơ thể.
3/ Điều chỉnh chế độ ăn uống của trẻ: đối với trẻ đã ăn dậm thì bữa ăn cần
có đầy đủ các chất dinh dưỡng.


×