Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu tỷ giá hối đoái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.39 KB, 15 trang )

1. LỜI MỞ ĐẦU
2. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
2.1 Các khái niệm về tỷ giá hối đoái
2.1.1 khái niệm tỷ giá hối đoái
2.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
2.1.3 Tỷ giá hối đoái thực
2.2 Các chế độ điều hành tỷ giá
2.2.1 Điều hành tỷ giá hối đoái cố định
2.2.2 Điều hành tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
2.2.3 Điều hành tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi
3.QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2009 ĐẾN NAY
3.1 Tình hình chung
3.2 Thực trạng qua các năm
3.2.1 Tình hình tỷ giá năm 2009
3.2.2 Tình hình tỷ giá hối đoái năm 2010
3.2.3 Tình hình tỷ giá hối đoái 4 tháng đầu năm 2011
3.3 Nguyên nhân biến động tỷ giá ngoại hối ở Việt Nam
3.3.1 Nguyên nhân chung
3.3.2 Nguyên ngân cụ thể
3.4 Đánh giá
4. Kiến nghị và giải pháp
4.1 Kiến nghị
4.2 Giải pháp
1
1. LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng có tác
động tới nhiều mặt trong hoạt động kinh tế. Ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay
trở lại tác động lên các hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán của mỗi quốc
gia. Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa USD với VND trong trời gian gần đây cho thấy
tỷ giá luôn là vấn đề thời sự và rất là nhạy cảm vì vậy để xây dựng thành công một
chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề hết sức là khó khăn bất cập.


Ở nước ta tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân
thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp mà còn ảnh hưởng không
nhỏ đến tác động tâm lý của dân chúng. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, cả thế giới
đang trong quá trình toàn cầu hóa thì xu hướng chủ yếu là các quan hệ kinh tế quốc tế
hiện đại, họ có nhiều phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại chính vì vậy mà nước ta
gặp phải rất nhiều khó khăn sau thời kỳ hội nhập đặc biệt là từ năm 2009 đến nay, tỷ
giá hối đoái liên tục tăng giảm bất thường, kiểm soát được nó là rất khó vì thế mà
trong thời gian qua nhà nước ta cũng có ưu và nhược điểm nhất định để điều chỉnh tỷ
giá thích hợp.
Cho nên em muốn nghiên cứu đề tài này để hiểu rõ hơn cách thức mà nhà nước
ta điều chỉnh tỷ giá hối đoái từ năm 2009 đến nay, trong quá trình làm với kiến thức có
hạn , cơ sở dữ liệu thống kê không đầy đủ nên còn gặp nhiều sai sót, khiếm khuyết, vì
thế em rất mong được sự góp ý của cô.
2. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
2.1 Các khái niệm về tỷ giá hối đoái
2.1.1 khái niệm tỷ giá hối đoái
Thông thường tỷ giá hối đoái được hiểu là số lượng đơn vị nội tệ cần thiết để
mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, là hệ số quy đổi của một đồng tiền
này sang một đồng tiền khác được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường
tiền tệ. Ở nước ta được định nghĩa như sau: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá
của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”.
2.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được sử dụng hàng ngày trong giao dịch
trên thị trường ngoại hối, nó chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông qua
đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa
chúng.
2.1.3 Tỷ giá hối đoái thực
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh bởi tương quan giữa
giá cả trong nước và ngoài nước. Tỷ giá hối đoái thực tế là giá tương đối của hàng hóa
ở hai nước. Tức là, tỷ giá hối đoái thực tế cho chúng ta biết tỷ lệ mà dựa vào đó hàng

hóa của một nước được trao đổi với nước khác.
2
2.2 Các chế độ điều hành tỷ giá
2.2.1 Điều hành tỷ giá hối đoái cố định
Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu
chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một
đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác,
như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo
vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng
tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế đô tỷ giá ngược hoàn toàn với
tỷ giá hối đoái thả nổi.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái hoặc được giữ không đổi
hoặc chỉ cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu một tỷ giá hối đoái bắt đầu
dao động quá nhiều, Chính phủ can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn
của phạm vi này.
2.2.2 Điều hành tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Chế độ tỷ giá hối đoái này còn được gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt, là một chế độ
trong đó giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối. Đồng
tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, tỷ giá sẽ được các lực lượng thị
trường ấn định mà không có sự can thiệp của Chính phủ. Theo hệ thống này, các công
ty đa quốc gia sẽ cần phải dành nhiều thời gian đáng kể cho việc tính toán và quản lý
các rủi ro do dao động tỷ giá.
2.2.3 Điều hành tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi
Chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi là chế độ tỷ giá thả nổi nhưng có
sự can thiệp của Chính phủ tác động đén tỷ giá hối đoái phục vụ cho chiến lược chung
của quốc gia (Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý). Chế độ này, nó giống chế độ thả nổi tự
do ở điểm các tỷ giá được cho phép giao động hàng ngày và không có biên độ giao
động chính thức. Nhưng nó lại giống chế độ cố định ở điểm các Chính phủ có thể và
đôi khi can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo hướng nào đó phù

hợp với mục tiêu mà Quốc hội đã đề ra. Ở mỗi quốc gia khác nhau, xác định các vùng
mục tiêu khác nhau và có mức độ điều tiết khác nhau phù hợp với những đặc điểm của
từng quốc gia.
3.QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2009 ĐẾN NAY
3.1 Tình hình chung
Như đã biết Việt Nam chính thức gia nhập WTO từ năm 2007. Một biểu hiện rõ
nét nhất là ngay sau khi hội nhập thì nguồn vốn nước ngoài chảy nhiều vào Việt Nam
làm cho áp lực lạm phát gia tăng dẫn đến nước ta phải đối mặt với hiện tượng “Bộ ba
bất khả thi”. Đó là, khi dòng vốn nước ngoài nhiều để ổn định tỷ giá Ngân hàng trung
ương (NHTW) mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát. Việc kiểm soát dòng vốn,
3
theo quy định của pháp lệnh ngoại hối thì nước ta đã tự do hóa giao dịch vãng lai, còn
các giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối.
Theo lý thuyết này, với một tài khoản vốn mở, một đất nước không thể đạt được cùng
một lúc 2 mục tiêu: vừa ổn định lạm phát vừa ổn định tỷ giá. Các nỗ lực tăng lãi suất
để giảm áp lực lạm phát thì đồng thời cũng làm tăng khả năng thu hút vốn từ bên
ngoài, dẫn đến tỷ giá lại được nâng lên, gây khó khăn cho NHTW về mục tiêu tỷ giá
hối đoái. Tác động ngược chiều nhau của 2 mục tiêu kết hợp với chính sách tiền tệ
chưa phát triển cao ở nước ta rất là khó khăn để giải quyết.
Vì vậy vấn đề dặt ra cho nước ta là phải lựa chọn mục tiêu theo đuổi trong quản
lý kinh tế vĩ mô để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong ba mục tiêu trên thì
kiểm soát lạm phát là mục tiêu quan trọng nhất không thể bỏ, còn vấn đề tỷ giá và kiểm
soát dùng vốn cần có sự lựa chọn cho phù hợp để hạn chế mức thấp nhất ảnh hưởng
của “bộ ba bất khả thi”. Vậy cơ chế điều hành tỷ giá nào là phù hợp với tình hình và
mức độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam hiện nay? Cũng có rất nhiều quan
điểm khác nhau về áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái hiện nay, có ý kiến cho rằng trong
bối cảnh lạm phát cao, dòng vốn vào nhiều nên để VND lên giá theo cung cầu thị
trường thì mới kiểm soát được lạm phát, có ý kiến ngược lại là phải can thiệp để phá
giá VND, từ đó giảm thâm hụt cán cân thương mại mà hiện nay đang thâm hụt ở mức
báo động. Ý kiến của TS Phạm Lan Hương chuyên gia kinh tế của Viện nghiên cứu

Quản lý kinh tế Trung ương, cùng quan điểm với nhận định của nhiều chuyên gia kinh
tế thế giới, cho rằng: “ Trong bối cảnh thị trường ngoại hối bấp bênh trên phạm vi
toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế và đầu tư cao, tỷ giá hối đoái ổn định trong hoàn
cảnh khó khăn, Quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên là những bước phát triển tích cực có ý
nghĩa quan trọng ở Việt Nam. Bình ổn giá của đồng nội tệ, điều này góp phần duy trì
khả năng cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam gia nhập
WTO”.
Có hai vấn đề quan trọng cần được xem xét khi lựa chọn cơ chế điều hành tỷ
giá, đó là xem xét tác động chính sách tỷ giá trên khía cạnh vĩ mô và vi mô. Xét về
khía cạnh vĩ mô, một chính sách tỷ giá cần phải được nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc thiết lập một cái neo rõ ràng và đáng tin cậy như một nhân tố của chiến lược
chính sách nhằm ổn định mức giá trong nước và ổn định thị trường tài chính. Về khía
cạnh vi mô, chính sách tỷ giá cần phải được nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì
khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế, đảm bảo một vị thế cán cân thanh toán
mạnh, theo đó, chính sách tỷ giá gắn với các biến số kinh tế thực.
Tình hình và đặc điểm kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và lạm phát gia
tăng thì việc lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiểm chế lạm phát
và ổn định thị trường tiền tệ là không đơn giản với tình trạng đôla hoá như hiện nay.
Điều đó cũng cho thấy không thể lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi ngay lập tức mà cần
phải có lộ trình cụ thể để đảm bảo ổn định thị trường tài chính. Mặc dù lạm phát là mục
tiêu quan trọng hàng đầu, song do tính tác động yếu của tỷ giá đến lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Vì vậy, nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị
trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế.
4
3.2 Thực trạng qua các năm
3.2.1 Tình hình tỷ giá năm 2009
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng
mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm
cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần…
Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều

chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và tháng 11
là (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng
tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài
biên độ cho phép của NHNN. Và tình hình thị trường ngoại hối luôn diễn ra căng
thẳng.
Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Từ biểu đồ trên cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá
mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì
thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh
nghiệp và nếu có thì cũng bán ở mức cao hơn tỷ giá trần do NHNN quy định dẫn đến
các doanh nghiệp đã liên tục gặp phải nhiều vấn đề khó khăn cho việc xuất nhập khẩu.
Kết hợp với sự mất giá của đồng tiền ảnh hưởng đến lạm phát làm cho nhập khẩu cũng
tăng mạnh.Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị
trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt
được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái chủ yếu được thể hiện qua 3 góc độ:
5
Thứ nhất là thị trường liên ngân hàng:
Từ tháng 1- tháng 3 tỷ giá dao động trong khoảng 17.450 đồng – 17.700 đồng,
cách giấ trần khoảng từ 0 – 200 điểm (một điểm tương đương 1 đồng), lúc đó tính
thanh khoản thị trường kém, nguồn cung khan hiếm, trừ thời điểm thị trường được bổ
sung từ doanh thu xuất khẩu vàng.
Từ tháng 4 – tháng 9, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của NHNN trong khoảng
10 ngày sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ +/-3 lên +/-5 vào ngày 23/3/2009. Ngày
9/4, tỷ giá liên ngân hàng tăng mạnh và duy trì biên độ 200-600 điểm so với giá trần.
Từ cuối tháng 10, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11, cao hơn giá trần 1000
điểm. Biến động tỷ giá rất dữ dội, có ngày tăng 200-300 điểm và vào ngày 24/11 đạt
đỉnh mức là 19.750. Chỉ đến khi NHNN cho phép nhập vàng trở lại, tỷ giá ở thị trường
này giảm trong 2 ngày nhưng vẫn cao hơn 1.200 - 1.500 điểm so với giá trần.
Từ 25/11 đến hết năm 2009 tỷ giá giao dịch liên ngân hàng giảm từ mức cao

19.800 đồng xuống 18.500 đồng, sát với giá trần.
Thứ hai ở thị trường tự do tỷ giá biến động dữ dội hơn rất nhiều:
Từ tháng 1- tháng 3, dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.800 đồng, cao
hơn tỷ giá trên liên ngân hàng trên 100 điểm.
Từ tháng 4 - tháng 9, từ 18.180 đồng - 18.250 đồng nhưng từ nửa cuối tháng
6/2009, tăng lên mức 18.450 đồng - 18.500 đồng.
Từ tháng 10 - ngày 24/11, tỷ giá thị trường tự do tăng rất nhanh, đạt đỉnh 20.000
đồng rồi giảm nhanh về 18.700 đồng trước khi tăng trở lại và duy trì ở mức 19.000
đồng - 19.300 đồng.
Từ 25/11 đến hết năm 2009,tỷ giá thị trường này giảm mạnh.
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: biến động rất ít
Từ tháng 1- tháng 3,biến động nhỏ và xoay quanh mức 16.980 đồng.
Từ tháng 4 – tháng 9, sau khi nới biên độ, tỷ giá giảm từ 16.980 đồng xuống
16.935 đồng (- 0,26%) và duy trì đến hết tháng 5/2009. Từ tháng 6/2009, mặc dù
NHNN điều chỉnh tăng dần nhưng mức tăng thấp.
Từ ngày ngày 10/12 tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng của VND với USD do Ngân hàng Nhà nước công bố liên tục duy trì ở mức
17.941 VND, ngày 25/11 thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu đã ra quyết định giảm
biên độ dao động tỷ giá từ mức ±5% xuống còn ±3%, trong khi trước đó cam kết biên
độ dao động sẽ giữ nguyên ở mức ±5% cho đến hết năm.
3.2.2 Tình hình tỷ giá hối đoái năm 2010
Năm 2010, NHNN có 2 đợt điều chỉnh tỷ giá.
6
Lần đầu vào ngày 10/2/2010, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ 17.941 đồng lên 18.544 đồng/USD (mức tăng 3,3%), như vậy trần mua bán
USD tại các NHTM là 19.100 đồng/USD. Cùng ngày, NHNN cũng quy định mức lãi
suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại tổ chức
tín dụng tối đa là 1,0%/năm. Áp dụng từ ngày 11/2/2010.
Lần thứ 2, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 18.932
đồng/USD, áp dụng từ ngày 18/8, mức tăng 2,09%, trần mua bán USD tại các NHTM

tăng lên 19.500 đồng/USD. Tuy nhiên, dường như sự điều chỉnh này vẫn chưa làm thoả
mãn “cơn khát” của thị trường. Tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do vẫn luôn cao hơn
thị trường chính thức. Vào ngày 02/11/2010, mức chênh lệch này đã lên tới 1,500
VND/USD, tức 7.69%, một mức khá cao so với các đợt điều chỉnh tỷ giá trước đó.
Sau lần điều chỉnh tỷ giá thứ 2 của NHNN, cùng với những biến động bất ổn
của giá vàng trong nước và quốc tế, trên thị trường tự do, đô la Mỹ đã có lúc lập kỷ lục
21.530 đồng/USD, tăng 12% so với giá đóng cửa năm 2009 và cao hơn tỷ giá niêm yết
tại các NHTM cùng thời điểm khoảng 10%.
Diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2010
Nguồn: Bloomberg
Khoảng màu xanh là chênh lệch giữa tỷ giá USD tự do và USD ngân hàng
Tỷ giá tăng mạnh gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp nhập khẩu bởi họ vẫn
phải mua USD tại ngân hàng với tỷ giá như trên thị trường tự do. Lý do là các NHTM
không đủ nguồn cung cấp USD cho doanh nghiệp nhập khẩu khi các doanh nghiệp xuất
khẩu không chịu bán USD cho ngân hàng.
7
Ngày 04/11/2010, Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia công bố Chính phủ đồng
ý bơm mạnh ngoại tệ vào các ngành phục vụ sản xuất thiết yếu chứ không bơm vào
xuất khẩu và Chính phủ sẽ không điều chỉnh tỷ giá đến cuối năm. Theo ông Lê Đức
Thúy, trong tháng 10/2010, NHNN đã bán ra 200 triệu USD để bình ổn thị trường.
VND cũng đang bị mất giá khá mạnh khi so sánh với các đồng tiền khác trong
khu vực. Sử dụng tỷ giá 19.500 VND/USD để quy đổi chéo, từ đầu năm đến tháng
11/2010 VND mất giá hơn 20% so với đồng Yên của Nhật Bản, hơn 17% so với đồng
tiền của Thái Lan và Malaysia, gần 8% so với đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. Nếu
sử dụng tỷ giá thị trường tự do thì mức mất giá của VND đang rất cao so với các đồng
tiền khác.
Sở dĩ có hiện tượng này là vì các đồng nội tệ của hầu hết các quốc gia Đông
Nam Á đã lên giá so với USD, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ mạnh vào khu vực này,
trong khi đó VND lại mất giá so với USD.
Vào đầu tháng 12/2010, tỷ giá có lúc đã tiến sát mốc 22,000 VND/USD,tỷ giá

trên thị trường tự do được giao dịch khá bình ổn quanh mốc 21,000 VND/USD, cao
hơn gần 8% so với tỷ giá niêm yết.
Việt Nam đang áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết và VND được neo
theo USD. Tỷ giá giữa VND so với các đồng tiền khác được quy đổi chéo giữa USD
với đồng tiền đó và giữa USD với VND. Do vậy, việc VND mất giá so với USD và
USD lại mất giá so với các đồng tiền khác làm cho VND càng mất giá mạnh so với các
tiền tệ đó. Để hiểu rõ hơn hãy cùng xem số liệu bảng bên dưới.
Biến động tỷ giá một số đồng tiền so với VND đầu năm 2010 đến 05/01/2011
8
Trong năm 2010, theo tỷ giá chính thức, VND mất giá 17% so với đồng JPY
(Nhật Bản), 16% so với MYR (Malaysia), 15.8% so với THB (Thái Lan), 8.76% so với
CNY (Trung Quốc).
Tuy nhiên, VND lại tăng giá 3.57% so với EUR do đồng tiền này mất giá 9.4%
so với USD. Nếu sử dụng tỷ giá thị trường tự do thì mức giá năm này của VND sẽ cao
hơn nhiều so với các đồng tiền khác.
Hiện tượng này xảy ra do đồng nội tệ của hầu hết các quốc gia Đông nam Á đã
len giá so với USD, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ mạnh vào khu vực này, trong khi
đó VND lại mất giá so với đồng USD.
Kể từ sau đợt nâng giá liên ngân hàng từ 18.544 lên 19.532 VND/USD vào ngày
17/8 đến hết năm thì tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do luôn vượt tỷ giá niêm yết
chính thức. Người dân đổ xô đi mua USD để tích trữ, còn doanh nghiệp không mua
được ngoại tệ từ NHNN dẫn đến việc kinh doanh gặp vô cùng khó khăn.
Tỷ giá tăng vọt ảnh hưởng tới giá vàng, giá hàng nhập khẩu tăng, thị trường
đang bị mất cân đối giữa cung cầu ngoại tệ cục bộ, nguyên nhân chủ yếu là do sự điều
hòa chính sách tiền tệ, lãi xuất của NHNN.
Việc tiền đồng mất giá khá mạnh so với các đồng tiền khác có tác động tích cực
giúp gia tăng tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, điều
này lại làm tăng gánh nặng nợ của Việt Nam, đặc biệt là lượng nợ công tính bằng đồng
Yên Nhật và việc tiền đồng mất giá mạnh so với USD trong khi đồng tiền của các quốc
gia khác lại lên giá cho thấy kinh tế Việt Nam tồn tại khá nhiều yếu tố chưa ổn định.

Trong năm này thì tình trạng bất thường ngoại hối liên tục xảy ra như sau:
+ Thị trường ngoại hối thường xuyên căng thẳng trong suốt quý 1 với sự mất
cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ trong nước, có thời điểm chênh lệch giữa thị trường
tự do và niêm yết chính thức là 200 đồng.
+ Nhập xiêu cao và nhu cầu vay ngoại tệ đang có xu hướng giảm do NHNN
điều chỉnh lãi suất VND giảm nhẹ, trong đó lãi suất ngoại tệ lại tăng lên, ảnh hưởng
đến nhiều hợp đồng vay đáo hạn khiến cho doanh nghiệp phải thu gom tích trữ USD để
trả nợ.
+ Cùng với mức độ lạm phát 11,75% trong năm là một con số cao, làm cho
VND mất giá so với USD, có lúc VND định giá cao hơn so với giá thực trong khi sức
ép tỷ giá đang gia tăng từ nhiều phía như thâm hụt vãng lai lớn, tỷ lệ vốn từ bên ngoài
so với dự trữ ngoại tệ tăng từ 37% năm 2009 lên 80% khi tỷ giá hối đoái kém linh hoạt
và bị định giá quá cao so với tỷ giá thực -> ảnh hưởng của tỷ giá đến nền kinh tế.
3.2.3 Tình hình tỷ giá hối đoái 4 tháng đầu năm 2011
Sau một thời gian dài kiềm giữ tỷ giá USD chính thức ở mức 18.932 đồng/USD,
khiến chênh lệch thị trường chính thức và thị trường tự do bị đẩy lên tới 2000-3000
VND/1 USD, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 9,3%,
9
đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch xuống ±1% từ ngày 11/2/2011.Việc điều chỉnh tỷ
giá đã không tạo cú sốc quá lớn đến thị trường ngoại hối, bởi động thái này đơn giản
chỉ là chính thức hóa và phản ánh lại diễn biến tỷ giá đã bị kìm nén từ năm 2010, khi
giá trị VND chịu quá nhiều sức ép giảm giá do thâm hụt thương mại dai dẳng, lạm phát
trong nước ở mức cao, dự trữ ngoại hối mỏng và kỳ vọng mất giá tiền đồng cao hơn.
Với việc thu hẹp biên độ giao động còn +/-1% và thay đổi tỷ giá liên ngân hàng
hàng ngày, việc điều hành tỷ giá của NHNN sẽ linh hoạt hơn, thay vì điều hành “giật
cục” (giữ nguyên tỷ giá trong thời gian dài và điều chỉnh đột ngột) dễ dẫn đến tâm lý
bất ổn trên thị trường ngoại hối.
Nếu tỷ giá thay đổi hàng ngày bám sát thị trường, cộng thêm quy định về trạng
thái ngoại hối được phép giữ lại của các NHTM, việc mua bán USD giữa NHNN và
NHTM sẽ nhịp nhàng hơn và có thể giúp tỷ giá ít biến động mạnh.

Diễn biến tỷ giá trên các thị trường trong quý 1 năm 2011
Nguồn: SBC, TVSC
Gần đây nhất là ngày 29/4/2011, Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước bất ngờ
điều chỉnh giá giao dịch cặp tỷ giá USD/VND. Giá USD mua vào của đầu mối này tăng
rất mạnh, từ mức 20.486 VND lên tới 20.700 VND, tăng tới 214 VND - một bước tăng
hoàn toàn khác biệt so với quãng giao dịch suốt thời gian qua.
Kể từ sau thời điểm áp cơ chế điều hành tỷ giá mới (từ 11/2/2011), đặc biệt từ đà
đổ dốc rất mạnh của giá USD trên biểu niêm yết của các ngân hàng thương mại, Sở
Giao dịch Ngân hàng Nhà luôn duy trì mức giá USD mua vào rất thấp và chênh với giá
bán ra tới 400 - 500 VND. Thông điệp mua vào của nhà điều hành đã thể hiện qua điều
chỉnh trên. Và đây được xem là mũi tên ngắm 3 đích:
+ Trước sự sụt giảm mạnh của giá USD với áp lực nguồn cung thuận lợi, cơ hội
mua vào để cải thiện dự trữ ngoại hối - vốn đã bị tiêu hao mạnh trong ba năm qua.
10
+ Do cung USD lớn trên thị trường, các ngân hàng phải dùng một lượng vốn lớn
bằng VND để mua vào, thanh khoản VND đang làm một vấn đề có thể cần can thiệp.
+ Nâng cao giá mua vào, đà rơi của tỷ giá USD/VND trước mắt đã được chặn
lại, thậm chí đã đảo chiều tăng ngay trong ngày 29. Bởi nếu tỷ giá tiếp tục giảm sẽ gây
bất lợi cho các nhà xuất khẩu trong khi nhập siêu đang có diễn biến phức tạp sau 4
tháng đầu năm.
3.3 Nguyên nhân biến động tỷ giá ngoại hối ở Việt Nam
3.3.1 Nguyên nhân chung
Nhân tố quan trọng đầu tiên là tác động tỷ giá hối đoái là tâm lý số đông. Người
dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các nhân tố
trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. họ bị chi phối bởi các tin đồn cũng như
các kỳ vọng vào tương lai: nếu họ kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai
thì họ sẽ đổ xô đi mua ngoại tệ -> tỷ giá sẽ tăng ngay lên trong hiện tại. Ngược lại nếu
có tin đồn Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương
mại thì họ lại ồ ạt bán ngoại tệ -> tỷ giá sẽ giảm nhanh.
Cán cân thương mại là sự chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch

nhập khẩu. Khi thặng dư thương mại thì cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ dẫn đến tỷ
giá hối đoái giảm, đồng nội tệ sẽ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái tăng,
đồng nội tệ lên giá.
Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy
vào trong nước. Khi đầu tư ròng ra nước ngoài dương thì luồng vốn ngoại tệ chảy vào
trong nước sẽ nhỏ hơn nguồn vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài -> tỷ giá hối đoái tăng.
Tỷ giá sẽ giảm trong trường hợp ngược lại khi đầu tư dòng âm. Một nền kinh tế sẽ thu
hút được nhiều nguồn vốn nước ngoài khi có môi trường đầu tư thuận lợi, nền trính trị
ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường
tiêu thụ rộng rãi, lãi suất cao với sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài của chính phủ.
Lạm phát, khi có lạm phát sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không
đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn ngoài nước, theo quy luật cung cầu, cư dân
trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn hàng nội địa vì giá rẻ hơn, nhập
khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Ngược lại thì tỷ giá hối đoái sẽ giảm.
Lạm phát ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng
gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trương hợp các quốc gia đều có lạm phát
thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các nước. Nước
nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng nội tệ của nước đó sẽ mất giá một cách tương
đối và tỷ giá hối đoái sẽ tăng
3.3.2 Nguyên ngân cụ thể
Mặc dù ngân hàng quá dồi dào nguồn ngoại tệ cho vay tới hàng tỷ USD,
khiến lãi suất giảm thấp. Khi thiếu, một mặt ngân hàng không có nguồn bán cho doanh
11
nghiệp, khiến doanh nghiệp tăng cường “vét” trên thị trường tự do, đẩy tỷ giá ở thị
trường này tăng chóng mặt; mặt khác, họ hối thúc Ngân hàng Nhà nước phải bán ra.
Thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã hành động theo hướng này và mỗi lần thực hiện
“bơm” ra, thị trường bình ổn trở lại nhưng khi hết đợt, tỷ giá lại tăng. Có những thời
điểm, NHNN bán ra bao nhiêu, hết bấy nhiêu, hệt như đổ vào “hố đen” không đáy.
Sự biến động của thị trường thế giới và giá đồng USD có hướng tăng lên. Diễn

biến này có thể lôi kéo giá USD trong nước trong quan hệ với VND. Diễn biến này
cũng tác động nhất định đến tâm lý người dân, nhà đầu tư tong nước, thúc đẩy họ mua
ngoại tệ vào và kích thêm cầu.
Lạm phát cao: năm 2009 là 6,52%, năm 2010 là 11,75%, 4 tháng đầu năm 2011
là khoảng 9,64% dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng và đồng VND cũng bị mất giá so với các
đồng ngoại tệ khác.
Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Việc đồng nội tệ luôn chịu áp lực mất giá là
do sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Bản chất là một nền kinh tế
nhập siêu lớn khiến cho cán cân tài khoản vãng lai chênh lệch hàng chục tỷ USD.
Khoản mục sai số trong Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong năm 2009 bị
âm đến 9,4 tỷ USD, năm 2010 âm là 3,06 tỷ USD do nhu cầu nhập khẩu tăng cao, các
khoản tiền vay bằng ngoại tệ đến hạn phải trả Trong khi đó, các nguồn thu từ giải
ngân FDI và kiều hối không đáp ứng kịp cũng khiến cho thị trường ngoại tệ xáo trộn.
Lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm: tình trạng đô-la hoá của nền kinh tế đã tăng
mạnh trong năm. Dư nợ của những khoản vay bằng ngoại tệ tăng cao hơn rất nhiều so
với dư nợ nội tệ. Tình trạng niêm yết giá hàng hoá bằng USD vẫn diễn ra phổ biến. Dự
trữ ngoại hối của Việt Nam mức khá thấp và nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng
lên, mà phần lớn các khoản nợ này là nợ dài hạn nhưng đây vẫn là một mối đe doạ đến
việc ổn định tỷ giá. Lòng tin sụt giảm khiến người dân tăng cường tích trữ ngoại tệ.
Khoản mục sai số trong cán cân thanh toán cũng âm khoảng 6 tỷ USD.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm và đang ở mức khá thấp. Không những
vậy, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng lên đáng kể (39% GDP vào cuối năm
2009), nợ công ở mức 56% GDP. Dù phần lớn các khoản nợ này là nợ dài hạn nhưng
đây vẫn là một mối đe dọa đến việc ổn định tỷ giá.
Cơ chế điều hành tỷ giá “nặng về ý chí”: Việc điều hành tỷ giá của Việt Nam
được thực hiện theo cơ chế “thả nổi có điều tiết”. Tỷ giá tham chiếu là tỷ giá liên ngân
hàng dao động trong biên độ +/- 3%. Tuy nhiên, tỷ giá liên ngân hàng thường thấp hơn
nhiều so với tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường do người mua phải trả thêm các
khoản phí. Những đợt điều chỉnh tỷ giá của NHNN thường khá ”đột ngột” và hầu như
thị trường không thể dự báo trước, khiến cho thị trường phản ứng không tích cực đối

với các lần điều chỉnh tỷ giá và lòng tin vào sự ổn định tỷ giá càng suy giảm.
3.4 Đánh giá
Tiến bộ:
12
+ Ổn định tỷ giá, góp phần hạn chế tốc độ tăng của chỉ số giá.
+ Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với cung - cầu.
+ Từng bước nâng cao vị thế VND.
+ Có nhiều chuyển biến tích cực về mặt chính sách theo hướng tỷ giá ngày càng
linh hoạt.
+ Sử dụng rổ tiền tệ làm nền tảng điều hành chính sách tỷ giá.
Tồn tại:
+ Cung - cầu ngoại tệ bị biến dạng, không phản ánh đúng thực tế khách quan
của thị trường.
+ Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hiệu quả hoạt động chưa cao.
+ Thị trường chợ đen vẫn còn tồn tại.
+ Hiện tượng đô la hóa ngày càng tăng.
4. Kiến nghị và giải pháp
4.1 Kiến nghị
Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích
thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ
ngoại tệ nhiều hơn nữa.
Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng
tiền chuyển đổi.Phối hợp chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hóa.
Tiếp tục duy trì cơ chế thả nổi có quản lý của nhà nước. Chính sách tỷ giá phải
đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ hợp lý các doanh nghiệp trong nước.
Hoạt động giữa xuất và nhập khẩu phải hài hòa nên đẩy mạnh xuất khẩu các mặt
hàng nào có lợi, ít nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước có thể tự sản xuất ra được.
4.2 Giải pháp
Thường xuyên phân tích tình kinh tế thới giới, trong khu vực và trong nước để

đề ra chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với từng giai đoạn.
Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối như:
+ Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ, tiết kiệm chi ngoại tệ. Đầu
tiên hãy coi USD có một vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại hối nhưng đồng thời phải
đa dạng hóa trữ các ngoại tệ mạnh khác để phòng tránh rủi ro.
+ Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối như giảm dần tiến đến bỏ
bớt sự can thiệp trực tiếp của NHNN trong việc xác định tỷ giá, nâng cao tính chủ động
trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại…
13
Hoàn thiện thị trường ngoại hối như mở rộng hơn để các doanh nghiệp, các định
chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày càng nhiều.
Hoàn chỉnh thị trường liên ngân hàng để nhà nước có thể nắm bắt tình hình cung
cầu ngoại tệ một cách rõ hơn trong việc thực thi chính sách khi cần thiết, điều hòa giữa
thị trường ngoại tệ và nội tệ một cách thông thoáng.
Thực hiện chính sách đa ngoại tệ: Hiện nay USD có vị thế mạnh hơn hẳn các
ngoại tệ khác, nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng USD làm ngoại tệ trong nước sẽ
làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế
giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là
những ảnh hưởng rất bất lợi. Vậy nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và
dự trữ như đồng EURO, yên Nhật Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ
làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
Từng bước năng cao vị thế đồng Việt Nam:
+ Kích thích nền kinh tế như hiện đại hóa nền sản xuất trong nước, đẩy nhanh
tốc độ cổ phần hóa doanh nghiêp, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,
xây dựng chính sách phát triển phù hợp, chống tham nhũng…
+ Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng Việt Nam tác động tích cực thu
hút vốn đầu tư, hạn chế khả năng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia.
+ Nhanh chóng cải thiện khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc xuất khẩu tạo nền kinh tế vững mạnh.
Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá: Chính phủ phải tiến

hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được
quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị
trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ.
Phối hợp các chính sách vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả
cao, hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái phù hợp.
Xem phá giá nhỏ như là biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân
thương mại. Vận dụng tỷ giá để đề phòng và hạn chế rủi ro bằng cách sử dụng các công
cụ phòng ngừa rủi ro như hợp đồng dài hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ.
Giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay ngắn hạn từ
nước ngoài của các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn của ngân hàng có bảo lãnh từ ngân
hàng, các khoản trái phiếu bằng ngoại tệ kể cả của chính phủ. Các khoản vay ngắn hạn
thường tăng lên rất nhanh gắn với tài trợ L/C nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung
cầu ngoại tệ biến động mạnh và bất thường, gây khó khăn lớn cho việc điều hành tỷ giá
hối đoái và lãi suất ngoại tệ – cũng như nội tệ.
Luồng vốn đầu tư nước ngoài vào VN vẫn còn rất lớn. Trong điều kiện chưa thả
nổi tỷ giá hối đoái thì việc mua ngoại tệ vào và trung hòa tiền tệ vẫn phải tiếp tục thực
14
hiện. Vì vậy, tình trạng mua cao bán thấp vẫn còn là áp lực lớn đối với dòng tiền của
Ngân hàng Nhà nước.
Nói chung, muốn có hiệu quả cao trong việc quản lý chính sách tỷ giá hối đoái
thì phải kết hợp rất nhiều các chính sách vĩ mô khác, đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có
bước đi phù hợp, không nóng vội tránh để tình trạng kinh tế tăng trưởng quá nóng.
Các trang website tham khảo
+ />+
+
+ Diễn biến tỷ giá năm 2008, 2009, 2010.
+ Diễn biến tỷ giá trên các thị trường trong quý 1 năm 2011
+ Tỷ giá hối đoái trong tháng 4/2011

15

×