Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

báo cáo thủy sinh đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.47 KB, 16 trang )

I. Mở Đầu
Việt Nam (tọa độ địa lý: Kinh tuyến: 102°8′ - 109°27′ Đông; Vĩ tuyến: 8°27′ - 23°23′
Bắc) nằm ở cực Đông Nam bán đảo Đông Dương. Vùng biển của Việt Nam chiếm
diện tích khoảng 1.000.000 km². Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía
nam, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc,
Lào và Campuchia phía tây. Việt Nam hình chữ S và khoảng cách từ bắc tới nam
là khoảng 1.650 km, vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây là 50 km. Với đường
bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. (thiếu ý nối đoạn)
Hệ sinh thái cỏ biển đóng vai trò quan trọng trong cả hệ thống ven biển rộng lớn và
có mối tương tác qua lại với môi trường sống này. Các thảm cỏ biển được coi như
một nguồn lợi biển quan trọng bởi khả năng ổn định nền đáy, tổng hợp các chất
hữu cơ từ vô cơ như cacbon, nitơ, oxy và phốt pho, tham gia vào chuỗi thức ăn, chu
trình dinh dưỡng và là nơi sống cho nhiều loài có giá trị kinh tế cao
Từ năm 1999 đến nay, Việt Nam đã có khoảng 60 công trình công bố về hệ sinh thái
cỏ biển, đó là những cố gắng nỗ lực của các nhà khoa học để giúp cho hệ sinh thái
cỏ biển Việt Nam theo kịp với thế giới. Tuy nhiên, những nghiên cứu về hệ sinh thái
cỏ biển còn hạn chế so với các hệ sinh thái biển khác. Hơn nữa, những hiểu biết về
hệ sinh thái cỏ biển còn chưa đầy đủ và các thảm cỏ biển đang dần dần bị mất đi
trên toàn thế giới và cả Việt Nam. Những tiến bộ trong nghiên cứu cỏ biển không
kịp để lấp những lỗ hổng về khả năng dự báo trong tương lai.
Để góp phần vào việc đánh giá hiện trạng và phân tích tác động của việc xây dựng
các khu du lịch mà đặc biệt là tại Đầm Già, Đầm Tre (vịnh Nha Trang) và Mỹ Giang
(vịnh Vân Phong). Chúng tôi đã kế thừa các nghiên cứu trước đây về Cỏ biển để tiến
hành nội dung nghiên cứu này.
II. Tổng Quan
1. Định nghĩa
Cỏ biển là thực vật có hoa, sống ngập chìm trong nước biển (Lewmanomont,
1995).Hình thái cỏ biển được chia thành 4 phần rõ rệt bao gồm thân bò, thân đứng,
lá và rễ bám chặt vào nền đáy (den Hartog, 1970).Chúng chiếm ưu thế ở các cửa
sông, vịnh, đầm phá (Kirkman, 1996). Cỏ biển được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới
và vùng nước ấm trên thế giới và là một thành phần quan trọng của hệ sinh thái


ven bờ (den Hartog, 1970; Fortes, 1993; Lewmanomont, 1995)
2. Phân Loại (Đưa khóa phân loại vào)
3. . Hệ sinh thái thảm cỏ biển
a, Phân bố và cấu trúc
1
Bên dưới mặt nước, trên lớp trầm tích thủy vực cạn, thường có những tập đoàn
dày đặc các loài cỏ thủy sinh. Trên thế giới 58 loài đã được phát hiện thuộc 12
giống, 4 họ và 2 bộ. Tuy nhiên, phân bố của cỏ biển đang bị suy giảm do các hoạt
động của con người và thiên nhiên (UNDP, 2004)
Sự phân bố các loài cỏ phụ thuộc các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, sự phân
tầng, sóng, dòng chảy, dưỡng chất, tính chất nền đáy và nguồn giống sẵn có. Sự đa
dạng của cỏ biển có liên quan đến các nhân tố tại chỗ. Số loài nhiều nhất được ghi
nhận ở vùng có nền đáy bùn cát, được che chắn một phần tác động mạnh của sóng
gió. Ngược lại, thành phần loài rất nghèo ở vùng đối sóng với nền đáy cứng hoặc
không ổn định và ở những nơi hoàn toàn bị che chắn với nền đáy bùn. Cỏ biển là
một nhóm thực vật bậc cao sống thủy sinh ở vùng ven bờ biển nhiệt đới và ôn đới.
Chúng phát triển mạnh ở vùng nước cạn nơi có chiều sâu nước và độ đục cho phép
ánh sáng chiếu qua, và có khả năng thích nghi với môi trường nước mặn, chịu được
sóng gió và có khả năng thụ phấn nhờ nước. Người ta thấy sự phân bố từng loài
theo các chiều sâu khác nhau, mang tính đặc trưng loài. Các thảm cỏ biển bao phủ
một số vùng rộng lớn ở dãi ven bờ với nhiều chức năng lý-sinh học và tạo nên một
hệ sinh thái đặc thù.
Hầu hết các thảm cỏ biển xuất hiện ở các vùng nước trũng đến độ sâu 30 m. Cỏ biển
là một đặc trưng của các hệ sinh thái vùng nhiệt đới, có năng suất ngang với các
rạn san hô. Các thảm cỏ biển tập trung ở Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, vịnh
Caribbe và vùng bờ Thái Bình Dương thuộc Trung Mỹ. Vùng Đông Á có khu hệ cỏ
biển đa dạng nhất thế giới và có thể đây là trung tâm phát tán của cỏ biển. Chính vì
vậy, chúng rất phong phú ở dãi ven biển thuộc vùng này.
Từng thảm cỏ biển có tính phân đới từ vùng triều thấp đến vùng dưới triều. Mỗi
đới có loài ưu thế và tổ hợp loài kèm theo trong mối quan hệ với dạng sinh trưởng

của cây. Cấu trúc của quần hợp cỏ biển còn thay đổi theo mùa. Tuy nhiên, sự biến
thiên cũng rất khác nhau giữa các loài, tùy theo khả năng thích nghi với biến động
điều kiện môi trường. Sinh vật bám (periphyton) là thành phần quan trọng của
thảm cỏ biển.
Trong nhóm này có các sinh vật nhỏ như tảo, vi khuẩn, nấm, động vật và mùn bã
hữu cơ. Chúng đóng góp một phần đáng kể cho dòng carbon tổng số trong thảm cỏ
biển và trở nên có ý nghĩa sinh thái đối với vùng ven bờ nhiệt đới. Các nghiên cứu ở
Đông Nam Á chỉ ra rằng rong đỏ (Phodophytes) chiếm ưu thế trong quần hợp sống
bám. Tính ưu thế thấp hơn thuộc về rong lục (Chlorophytes) rong nâu
(Phaeophytes) và vi khuẩn lam (Cyanobacteria). Tuy vậy, tính ưu thế thay đổi và
phụ thuộc vào điều kiện tại chỗ. Tảo lam xanh (blue-green algae) thường gặp hơn
ở thảm cỏ biển nước lợ, còn các nhóm khác nhiều hơn trong vùng biển khơi. Số
2
lượng loài cá trong thảm cỏ biển nhiều hơn 5 lần so với trên nền đáy biển là bùn,
xác sinh vật và cát. Động vật đáy lớn thường gặp trong thảm cỏ biển gồm tôm, hải
sâm, cầu gai, cua, điệp, vẹm và ốc. Một số trong chúng có thể đạt số lượng và mật
độ cao. Trong khi đó, rong biển lớn tương đối kém phát triển do cỏ biển làm thay
đổi trầm tích đáy và chiếm lĩnh vùng cư trú.
Tuy vậy, một số ít loài rong cũng xuất hiện theo mùa vụ và có thể trở nên phong
phú. Hơn nữa, ở giai đoạn non, nhiều rong bám trên cỏ biển và chỉ bám đáy khi
trưởng thành. Một số sinh vật quý hiếm như bò sát và thú biển có mối quan hệ với
thảm cỏ biển. Trong các loài bò sát, rùa Xanh Chelonia mydas, rùa Lepidochelys
olivacea, vích Caretta caretta, rùa Lưng dẹt Chelonia depressa và loài rắn
Acrochirdus granulatus thường xuất hiện trong các thảm cỏ dày ở Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Philippines. Đồi mồi cũng ăn cỏ biển, dù đây không phải là
thức ăn chính. Phân bố của bò biển Dugong dugong trùng hợp với vùng có cỏ biển.
Cỏ biển là thức ăn chính của loài thú quý hiếm và nhiều huyền thoại này.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu về cỏ biển đã được Phòng Thực vật biển, Viện Hải
dương học Nha Trang thực hiện từ năm 1996 cho thấy cỏ biển được tìm thấy nhiều
ở các tỉnh phía Nam Việt Nam. Chúng phân bố ở các ao đầm ven biển, vũng vịnh,

cửa sông, quanh các đảo với diện tích lên đến hàng nghìn hecta, đặc biệt tại Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu… Các loài ưu thế có kích thước
lớn như cỏ Lá dừa - Enhalus acoroides, cỏ Vích - Thalassia hemprichii và cỏ Kiệu
răng cưa - Cymodocea serrulata (Nguyễn Hữu Đại, 1999).
b, Chu trình dinh dưỡng
Vai trò sinh thái của thảm cỏ biển được quyết định bởi tốc độ hình thành chất hữu
cơ nhanh chóng của cỏ biển. Tính theo đơn vị diện tích, giá trị này cao hơn năng
suất của thực vật phù du. Các thảm cỏ biển có mật độ động vật và vi khuẩn cao hơn
và độ đa dạng loài lớn hơn so với các thủy vực không có thực vật. Điều này có được
là nhờ năng suất sinh học cao của chúng. Vào thời kỳ cao điểm của gió mùa, lá của
chúng bị đứt khỏi cây. Một số bị dòng nước rửa trôi đi, số còn lại chìm xuống đáy và
bị phân hủy. Sinh vật ăn mùn bã cắn xé lá cỏ thành những mảnh nhỏ và sau đó
được tiêu thụ bởi vi khuẩn và nấm. Nhiều động vật không xương sống cũng ăn cỏ
biển trong giai đoạn thối rữa. Đến lượt chúng trở thành thức ăn cho bậc dinh
dưỡng cao hơn như cá và cua. Do vậy, thảm cỏ biển kiểm soát tính phức tạp của
quần cư, tính đa dạng loài và độ phong phú của động vật không xương sống liên
quan và hình thành cấu trúc quần xã. Điều đáng nói là các sinh vật ăn tạp
(omivorous) khá phong phú trong quần xã sinh vật của thảm cỏ biển.
Nhóm này gồm nhiều loài giáp xác mười chân, ốc và một số da gai. Một loài có thể
ăn cỏ biển hoặc rong thối rữa, mùn bã nhỏ trên lá và nền đáy và cả những động vật
3
còn sống hay đã chết. Thậm chí một số cua bơi lớn còn ăn cả thân mềm, giáp xác,
giun nhiều tơ và một phần đáng kể mô thực vật thối rữa và tảo sợi.
Quá trình thối rữa là một đặc trưng của thảm cỏ biển. Nhờ đó mà các bộ phận của
cỏ biển khi chết đi đã giải phóng các chất hữu cơ. Cuối mùa sinh trưởng, phần lớn
rong bị chết và bắt đầu phân hủy. Trong quá trình đó, hầu hết các nguyên tố N,P,C
và nhiều nguyên tố khác có trong cỏ thủy sinh được giải phóng trở lại vào môi
trường ở dạng hòa tan. Các hợp phần carbon cấu trúc còn lại bị vi sinh vật (vi
khuẩn và nấm) phân hủy và các sản phẩm được phân hủy chứa nhiều vi khuẩn và
nấm trở thành thức ăn cho động vật đáy. Hầu hết động vật đa bào chỉ tiêu hóa vi

khuẩn và mô chết của lá thối rữa được thải ra cho quá trình phân hủy tiếp tục. Sự
phá vỡ mùn bã thành các mảnh nhỏ hơn làm tăng bề mặt tiếp xúc và tăng cường
hoạt động của vi sinh vật.
Quá trình trên đây cũng liên quan đến sự biến đổi theo mùa của quần xã sinh vật.
Các động vật ăn mùn bã và ăn lọc tăng lên vào mùa cỏ biển thối rữa. Ngược lại
động vật di chuyển ăn thực vật lại tăng vào mùa phát triển cỏ biển và giảm vào
thời kỳ thối rữa. Hàm lượng oxy cũng thay đổi, thường giảm vào mùa hè (mùa thối
rữa), với số lượng lớn của vi sinh vật, mùa này thuận lợi cho sự phát triển của ấu
trùng của sinh vật đáy ăn lọc và vì vậy là mùa sinh sản của nhiều loài.
c, Chức năng
Nhiều người đã rất quan tâm đến các sản phẩm của khu hệ cỏ thủy sinh vùng CSNL,
họ cho rằng bãi cỏ thủy sinh có vai trò quan trọng về mặt năng suất sinh học trong
hệ thủy sinh. Nó đóng góp vào sự phát triển của những sinh vật bậc cao hơn, thông
qua chuỗi thức ăn, tạo nơi che chở và lưu trú tránh địch hại cho động vật không
xương sống có vỏ, cũng như các giai đoạn ấu niên (juvenile) của các loài thủy sản.
Ngoài ra chúng còn tạo nền cho sự phát triển của những tập đoàn thực vật phụ
sinh phong phú. Mặt khác, bằng cách sa lắng chất lơ lững,hấp thụ chất dinh dưỡng
và những chất hòa tan khác, cỏ thủy sinh giúp làm tăng độ trong và giúp làm tốt
chất lượng chung của nước vùng CSNL.
Nhờ sự cố định năng lượng mặt trời có hiệu quả và sản lượng sinh khối cao, cỏ
biển có khả năng tăng cường và duy trì độ phì nhiêu của thủy vực. Điều này còn
được bổ sung bởi quá trình trao đổi vật chất hữu cơ có hiệu quả diễn ra trên lá và
nền đáy. Một chức năng quan trọng khác của thảm cỏ biển là cầu nối trong con
đường di cư của sinh vật và là quần cư ương giống cho biển. Các thảm cỏ biển
thường phát triển ở vùng trung gian của rừng ngập mặn và rạn san hô hoặc là
vùng đệm của hai hệ sinh thái khác nhau. Vì vậy, chúng trở thành điểm dừng chân
của nhiều loài cá, động vật không xương sống, thú và bò sát. Bằng việc cung cấp
nơi ẩn náu cũng như nguồn dinh dưỡng giàu có, thảm cỏ biển trở thành bãi ương
4
giống chất lượng cao của nhiều sinh vật. Nguồn giống sau khi được nuôi dưỡng ở

đây sẽ phát tán đến các hệ xung quanh ra biển khơi.
Thảm cỏ biển dày với hệ thống rễ neo chặt vào nền đáy có tác dụng làm giảm năng
lượng của sóng, dòng chảy và nhờ vậy chúng có khả năng chống xói lở, bảo vệ
đường bờ biển. Ở những vùng chịu nhiều bão tố, cỏ biển có vai trò lưu giữ trầm tích
nhờ hệ thống thân, rễ ngầm và nhờ vậy tạo nên vùng đệm chống sóng gió. Mặt
khác, thảm cỏ biển là bộ máy có hiệu quả cao đối với việc hấp thụ chất dinh dưỡng,
chất thải từ đất liền và có vai trò như những bẫy trầm tích làm giảm độ đục của
nước.
Hiện nay, các thảm cỏ biển đang cung cấp cho loài người những sản phẩm trực
tiếp như vật liệu di truyền, thực phẩm; vật liệu thô cho công nghiệp và năng lượng.
Ở các nước như Philippines, Indonesia, các loài rong sống trong thảm cỏ biển như
Caulerpa,Gracilaria, Coclidiela đang được khai thác làm thực phẩm, chế biến các
chất dùng trong công nghiệp và phân bón cho nông nghiệp. Nhiều loài sinh vật đáy
sống thường xuyên chỉ trải qua giai đoạn ấu trùng trong thảm cỏ biển được coi
như là có giá trị thương mại cao. Thành phần của chúng khá đa dạng gồm: tôm,
hải sâm, cầu gai, cua, vẹm và ốc. Tầm quan trọng của thảm cỏ biển đối với nghề cá
thường được đánh giá trong mối quan hệ chặt chẽ với rạn san hô. Mặt khác, một số
loài cá được khai thác ngay trên thảm cỏ biển mà sản lượng cao thuộc về các họ
bống và dìa, Ngoài ra, thảm cỏ biển còn được coi là môi trường thuận lợi cho nuôi
trồng trên biển. Du lịch biển cũng lấy thảm cỏ biển làm nơi giải trí, câu cá.
III. Hiện trạng thảm cỏ biển Việt Nam
1. Đa dạng loài
Việt Nam nằm trong vùng Biển Đông nơi có sự đa dạng loài cao theo xu hướng
tăng dần từ vùng cận nhiệt đới phía bắc tới vùng nhiệt đới phía nam. Tổng kết từ
các nguồn tài liệu từ năm 1997 đến nay cho thấy Việt Nam có tổng số 14 loài cỏ
biển, đó là: Zostera japonica, Halophila decipiens, H. minor, H. beccarii, H. ovalis,
Enhalus acoroides, Thalassia hemprichii, Cymodocea serrulata, C. rotundata,
Halodule pinifolia, H. uninervis, Syringodium isoetifolium, Thalassodendron
ciliatum, Ruppia maritima (Nguyễn Văn Tiến và cs, 2004). Tuy nhiên, sau trận bão
Linda năm 1997, thì loài cỏ biển Thalassodendron ciliatum đã bị biết mất hoàn

toàn tại Côn Đảo (Nguyễn Xuân Hòa và cs, 2002)
So với các nước trong khu vực thì Việt Nam đứng thứ 3 về đa dạng loài cỏ biển chỉ
sau Ôx-trây-lia thứ nhất (20 loài) và Philipin đứng thứ hai (16 loài) (UNEP, 2004).
So sánh thành phần loài giữa các vùng biển đặc trưng: Bắc, Trung, Nam Việt Nam
5
có thể thấy đa đạng loài thay đổi rõ nét giữa các vùng. Điều này không chỉ thể hiện
ở thành phần loài, diện tích phân bố mà còn ở cả đặc trưng sinh học của cỏ biển, là
kết quả của sự tương tác của các quần thể của từng loài với điều kiện môi trường.
Vùng biển Tây Nam Trung Bộ có đa dạng loài cao nhất (Côn Đảo: 10 loài; đảo Phú
Quốc: 9 loài; Khánh Hòa: 9 loài; Bình Thuận: 8 loài; Phú Quí: 7 loài; (Nguyễn Văn
Tiến và cs, 2006)), sau đó là Tam Giang - Cầu Hai và Lập An thuộc miền trung có 6
loài, vùng biển có thành phần loài cũng diện tích phân bố thấp là phía Bắc (Hạ
Long, Cát Bà: 5 loài).
Bảng 1. Thành phần loài và phân bố cỏ biển Việt Nam
Tên khoa học Phân bố
C. rotundata QNg, PY, KH, NT, BT, BR-VT, KG
Cymodocea serrulata KH, BR-VT, KG
Enhalus acoroides PY, KH, NT, BR-VT, KG
H. beccarii QN, HP,TB, NĐ, TH, QB, TT-H, ĐN, QNa, KH
H. minor QNg, KH, BT, BR-VT, PQ
H. ovalis QN, TT-H, BĐ, QNg, PY, KH, BT, BR-VT, KG
H. uninervis BĐ, QNg, PY, KH, NT, BT, BR-VT, KG
Halodule pinifolia TT-H, QNg, BR-VT, KG
Halophila decipiens HP, BR-VT
Ruppia maritima
QN, HP, TB, NĐ, NB, TH, QB, HT, TT-H, ĐN, QNa,
PY, KH
Syringodium isoetifolium BT, BR-VT, KG
Thalassia hemprichii TT-H, QNg, KH, PY, NT, BT, BR-VT, KG
Thalassodendron ciliatum BR-VT

Zostera japonica QN, HP, QB, TT-H, QNa, BĐ
Nguồn: Nguyễn Hữu Đại (2002); Nguyễn Văn Tiến và Đàm Đức Tiến (2000) Nguyễn Văn Tiến và cs
(2002); Nguyễn Văn Tiến và cs (2004).
2. Sự suy giảm cỏ biển và hậu quả
Trong khi 12.000 km
2
diện tích cỏ biển đã mất trên toàn cầu, riêng vùng biển Châu
Á-Thái Bình Dương có 10 điểm cảnh báo về sự suy giảm cỏ biển, chiếm 25% tổng số
các vùng cỏ biển mất trên toàn thế giới (Short và Wyllie -Echeverria, 1996). Riêng
Việt Nam, theo thống kê từ các tài liệu hiện có thì diện tích cỏ biển đang suy giảm
từ 40% đến 50% bởi hàng loạt các tác động do con người gây ra (Nguyễn Hữu Đại
và cs, 2002; Nguyễn Văn Tiến, 2004). Trong đó, vùng biển Khánh Hòa đã mất đi
30% trong vòng 5 năm từ năm 1997 đến 2002 (Nguyễn Hữu Đại và cs, 2006) do các
hoạt động nuôi trồng thủy sản. Diện tích thảm cỏ biển vùng biển phía bắc giảm đi
đến 90% do các hoạt động xây dựng phát triển ven bờ. Một số thảm cỏ biển Zostera
6
japonica ở vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng đã bị biến mất hoàn toàn. Đây là loài
cỏ biển ôn đới chỉ xuất hiện ở vùng biển Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Nhìn
chung, các thảm cỏ biển rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường nước và
chúng giảm đi nhanh chóng khi môi trường bị tác động mạnh.
Mất cỏ biển dẫn đến mất các chức năng và dịch vụ đi kèm của vùng ven biển. Thảm
cỏ biển mất làm thay đổi lưới thức ăn và mất nguồn lợi biển. Sự suy giảm chất
lượng nước biển và phá hủy nơi sinh cư tự nhiên đã làm giảm đáng kể nguồn lợi
sinh vật biển. Khoảng 85 loài được liệt kê là những loài đang bị đe dọa trong đó
hơn 70 loài có trong sách Đỏ Việt Nam. Trữ lượng nguồn lợi biển, năng suất và kích
thước cá biển đang giảm sút; ví dụ năm 1984 đến 1994 trữ lượng cá giảm 30%
(Nguyễn Văn Quân, 2006). Theo ngư dân ở Bãi Thơm (đảo Phú Quốc) cho biết khi
các thảm cỏ biển ở đây mất đi thì trữ lượng hải sản cũng suy giảm rõ rệt. Sự suy
giảm của các thảm cỏ biển cũng làm giảm nguồn lợi cá ngựa 200 - 250 kg/ha (năm
1980) xuống còn 70-80 kg/ha (Nguyễn Văn Quân, 2006). Trong hiện tại và tương

lai, sự suy giảm này còn tiếp tục ảnh hưởng đến đời sống của người dân và thế hệ
mai sau. Mặc dù, tỷ lệ đói nghèo của cộng đồng dân cư ven biển thấp hơn các vùng
khác, nhưng sự gia tăng dân số cùng với các phương thức đánh bắt hủy diệt và
phát triển không bền vững sẽ sớm tác động đến nền kinh tế.
IV. Hiện trạng các thảm cỏ biển tại Đầm Già, Đầm Tre (vịnh Nha Trang)
và Mỹ Giang (vịnh Vân Phong) (Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật lần thứ 3, 22/10/2009 - Viên ST&TNSV - Viện KH&CN Việt Nam)
A. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
1. Thảm cỏ biển tại Đầm Già và Đầm Tre, Vịnh Nha Trang
Thành phần loài
Tổng cộng có 5 loài được tìm thấy trong khu vực nghiên cứu, bao gồm: Halophila
ovalis (R. Brown) Hooker f.; Halophila minor (Zollinger) den Hartog; Thalassia
hemprichii (Ehrenberg) Ascherson; Enhalus acoroides (L.f.) Royle và Halodule
uninervis (Forsskal) Ascherson.
Cấu trúc thảm cỏ biển
Đầm Tre: Thảm cỏ biển thường đơn loài, hoặc là Halodule uninervis hoặc là
Halophila ovalis. Ở khu vực nước nông với độ sâu nhỏ hơn 4m, Halodule uninervis
chiếm ưu thế tạo thành thảm cỏ biển đơn loài. Từ độ sâu 4m trở đi, loài Halophila
7
ovalis hoàn toàn chiếm ưu thế và tạo thành thảm cỏ biển đơn loài phân bố tới độ
sâu 12m.
Đầm Già: Khác với Đầm Tre, cỏ Halophila ovalis ở khu vực này mọc ở độ sâu 2 m
tạo thành thảm cỏ đơn loài. Tuy nhiên, ở vùng nước sâu hơn Halophila ovalis,
Enhalus acoroides và Thalassia hemprichii tạo thành thảm cỏ hỗn hợp phân bố tới
độ sâu 5m.
Biến động sinh lượng và mật độ cỏ biển năm 2003 và 2006 tại Đầm Già và
Đầm Tre
Kết quả biến động mật độ và sinh lượng cỏ biển tại Đầm Tre được thể hiện qua
bảng 1 và hình 3. Từ kết quả bảng 1 cho thấy, mật độ cỏ biển đã suy giảm nhiều. Ở
độ sâu 2m, mật độ cỏ Halodule uninervis là 1404 thân/m2 năm 2003, nhưng đến

năm 2006 mật độ chỉ còn 490 thân/m2. Loài Halophila ovalis mọc vùng nước nông
(độ sâu 4m) cũng suy giảm mạnh về mật độ, mật độ của chúng đếm được là 1440
thân/m2 năm 2003, nhưng đến năm 2006 mật độ chỉ còn 440 thân/m2. Tại vùng
nước sâu hơn (8m), mật độ loài Halophila ovalis đếm được năm 2006 là 840
thân/m2 trong khi đó con số này là 1170 thân/m2 vào năm 2003. Mật độ loài cỏ
này không thay đổi nhiều ở vùng nước sâu hơn (trên 10m).
Bảng 1. Biến động mật độ cỏ biển tại Đầm Tre - Vịnh Nha Trang trong năm 2003và 2006
Độ
sâu
Loài
Mật độ (cây/m
2
)
Năm
2003
Năm 2006
2 Halophila ovalis
Halodule uninervis
207
1404 490
4 Halophila ovalis 1440 440
6 Halophila ovalis
Halodule uninervis
576
756
840
8 Halophila ovalis 1170 580
10 Halophila ovalis 675 850
12 Halophila ovalis 477 920
8

Theo kết quả báo cáo nước biển khá đục, trầm tích bao phủ lên cỏ biển, làm chúng
khó phát triển. Đồng thời với lượng vật chất lơ lửng trong nước cao làm cho khả
năng quang hợp của cỏ biển giảm đi nhiều. Bên cạnh đó, rong phát triển dày đặc
(Hình 5) trên thảm cỏ biển đã cạnh tranh gay gắt môi trường sống với cỏ biển vì
rong là loài rất thích nghi với môi trường có dinh dưỡng cao (ưu dưỡng). Nguồn
vật chất lơ lửng có thể bắt nguồn từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng của khu du lịch
cao cấp Vinpearl Land như san lấp mặt bằng cho xây dựng, tạo các con đường chạy
dọc biển đã tác động mạnh vào môi trường sống của cỏ biển.
Hình 3: Biến động sinh lượng cỏ biển tại Đầm Tre
Sự biến động cỏ biển mạnh mẽ nhất phải kể đến là thảm cỏ biển ở Đầm Già. Thảm
cỏ đơn loài Enhalus acoroides đang dần bị biến mất. Năm 2003, khu vực này có một
thảm cỏ biển Enhalus acoroides rất rộng với mật độ rất cao, dao động từ 45 đến
162 thân/m2. Thế nhưng kết quả khảo sát năm 2006 cho thấy rằng thảm cỏ biển
này hầu như bị biến mất, chỉ còn lại những đốm nhỏ với mật độ chỉ còn 40 cây/m2
(Hình 6). Trong đợt khảo sát năm 2003, mật độ loài cỏ Thalassia hemprichii đạt từ
36 - 45 thân/m2 nhưng kết quả khảo sát năm 2006 cho thấy hầu như không còn sự
hiện diện của loài này, nếu có thì chỉ là những bụi nhỏ mọc lác đác (Hình 7).
Biến động sinh lượng và mật độ cỏ biển năm 2003 và 2006 tại Hòn Mỹ
Giang, vịnh Vân Phong
Thành phần loài
Có 7 loài được tìm thấy tại Hòn Mỹ Giang bao gồm: Enhalus acoroides (L. f.) Royle;
Halophila minor (Zollinger) den Hartog; Halophila ovalis (R. Brown) Hooker f.;
Thalassia hemprichi (Ehrenberg) Ascherson; Cymodocea rotundata Ehrenberg &
9
Hemprich ex Ascherson; Cymodocea serrulata (R. Brown) Ascherson và Halodule
uninervis (Forsskal) Ascherson.
Cấu trúc
Thảm cỏ biển tại Mỹ Giang thông thường là thảm đa loài, nhưng cũng có một số
thảm là đơn loài. Thảm đa loài được hình thành từ 2 loài trở lên với sự ưu thế của
Thalassia hemprichii, Enhalus acoroides, Cymodocea rotundata và Cymodocea

serrulata. Do tính đa dạng loài cao (7 loài) và phân bố cả hai mặt bắc và nam nên
hình thành 5 dạng cấu trúc phụ thuộc vào điều kiện nền đáy.
- Dạng 1 (hình 9): Thảm Enhalus acoroides/Cymodocea serrulata: Chúng phân bố
dày trên đáy cát bùn và ít khi trộn lẫn vào nhau. Ở dạng này, hoặc là thảm Enhalus
acoroides hoặc là thảm Cymodocea serrulata. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tìm thấy
loài Thalassia hemprichii trong dạng này.
- Dạng 2 (hình 10): Thảm Cymodocea serrulata: Duy nhất chỉ có một loài tạo thành
thảm đơn loài với độ phủ khá cao trên nền đáy cát.
- Dạng 3 (hình 11): Thảm Enhalus acoroides/Thalassia hemprichii/Cymodocea
serrulata: Chúng phân bố gần bờ trên nền đáy là san hô chết hoặc cát tạo thành
thảm đa loài.
- Dạng 4 (hình 12): Thảm Halophila ovalis: Chúng được tìm thấy ở vùng nước
trong, sâu khoảng 5m, phát triển thành thảm lốm đốm.
- Dạng 5 (hình 13): Thảm cỏ bị bày khô khi triều kiệt, rất nhiều loài mọc chung trên
nền đáy là san hô chết, vỏ sò ốc. Độ phủ của dạng này tương đối thấp.
Kết quả khảo sát năm 2003 cho thấy mật độ trung bình cỏ Enhalus acoroides là 41
cây/m2. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại lác đác những bụi nhỏ. Mật độ và sinh
lượng loài cỏ Vích Thalassia hemprichii năm 2003 là 426 cây/m2 nhưng con số này
là 150 cây/m2 vào năm 2006. Kết quả khảo sát năm 2003 và 2006 được thể hiện
qua hình 14.
10
Hình 14: Biến động mật độ loài cỏ Enhalus acoroides và cỏ Thalassia hemprichii tại Bắc
Mỹ Giang năm 2003 và 2006
Từ kết quả trên cho thấy thảm cỏ biển tại Bắc Mỹ Giang đã suy giảm nghiêm trọng.
Mật độ cỏ Vích giảm từ 426 cây/m2 năm 2003 còn 150 cây/m2 năm 2006, tương
đương 65%.
Thảm cỏ biển tại nam Hòn Mỹ Giang rất ít bị tác động về sinh lượng và mật độ.
Thành phần đa dạng và độ phủ vẫn còn cao. Mật độ loài cỏ Vích Thalassia
hemprichii khảo sát năm 2006 là 250 thân/m2, không thay đổi nhiều so với năm
2003 (mật độ là 243 thân/m2). Đối với loài có kích thước nhỏ như Halophila ovalis

thường phân bố trên nền đáy cát có mật độ là 360 thân/m2 trong đợt khảo sát
năm 2003, nhưng trong đợt khảo sát năm 2006 mật độ loài này giảm còn 220
thân/m2.
Như vậy từ kết quả khảo sát năm 2003 và 2006 cho thấy, biến động thảm cỏ biển
tại nam Hòn Mỹ Giang là không đáng kể. Kết quả khảo sát năm 2003 và 2006 về
mật độ và sinh lượng cỏ biển tại nam Hòn Mỹ Giang được thể hiện qua hình 16.
11
Hình 16: Biến động mật độ loài cỏ Enhalus acoroides, Thalassia hemprichii và Halophila ovalis
tại Nam Mỹ Giang năm 2003 và 2006
V. Kết luận và Đề xuất các giải pháp quản lý thảm cỏ biển Việt Nam
1.Kết Luận (BỔ xung kết luận, nhấn mạnh tầm quang trọng của hệ sinh thái cỏ
biển, đưa ra thêm nhận định về tình hình chung, sự suy thoái hệ sinh thái cỏ biển)
Rõ ràng việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu khu lịch Vinpearl Land tại Vịnh Nha
Trang đã tác động rất lớn đến các thảm cỏ biển trong khu vực nghiên cứu. Cụ thể
tại Đầm tre, đặc biệt là vùng ven bờ ở độ sâu 2- 4m. Thảm cỏ biển tại Đầm Già là
thảm bị thiệt hại nặng nề nhất. Đợt khảo sát năm 2003 cho thấy đây là khu vực cỏ
biển rộng lớn với loài ưu thế là loài cỏ Lá dừa với mật độ trung bình từ 45 đến 162
thân/m2. Tuy nhiên đợt khảo sát năm 2006 cho thấy thảm cỏ biển Enhalus
acoroides tại khu vực này hầu như bị xóa sổ, hiện chỉ còn những lốm đốm nhỏ.
Hoạt động của nhà máy đóng tàu Huyndai-Vinashin từ lâu đã được xem là
nguyên nhân gây ảnh hưởng tới các hệ sinh thái trong vùng có các thảm cỏ biển
phân bố quanh hòn Mỹ Giang.Thảm cỏ biển tiếp giáp với khu nhà máy này đã bị
suy giảm nghiêm trọng về sinh lượng và mật độ, đặc biệt là thảm cỏ Enhalus
acoroides hầu như bị biến mất. Kết quả khảo sát năm 2003 cho thấy mật độ trung
bình cỏ Enhalus acoroides là 41 cây/m2 nhưng hiện nay chỉ còn lại lác đác những
bụi nhỏ. Mật độ và sinh lượng loài cỏ Vích Thalassia hemprichii năm 2003 là 426
cây/m2 nhưng con số này chỉ còn150 cây/m2 vào năm 2006.
Như vậy trong 4 thảm cỏ biển khảo sát là Đầm Già, Đầm Tre, Bắc Hòn Mỹ Giang và
Nam Hòn Mỹ Giang trong năm 2003 và 2006 cho thấy 2 thảm cỏ biển là Đầm Già
và Đầm Tre là 2 thảm cỏ biển bị suy giảm mạnh nhất, thảm cỏ tại Đầm Tre bị suy

giảm ở vùng nước nông còn cỏ biển phân bố sâu hơn không bị tác động nhiều. Sự
biến động của thảm cỏ tại Nam Hòn Mỹ Giang không bị thay đổi nhiều.
12
2. Đề xuất các giải pháp quản lý thảm cỏ biển Việt Nam
Để đạt được mục tiêu bảo vệ thảm cỏ biển, các nhà khoa học, xã hội và nhà quản lý
cần phối hợp thực hiển lập kế hoạch giám sát các hoạt động khai thác và phát triển
vùng ven biển. Tổng kết các kinh nghiệm quản lí hệ sinh thái cỏ biển ở Châu Âu,
Duarte (2002) đã đưa ra ý tưởng là trong chiến lược bảo vệ các thảm cỏ biển, cần
có sự phối hợp các nhân tố xã hội, quản lý và khoa học là vô cùng cần thiết để bảo
tồn hệ sinh thái cỏ biển một cách hiệu quả (hình 14).
Hình 14. Kết hợp các yếu tố để bảo vệ hiệu quả hệ sinh thái cỏ biển
Từ các kết quả hoạt động giám sát về môi trường sinh thái, hiện trạng thảm cỏ
biển và phân tích những bất cập trong quản lí hiện nay có thể đề xuất một số giải
pháp cấp bách nhằm quản lý có hiệu quả.
Xác định rõ sự phân bố của cỏ biển: Để bảo vệ và quản lý nguồn lợi cỏ biển, cần
nắm rõ sự phân bố và thành phần loài cỏ biển. Cỏ biển phản ứng ra sao khi điều
kiện môi trường thay đổi và sự biến động theo mùa của cỏ biển.
Quan trắc định kỳ: Kỹ thuật viễn thám sử dụng các phương pháp quang học để
quan trắc độ phủ của cỏ biển cho phép phát hiện diện tích thảm cỏ biển thu hẹp hay
mở rộng nhưng không thể giải quyết những vấn đề xảy ra bên trong thảm cỏ. Vì
vậy cần nghiên cứu và áp dụng phương pháp quan trắc có khả năng phát hiện
những biến động nội tại cũng như hình thành các chỉ số cảnh báo sớm. Việc hoàn
thiện mạng lưới quan trắc ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu có thể cung cấp
công cụ chuẩn đoán trên diện rộng và các xu hướng biến động của cỏ biển.
13
Giáo dục nâng cao nhận thức: Trong việc quản lí và hoạt động lâu dài của các Khu
bảo tồn cỏ biển, khác với trước đây vai trò của cộng đồng dân cư ven biển ngày
càng được đề cao. Nếu không chú trọng công tác giáo dục nâng cao nhận thức về
bảo vệ thảm cỏ biển cho nhân dân địa phương thì sự nghiệp bảo vệ cỏ biển sẽ
không thành công. Các đe dọa lên cỏ biển khác nhau mà các hoạt động quản lý có

hiệu quả không giống nhau trừ khi có sự phối hợp đồng bộ giữa quan điểm và hiểu
biết của cộng đồng. Chiến lược giáo dục cần thực hiện có trọng điểm ở những nơi
dễ kiểm soát. Vì thế, cần phải tạo sự đồng thuận, ủng hộ cao của Chính quyền và
nhân dân địa phương trong việc bảo vệ cỏ biển là rất quan trọng. Tổ chức các cuộc
gặp mặt giữa các nhà khoa học, nhà quản lý và dân địa phương để trao đổi chia xẻ
thông tin về cỏ biển.
Trồng phục hồi: Kỹ thuật di trồng cỏ biển đã đạt được thành công ở một số nước
phát triển. Tuy nhiên, di trồng cỏ biển trên phạm vi rộng sẽ rất tốn kém, đây cũng là
hạn chế chính của các nước đang phát triển. Do đó, dù chương trình trồng rừng
ngập mặn đã được thực hiện rộng khắp ở các quốc gia như Việt Nam và Thái Lan
nhưng những sáng kiến như vậy chưa khả thi đối với cỏ biển. Thêm vào đó, khi lấy
cỏ giống từ bãi cỏ này đem trồng ở nơi khác thì cũng đã tác động tiêu cực lên quần
thể đó, điều này làm giảm đi giá trị của việc di trồng cũng như lựa chọn cách quản
lý. Vì vậy, trong điều kiện nước ta nói chung vấn đề bảo vệ cỏ biển nên theo hướng
an toàn, ít tốn kém và trong nhiệm vụ quản lí và phát triển bền vững nguồn lợi cỏ
biển, lấy nhiệm vụ bảo vệ, bảo tồn là ưu tiên. Điều quan trọng là cần giữ cho môi
trường nước biển không bị ô nhiễm và không bị những tác động tiêu cực thì cỏ biển
có thể tự phục hồi trở lại mà không cần phải di trồng vừa tốn kém vừa khó thành
công mà còn làm ảnh hưởng đến các thảm cỏ tự nhiên.
Tổ chức lực lượng bảo vệ: Cần thiết phải kiện toàn tổ chức lại lực lượng bảo vệ
gồm các cơ quan chức năng như làm nhiệm vụ bảo vệ như Kiểm ngư, Thanh tra
Thuỷ sản, Bộ đội Biên phòng. Tăng thêm các trạm kiểm soát, cắm mốc phao chỉ giới
và cung cấp đủ trang thiết bị tàu thuyền, vũ khí v.v cho lực lượng bảo vệ. Bên cạnh
đó cần thiết có sự tham gia của chính người dân vào lực lượng bảo vệ.
Cưỡng chế thi hành các văn bản pháp luật: Hiện nay đã có khá nhiều văn bản pháp
luật về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của Quốc hội Việt Nam và của UBND các tỉnh. Để
giảm thiểu ô nhiễm dầu trong nước, cần hạn chế đến mức tối thiểu hoạt động của
các tàu thuyền trong khu vực, khoanh vùng hoạt động của tàu thuyền và có các
biện pháp kiểm soát việc xả thải từ tàu. Nghiêm cấm khai thác thuỷ sản trên các
thảm cỏ biển, không cho tàu thuyền neo đậu tại các khu vực cỏ biển phân bố tập

trung. Qui định nơi neo đậu tàu thuyền. Mặt khác, cần nghiêm cấm chặt phá rừng
14
đầu nguồn đồng thời tiến hành trồng phục hồi rừng trên đảo để bảo vệ thảm cỏ
biển. Hoàn thiện những chính sách bảo vệ cỏ biển. Ví dụ ở Mỹ khi ai đó làm hỏng cỏ
biển, họ phải bồi thường bằng cách trồng lại một bãi cỏ mới. Ý thức cộng đồng bảo
vệ các hệ sinh thái tăng khi các chính sách quản lý được hoàn thiện hơn. Du lịch
cũng là tác nhân dẫn đến sự suy thoái các hệ sinh thái cần hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững.
Hợp tác quốc tế: Cần tăng cường trao đổi học tập kinh nghiệm về nghiên cứu, quản
lý hệ sinh thái cỏ biển với các nước đã có kinh nghiệm và đạt được những thành
công nhất đinh như: Mỹ, Ôx-trây-lia và một số nước Châu Âu. Các cơ quan quản lý
các khu bảo tồn biển mà có hệ sinh thái cỏ biển nên đăng kí tham gia mạng lưới
giám sát cỏ biển toàn cầu “SeagrassNet” và Chương trình giám sát cỏ biển dựa vào
cộng đồng “SeagrassWatch”.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Hữu Đại, Phạm Hữu Trí, Nguyễn Thị Lĩnh, Nguyễn Xuân Vỵ, 2002. Sự suy
giảm các thảm cỏ biển ở Khánh Hoà và khả năng phục hồi chúng. Tuyển tập Báo
các Khoa học Hội nghị Khoa học tòan quốc về Biển Đông, Nha Trang, 16-19/2002:
359-368.
2. Nguyễn Hữu Đại, Phạm Hữu Trí, Nguyễn Thị Lĩnh, Nguyễn Xuân Vỵ, 2006.
Chương VIII. Các giải pháp bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái cỏ biển. Tóm tắt Báo cáo
Đề tài: “Nghiên cứu giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển
và khắc phục ô nhiễm môi trường biển tự sinh” trong Tuyển tập các kết quả chủ
yếu của chương trình Điều tra cơ bản và nghiên cứu ứng dụng công nghệ Biển.
Quyển II. Mã số KC.09.
3. Nguyễn Xuân Hòa và Trần Công Bình, 2002. Quan trắc các thảm cỏ và dugongs ở
Côn Đảo, 1998-2002. Báo cáo Hội nghị Khoa học “Biển Đông – 2000”, Nha Trang,
19-22, tháng 9 năm 2002.
Tài liệu tiếng anh

1. Nguyen Huu Dai et al., 2000: Seagrass beds along the southern coast of Vietnam
and their signification for associated flora and fauna. Collection of Marine research
works. Vol. X. pp. 149-160.
15
2. Nguyen Huu Dai, Pham Huu Tri, 2000: Distribution of seagrasses and seaweed in
the littoral zones in Ninh Phuoc (Ninh Hoa, Khanh Hoa). Biological issues in
Program of natural basic researches: 1996-2000.
3. Den Hartog C., 1970: The seagrasses of the world. North Holland Publishing
Company, Amsterdam 1970.
4. Dolens J., 2003: Genome size of Adriatic seagrasses. Aquatic Botany. 77. 9 p.
16

×