Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Mười bí quyết để làm giàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.33 KB, 8 trang )

Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

10 bí quyết làm giàu của người giàu nhất nước Mỹ
Warren Buffet
Bà đã bỏ ra hàng trăm giờ trò chuyện với người được tôn vinh là “Sage of Omaha” (Hiền
nhân Omaha) để thực hiện cuốn tiểu sử chính thức mới có nhan đề The Snowball nói về tài năng
làm giàu này. Sau đây là một số bí quyết làm giàu của Buffett trích trong cuốn sách và cách biến
chúng trở thành hiện thực ở những con người bình thường.

1. Tái đầu tư lợi nhuận

Khi tự tay kiếm được những khoản tiền đầu tiên bằng tâm sức của mình, nhiều người có thói
quen tiêu xài xả láng. Đừng làm thế, hãy tái đầu tư số tiền kiếm được. Buffett học được bài học
này từ rất sớm. Lúc còn ngồi ghế trung học, ông đã cùng vài người bạn mua một máy trò chơi
lăn bi (pinball) và đặt nó tại một tiệm hớt tóc. Kiếm được tiền nhờ máy này, họ mua thêm nhiều
máy nữa đến khi có tám chiếc trang bị cho các tiệm hớt tóc khác nhau.

Khi nhóm bạn quyết định bán doanh nghiệp, Buffett chuyển sang mua cổ phiếu và thành lập
một doanh nghiệp nhỏ khác. Ở độ tuổi 26, ông đã tích lũy được 174.000 USD, tương đương 1,4
triệu USD hôm nay. Rõ ràng, ông đã chứng minh là người ta có thể biến một số tiền nhỏ thành
gia tài lớn.

2. Hãy nuôi khát vọng trở thành khác biệt

Đừng quyết định dựa vào những gì người khác đang nói hay làm. Khi Buffett bắt đầu tập
quản lý tiền vào năm 1956 với 100.000 USD gom góp từ một nhóm nhà đầu tư, ông bị xem là kẻ
lập dị. Buffett khởi nghiệp ở Omaha chứ không phải tại Wall Street, thủ đô tài chính Mỹ. Ông
cũng không cho cha mẹ biết mình bỏ tiền vào đâu. Nhiều người dự đoán Buffett sẽ thất bại
nhưng khi kết toán phần chia của mình 14 năm sau đó, ông chứng tỏ họ đã sai. Tài sản của
Buffett đã nhân lên 100 triệu USD.


Thay vì a dua theo số đông, ông đầu tư vào những cổ phiếu “bán như cho”. Không ngờ, giá
của chúng tăng theo từng năm. Theo Buffett, bạn không nên bắt chước người khác mà nên quyết
định dựa vào những tiêu chuẩn của riêng bạn chứ không phải chung cho thế giới.

3. Đừng bao giờ “mút ngón tay”

Thu thập trước người khác những thông tin cần thiết để làm quyết định và nhờ bà con, bạn bè
theo dõi, nhắc nhở việc tuân thủ lịch trình đã đặt ra để chúng không đi chệch hướng. Buffett rất
hãnh diện là mình có khả năng đưa ra các quyết định nhanh và trung thành với nó. Ông phê phán
hành động ngồi chờ thời và suy nghĩ vẩn vơ là “mút ngón tay”. Khi có ai đó đề nghị với ông một
công việc làm ăn hay đầu tư, ông luôn trả lời thẳng tại chỗ: “Tôi sẽ không có ý kiến gì nếu bạn
không đưa ra một giá biểu”.

4. Phải có hợp đồng cụ thể trong tay trước khi bắt đầu nó

Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

Lực đẩy của thương lượng luôn là yếu tố lớn nhất khi bạn bắt đầu một công việc. Đó là lúc
bạn có gì đó để đề nghị mà bên kia cần, và chúng phải được thể hiện bằng hợp đồng cụ thể.
Buffett học được bài học xương máu này từ lúc ông còn bé, khi ông nội Ernest thuê ông và người
bạn dọn dẹp cửa hiệu tạp hóa của gia đình bị bão tuyết vùi lấp. Hai người bỏ ra năm giờ để đào
đến khi đôi bàn tay tê cóng không thể duỗi thẳng được. Xong việc, người ông trả công 90 xu cưa
đôi. Buffett kinh hoàng khi thấy chỉ kiếm được vài chục xu cho một công việc “gãy lưng” như
thế. Vấn đề là do ông không thỏa thuận trước về tiền công. Từ đó ông nhủ lòng là phải cụ thể hóa
một thỏa thuận trước khi bắt tay vào việc cho dù đối tác là bạn bè hay thân nhân.

5. Hãy thận trọng với cả những chi tiêu nhỏ

Buffett thích đầu tư vào các doanh nghiệp được điều hành bởi những con người luôn thận
trọng với các chi phí, dù là nhỏ nhất. Một lần ông mua một công ty mà chủ nhân của nó đếm kỹ

từng tờ giấy một trong hộp giấy toilet 500 tờ để xem có bị lừa không. Ông cũng khâm phục
người bạn chỉ sơn phía tường nhà quay ra đường mà không sơn phần trong để tiết kiệm. Hãy
thận trọng với mọi khoản chi tiêu nếu bạn muốn làm giàu.

6. Giới hạn việc vay mượn

Những người sống bằng tiền vay mượn và thẻ tín dụng sẽ không thể giàu được. Vì vậy,
Buffett không bao giờ vay mượn một khoản tiền lớn để tiêu dùng hay đầu tư. Ông cũng ghét thế
chấp. Buffett cho biết ông đã nhận được nhiều lá thư tâm sự đau lòng của những người cứ tưởng
mình quản lý được nợ nần nhưng lại khốn đốn vì chúng. Lời khuyên của ông là chỉ mượn đến số
tiền bạn có thể trả và hãy đầu tư bằng tiền tiết kiệm của chính mình.

7. Hãy kiên trì

Bằng sự kiên trì và khéo léo, bạn có thể chiến thắng trước cả những đối thủ sừng sỏ nhất.
Buffett mua siêu thị bán đồ trang trí nội thất Nebraska Furniture Mart năm 1983 chỉ vì ông thích
phong cách kinh doanh của chủ nhân Rose Blumkin. Là di dân đến từ Nga, bà đã biến một tiệm
cầm đồ nhỏ thành cửa hàng đồ trang trí nội thất lớn nhất Bắc Mỹ. Chiến lược của Blumkin là bán
dưới giá của các cửa hàng khác và sẵn sàng thương lượng đến cùng về giá mua vào. Đối với
Buffett, Rose là hiện thân của lòng can đảm không mệt mỏi và đã chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt.

8. Biết rút lui đúng lúc

Có lần khi Buffett còn bé, ông đến một trường đua đánh cược và thua. Quyết gỡ lại tiền, ông
đánh cược lần nữa và lại thua gần cháy túi. Ông hóa bệnh sau khi mất sạch số tiền kiếm được
trong một tuần. Từ đó, Buffett không bao giờ lặp lại sai lầm. “Hãy biết cách rút lui khỏi một thất
bại và đừng để rơi vào phiền muộn do tính háo thắng” - ông nói.

9. Nhận thức được nguy cơ


Năm 1995, ông chủ của Howie, một người con của Buffett, bị FBI tố cáo ấn định giá bán.
Ông khuyên Howie hãy mường tượng ra tình trạng tệ nhất nếu cậu tiếp tục ở lại với công ty.
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

Người con nhanh chóng nhận thức được những nguy cơ của việc ở lại đã vượt quá lợi lộc tiềm ẩn
và quyết định bỏ việc ngay ngày hôm sau. Hãy tự cân nhắc giữa cái được và cái mất có thể giúp
bạn sớm đi đến một quyết định tinh khôn vào lúc cấp bách để tránh những tổn thất lớn hơn.

10. Hiểu rõ ý nghĩa thật sự của sự thành công

Bất chấp sự giàu có hơn người, Buffett không bao giờ đo lường thành công bằng USD kiếm
được. Năm 2006, ông đã hứa sẽ chuyển gần như tất cả tài sản của mình cho các hội từ thiện, mà
ưu tiên là Hội Bill and Melinda Gates Foundation. Ông cũng kiên quyết không thành lập một cơ
sở hay tượng đài nào mang tên mình. “Tôi biết có nhiều người giàu có xây dựng những cơ sở y
tế mang tên mình. Nhưng sự thật là không có ai trên thế giới này yêu mến họ. Khi bạn già dần,
bạn sẽ đo sự thành công trong cuộc sống bằng số người bạn muốn được yêu thương và thật lòng
yêu bạn. Đó là mục tiêu tối hậu của cuộc sống” - ông nói

Ba nguyên tắc đầu tư bất hủ của Benjamin Graham và phong
cách đầu tư của Warren Buffett
Warren Buffett được thừa nhận rộng rãi là một nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi thời đại, nhưng
nếu bạn hỏi ông xem ai là nhà đầu tư vĩ đại nhất câu trả lời mà bạn có thể nhận được từ cây đại
thụ trong lĩnh vực đầu tư cổ phiếu là: Benjamin Graham. Graham là nhà đầu tư thông thái, người
được xem là Bố già trong lĩnh vực phân tích chứng khoán và đầu tư giá trị. Ý tưởng và phương
pháp đầu tư của ông được trình bày rõ ràng trong cuốn sách “Security analysis - Phân tích chứng
khoán” (1934) và cuốn “The intelligent - nhà đầu tư thông minh” (1949), là hai trong số những
ấn phẩm nổi tiếng nhất của ông. Những ấn phẩm này thường được xem là cần thiết phải đọc của
bất cứ nhà đầu tư nào mặc dù chúng không dễ đọc chút nào. Ở đây chúng tôi đã cô đọng lại
những nguyên tắc đầu tư chính của Graham và giúp bạn có một khởi đầu trong việc hiểu được

triết lý mang lại thắng lợi của ông.

Nguyên tắc 1: Luôn đầu tư với lợi nhuận an toàn
Lợi nhuận an toàn là nguyên tắc mua chứng khoán với giá giảm đáng kể tới mức giá trị thực, nó
được hiểu là không chỉ đem đến những cơ hội lãi lớn mà còn hạn chế tối đa nguy cơ giảm giá
trong đầu tư. Ví dụ đơn giản, Graham muốn mua tài sản có giá trị 1 đô la nhưng trả giá 0.5 đô la.
Ông ấy làm điều này rất tốt.
Đối với Graham những tài sản này có thể đáng giá bởi tiềm năng sinh lời ổn định hoặc đơn giản
vì chúng có giá trị thanh khoản. Ví dụ như thật không bình thường nếu Graham đầu tư vào cổ
phiếu nào mà tài sản có thể thanh khoản được trên bảng cân đối kế toán (giá trị thực của các
khoản nợ) có giá cao hơn mức chấp nhận của thị trường (theo Graham gọi tên là thu nhập ròng).
Điều này có nghĩa Graham đang mua một thứ mà chẳng có lợi chút nào. Đây là chiến lược đầu tư
điển hình trong số nhiều chiến lược của Graham.
Khái niệm này rất quan trọng để các nhà đầu tư lưu ý vì đầu tư giá trị đem đến lợi nhuận thực
chất một khi thị trường không thể tránh khỏi việc tái định giá làm tăng giá cổ phiếu tới mức hợp
lý. Nó cũng giúp bảo vệ trong trường hợp thị trường đi xuống nếu mọi thứ diễn ra không theo kế
hoạch và tình hình kinh doanh bấp bênh. Khoản lợi nhuận an toàn từ việc mua lại công ty được
định giá thấp hơn giá trị của nó rất nhiều là điểm trung tâm trong những thương vụ thành công
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

của Graham. Khi lựa chọn kỹ lưỡng, Graham nhận thấy hiếm khi xuất hiện sự sụt giá thêm nữa ở
những cổ phiếu có giá trị thấp này. Khi nhiều sinh viên của Graham thành công với những chiến
lược của riêng mình thì họ vẫn đều cùng chia sẻ quan điểm chính là “lợi nhuận an toàn’.
Nguyên tắc 2: Đương đầu với sự bất ổn và kiếm lợi từ đó
Đầu tư chứng khoán có nghĩa là đối phó với sự bất ổn. Thay vì tháo chạy lúc thị trường căng
thẳng thì nhà đầu tư thông minh lại chào đón xu hướng suy giảm như cơ hội đầu tư tuyệt vời.
Graham minh họa điều này bằng hình ảnh tương tự ”Ngài Thị trường”, đối tác kinh doanh tưởng
tượng của mọi nhà đầu tư. Hàng ngày ‘Ngài thị trường” chào giá các nhà đầu tư hoặc để mua
hoặc để bán cổ phần kinh doanh. Lúc thì thị trường bị quá khích bởi viễn cảnh kinh doanh và đưa
ra mức giá quá cao, khi thì thất vọng bởi tương lai và đưa ra mức giá quá thấp.

Bởi thị trường chứng khoán có những cảm xúc tương tự nên bài học ở đây là bạn không nên để
những quan điểm của “Thị trường” sai khiến những cảm xúc của riêng bạn, hoặc tệ hơn là định
hướng cho quyết định đầu tư của bạn. Thay vì thế, bạn nên định hình phong cách tiên lượng về
giá trị của riêng mình trên cơ sở kiểm chứng sự kiện một cách chắc chắn và hợp lý. Hơn nữa bạn
chỉ nên mua khi giá được chào có ý nghĩa và bán khi được giá. Ở một khía cạnh khác, thị trường
đôi khi chao đảo bất thường, nhưng thay vì sợ hãi trước sự bất ổn bạn hãy sử dụng nó như một
cơ hội để mua được giá hời và bán ra khi cổ phần của bạn được giá cao hơn giá trị thực.
Đây là hai chiến thuật Graham đưa ra nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ tính bất ổn của thị
trường:
1. Bình ổn giá trị đô la
Bình ổn giá trị đô la được thực hiện bằng cách định kỳ mua cổ phiếu tương đương với một giá trị
đô la nhất định. Nó giúp duy trì ổn định giá, có nghĩa nhà đầu tư không phải quan tâm đến việc
mua nó hoàn toàn ở vị trí dẫn đầu thị trường hay không. Bình ổn giá trị đô la là một phương thức
dành cho nhà đầu tư thụ động và nó làm giảm bớt gánh nặng trách nhiệm trong việc chọn mua
cổ phiếu với giá bao nhiêu và khi nào cho đúng.
2. Đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu
Graham gợi ý nhà đầu tư nên phân bổ danh mục đầu tư cân đối giữa cổ phiếu và trái phiếu như
một cách để bảo toàn vốn khi thị trường suy thoái thì vẫn duy trì được thu nhập từ trái phiếu.
Nên nhớ triết lý của Graham là trên hết phải bảo toàn vốn sau đó mới làm cho nó tăng trưởng.
Ông đưa ra mức 25% – 75% đầu tư vào trái phiếu tùy tình hình biến đổi thị trường. Chiến thuật
này có điểm lợi là giữ cho nhà đầu tư tránh được cảm giác khó chịu dẫn đến sự cám dỗ tham gia
vào các thương vụ bất lợi.
Nguyên tắc 3: Tự biết mình thuộc loại nhà đầu tư nào
Graham khuyên các nhà đầu tư phải biết rõ cá tính đầu tư riêng của mình. Để minh họa cho điều
này, ông phân biệt rõ những nhóm nhà đầu tư khác nhau tham gia trên thị trường. Nhóm chủ
động và nhóm bị động. Graham đề cập đến khái niệm chủ động cho những nhà đầu tư tấn công
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

và bị động cho nhưng nhà đầu tư phòng thủ. Bạn chỉ có duy nhất một trong hai lựa chọn: hoặc là
hãy cam kết nghiêm túc bằng thời gian và sức lực của mình để trở thành nhà đầu tư có hạng, biết

cân bằng giữa lượng và chất của khảo sát thực tế với lãi suất mong đợi. Nếu đây không phải là
thế mạnh của bạn hãy bằng lòng chấp nhận mức lời bị động và thấp hơn nhưng với thời gian và
công sức rất ít. Graham thay đổi quan niệm có tính hàn lâm từ trước tới nay là “rủi ro = lợi
nhuận”. Đối với ông thì “công sức = lợi nhuận” mới đúng. Bạn càng bỏ ra nhiều công sức trong
việc đầu tư bạn càng kiếm được nhiều lợi nhuận.
Nếu bạn không có đủ thời gian và sự nghiên cứu nghiêm túc một cách chất lượng danh mục đầu
tư của bạn thì hãy hãy đầu tư vào một danh mục được lựa chọn tốt. Graham cho rằng nhà đầu tư
thụ động có thể đạt được lợi nhuận trung bình bằng cách đơn giản mua 30 cổ phiếu công nghiệp
Dow Jones với lượng trung bình như nhau. Cả Graham và Buffett đều cho rằng có thể đạt được
lợi nhuận trung bình, ví dụ giống như lợi nhuận của S&P 500 – thì đó là một thành quả thực sự
hơn là dường như có thể. Theo Graham, sự ảo tưởng của nhiều người mua cổ phần là ở chỗ nếu
quá dễ để có được khoản lợi nhuận trung bình mà chẳng mất hoặc bỏ ra một chút công sức
(thông qua danh mục đầu tư) thì bỏ ra thêm một chút công sức chắc sẽ mang lại lợi nhuận lớn
hơn một chút. Thực tế thì hầu hết những người cố gắng làm việc này đến cùng đã làm cho lợi
nhuận kém hơn nhiều mức trung bình.
Theo quan điểm hiện đại nhà đầu tư phòng thủ thì đầu tư vào danh mục có cả cổ phiếu và trái
phiếu. Về bản chất họ sở hữu toàn bộ thị trường, hưởng lợi từ khu vực đang hoạt động tốt nhất
mà không cần cố gắng dự đoán từ trước. Làm như vậy, một nhà đầu tư hầu như được bảo đảm có
lợi nhuận của thị trường và tránh được điều tồi tệ hơn mức trung bình bằng cách để kết quả tổng
thể thị trường tự kiểm soát lợi nhuận dài hạn. Theo Graham, việc bắt nhịp thị trường nói thì dễ
hơn làm, và nhiều nhà đầu tư thấy mình không bắt nhịp được thị trường.
Người đầu cơ và Nhà đầu tư
Không phải tất thảy người chơi chứng khoán đều là nhà đầu tư. Graham tin rằng đánh giá phê
phán ai còn xác định đâu là nhà đầu cơ hay nhà đầu tư. Sự khác nhau đơn giản là: một nhà đầu tư
coi cổ phiếu như một phần công việc kinh doanh và người nắm giữ cổ phiếu là người chủ công
việc kinh doanh đó, trong khi quan điểm của nhà đầu cơ xem đó như là trò chơi với những tờ
giấy đắt tiền, không quan tâm đến giá trị thực. Đối với nhà đầu cơ, giá trị chỉ được xác định bởi
giá do người nào trả giá cho tài sản đó. Graham chỉ ra rằng đầu cơ hay đầu tư cũng đều thông
minh – miễn sao bạn chắc chắn hiểu chính mình sẽ làm tốt ở loại nào.
Phong cách đầu tư của Warren Buffett

Những luận điểm cơ bản của Graham là bất hủ, là hết sức cần thiết cho sự thành công lâu dài.
Ông mua cổ phiếu với quan niệm mua dưới mức giá trị của doanh nghiệp và biến nó trở thành
khoa học trong khi hầu hết tất cả các nhà đầu tư có quan điểm chơi chứng khoán đều dựa trên sự
suy đoán. Graham là bậc thầy vĩ đại đầu tiên về đầu tư, chứng tỏ những gì trong dòng máu tri
thức của dòng họ tự thức phát triển. Nếu bạn muốn cải thiện kỹ năng đầu tư của mình, chẳng hại
gì khi học những điều tuyệt vời nhất; Graham tiếp tục chứng minh giá trị học thuyết thông qua
những môn đồ của ông, ví như Warren Buffett, người đã tao ra một tập quán cho nhịp điệu thị
trường.
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

Trong ấn phẩm cuối cùng về Warren Buffett “Phong cách đầu tư của Warren Buffett” (2004),
Robert Hagstrom đã minh họa phương pháp đầu tư của nhà đầu tư giá trị lỗi lạc nhất thế giới.
Nếu bạn muốn lựa chọn một phong cách đầu tư giá trị cổ điển, hẳn bạn cũng biết Warren Buffett
là hình mẫu có vai trò lớn. Ngay từ ngày đầu lập nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là
Benjamin Graham”. Graham là cha đẻ của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội
tại – là giá trị cơ bản hợp lý của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.
Có một số thứ chẳng có giá trị gì theo diễn giải về đầu tư giá trị của Warren Buffett. Thứ nhất,
giống như rất nhiều công thức cho sự thành công, chúng thoạt nhìn khá đơn giản nhưng không có
nghĩa là dễ dàng. Bufett sử dụng hàng tá “nguyên lý đầu tư” hay sự tính toán then chốt. Một
trong số đó yêu cầu ban quản lý phải trung thực với các cổ đông. Điều yêu cầu này đơn giản và
dễ hiểu nhưng chẳng dễ trả lời chút nào. Có những ví dụ thú vị về mâu thuẫn này: khái niệm thì
phức tạp nhưng cũng đơn giản. Ở khía cạnh này, giá trị kinh tế gia tăng (EVA) là một ví dụ thích
hợp. Sự tính toán đầy đủ của EVA không dễ gì lĩnh hội và sự giải thích về chiều hướng của EVA
thì phức tạp. Nhưng một khi bạn xem EVA chỉ là một danh mục dài các biến số và khi được
trang bị bằng công thức thì nó trở nên dễ dàng để tính toán EVA cho bất kỳ công ty nào. Vì thế
cho nên những nguyên lý của Buffett nghe có vẻ lời nói sáo bởi chúng dễ hiểu nhưng lại có thể
rất khó triển khai và ngược lại.
Thứ hai, cuốn “Cách thức của Warren Buffett” có thể được xem như phong cách truyền thống
căn bản trong đầu tư mà rất dễ thích nghi. Thậm chí tác giả của cuốn sách bán chạy nhất cũng
chính là môn đồ của phái thực hành, hay người theo triết lý Buffett đôi lúc điều chỉnh cách tiếp

cận riêng trong suốt quá trình đầu tư kể cả cổ phiếu công nghệ cao, lĩnh vực dễ thấy Buffett tiếp
tục tránh xa. Một trong những khía cạnh hấp dẫn của trường phái Buffett là tính linh hoạt bên
cạnh những thành công phi thường của nó. Nếu là một tôn giáo thì nó không mang tính giáo điều
mà thay vào đó là sự tự phản ánh và thích ứng qua thời gian. Đây là tín hiệu tốt. Nhà kinh doanh
trong ngày có thể yêu cầu những nguyên tắc cứng rắn và bám vào công thức (có nghĩa là một
phương tiện kiểm soát tình cảm), nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể chắc chắn nói rằng những nhà
đầu tư thành công không gì hơn là cần phải có ý thức thích nghi với những trạng thái tinh thần
tương ứng với thời gian khác nhau.
Theo Hagstrom, Buffett có mười hai nguyên lý đầu tư. Chúng được phân thành các nhóm gồm
kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và giá trị.

Kinh doanh
Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không tham gia vào “cuộc đua tranh giành” của
thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu rõ. Như Hagstrom viết: thành công trong đầu tư
không phải vấn đề ở chỗ bạn biết được bao nhiêu mà là bạn thực tế đến đâu trong việc xác định
được cái mà bạn không biết. Buffett xem sự hiểu biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều
kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi của hoạt động kinh doanh trong tương lai; có nghĩa là nếu
bạn không hiểu về kinh doanh thì làm sao bạn có thể tiên đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý
kinh doanh của Buffett đều hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng nên đề án lớn: Đầu tiên hãy nhớ rằng
bạn đang phân tích việc kinh doanh không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị của
nhà đầu tư. Thứ hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử hoạt động bởi nó sẽ giúp cải thiện
năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về lâu dài hay không.
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

Quản lý
Ba nguyên tắc quản lý của Buffett có liên quan đến việc đánh giá chất lượng quản lý. Có lẽ đây
là tác nghiệp phân tích khó nhất của nhà đầu tư. Buffett đòi hỏi “quản lý có hợp lý không?” Cụ
thể quản lý sẽ là khôn ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của
cổ đông. Đây là câu hỏi sâu sắc. Hầu hết các khảo sát cho dù theo nhóm hay bình quân đều cho
thấy có tính lịch sử rằng quản lý có xu hướng trở nên tham lam và giữ lại lợi nhuận càng nhiều

càng tốt vì theo lẽ tự nhiên họ có xu hướng xây dựng đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là sử
dụng dòng vốn theo cách tối đa hóa giá trị của cổ đông. Một nguyên tắc khác đòi hỏi quản lý
phải trung thực. Họ có chấp nhận sai lầm không?
Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý có chịu đựng được những mệnh lệnh hành
chính không? Nguyên lý này là quan trọng trong phạm vị rộng, nó bao gồm cả việc tìm kiếm ban
quản lý say mê hành động và chống lại việc mù quáng sao chép chiến thuật và chiến lược của đối
thủ cạnh tranh. Nếu đọc cuốn sách, nguyên tắc đặc thù này có giá trị một cách khác thường. Nó
đòi hỏi sự suy ngẫm và là một trong những điều quan trọng nhất (ví dụ: việc đầu tiên tham gia thị
trường, một công ty phải xác định đâu là ranh giới giữa việc sao chép một cách mù quáng chiến
thuật của đối thủ cạnh tranh với việc đưa ra một chiến thuật vượt trội?)
Thước đo tài chính
Nguyên tắc tài chính không mấy phức tạp. Buffett nhìn vào lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
(ROE). Hầu hết các sinh viên tài chính đều hiểu rằng ROE có thể bị nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số
giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu), cho nên về lý thuyết chỉ số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi
nhuận trên vốn đầu tư (ROC) theo một số phương diện. ROC theo tôi có nghĩa là giống như lợi
nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số là lợi nhuận
được tạo ra từ tất cả các nguồn vốn được cung cấp và mẫu số bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn
vay. Dĩ nhiên, Buffett hiểu rằng thay vì loại bỏ riêng các doanh nghiệp mang nợ thì tốt hơn là
xem xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý tự
nhiên.
Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở lý thuyết từ khái niệm Giá trị kinh tế gia
tăng. Đầu tiên Buffett xem xét đến cái mà ông gọi là “thu nhập của chủ sở hữu”. Về thực chất
đây là thu nhập sẵn có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì nó không liên quan tới thu nhập từ cổ
phần. Theo Buffett, nó được định nghĩa là lãi ròng (Net income) cộng thêm phần giá trị khấu hao
và phần nợ trả dần (nghĩa là phần giá trị không bao gồm khoản phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ
đi chi phí vốn đầu tư dài hạn (CAPX) trừ đi chi phí vốn phát sinh cho nhu cầu hoạt động (charge
in W/C). Tóm lại: lãi ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy
sẽ phản đối những điều chỉnh chi tiết nhưng biểu thức này gần với khái niệm EVA trước khi bạn
trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với khái niệm “thu nhập chủ sở hữu”, Buffett
chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn của cổ đông cũng chính là giới chủ.

Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết một đồng đô la” (one-dollar premise). Giá trị thị
trường trên một đô la được chuyển nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo
này rất giống với khái niệm Giá trị thị trường gia tăng (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên vốn
đầu tư.
Nguồn : www.vnedoc.com Warren Buffet

Giá trị
Nhóm nguyên tắc cuối cùng là Giá trị, theo đó Buffett thiết lập cách làm dựa trên sự dự đoán giá
trị thực của một công ty. Một đồng nghiệp kết luận quá trình liên quan mật thiết thiết này như
“toán học liên kết”. Buffett dự đoán thu nhập chủ sở hữu trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại
tới giá trị hiện tại. Nên nhớ rằng nếu bạn áp dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu nhập tương lai
– theo định nghĩa – được thực hiện dễ hơn thông thường. Ví dụ như những khoản thu nhập
không đổi định kỳ thì dễ dự đoán hơn.
Buffett cũng đưa ra khái niệm “rào chắn - Moat”, cái được nổi lên như một hệ quả trở thành tập
quán thành công trên Morningstar của những công ty được yêu thích nhờ có “rào chắn kinh tế”
(economic moat). Rào chắn là “cái đem lại cho công ty một lợi thế rõ rệt hơn đối thủ khác và bảo
vệ nó trước những sự tấn công bất ngờ từ sự cạnh tranh”. Một chút ít tính lý thuyết dị giáo có lẽ
chỉ xảy ra với nhà hiền triết từ Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự tính tới mức không có
tỷ lệ rủi ro. Ông thực hiện bằng cách kiên định với nguyên tắc “lợi nhuận an toàn – margin of
safety” trong khi áp dụng thận trọng những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức tối thiểu rủi
ro chứ không có nghĩa thực sự loại bỏ được rủi ro. (Hãy tham khảo công ty nào mà Warren
Buffett đang mua và bán? Hãy tham gia vào Coattail Investor, một sản phẩm đăng ký theo chân
một số nhà đầu tư tốt nhất thế giới)
Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư giá trị, nó có cơ chế mở cho sự thích nghi
và diễn giải lại về sau. Nó là một câu hỏi mở tới mức những nguyên tắc này đòi hỏi sự bổ sung
bằng tri thức trong tương lai, nơi những quá trình lịch sử diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn,
yếu tố vô hình đóng một vai trò quan trọng hơn trong giá trị quyền kinh doanh và sự không rõ
ràng về ranh giới giữa các ngành công nghiệp làm cho sự phân tích kinh doanh càng khó khăn
hơn.


×