Biến đổi khí hậu và sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng
lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp,
giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn
cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các
ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động
khác.
Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70%
tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người
dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ.
Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng
lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn
CO2, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB
Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang
phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so
với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí
CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển
dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước Biến
đổi khí hậu.
Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn
CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế giới là 4,5
tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn,
Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn).
Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song
vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính tổng
lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương
vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới,
nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn cầu; các nước
châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát
triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà
các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về
Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto.
Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên
hợp quốc về BĐKH là: “Các bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ
hôm nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với trách nhiệm chung
nhưng có phân biệt và bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống
BĐKH và những ảnh hưởng có hại của chúng”.
Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính
Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% khối lượng, khí oxy chiếm
21%, còn lại khoảng 1% các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon,
hêli, hyđrô, ôzôn,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc
biệt là khí CO2, CH4, NOx, và CFCs - một loại khí mới chỉ có trong khí quyển từ khi
công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên
trái đất. Trước hết, đó là vì các chất khí nói trên hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất
phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt
đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ
trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ
mặt trời chiếu tới mặt đất.
Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí
nhà kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của chúng ta sẽ
lạnh hơn hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất sẽ khoảng 18oC. Hiệu
ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được
gọi là “Hiệu ứng nhà kính”. Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành một lớp mỏng trên tầng
bình lưu của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái
đất và thông qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất.
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10.000 năm, nồng độ các chất khí
nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng
lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ
lệ từ 6,4 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn
cacbon (xấp xỉ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 – 2005.
Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (bụi, cacbon hữu cơ, sulphat, nitrat…) gây ra
hiệu ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng trực tiếp là 0,5W/m2 và
gián tiếp phản xạ của mây là 0,7W/m2; thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề
mặt, tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng 0,02W/m2; trái lại, sự
gia tăng khí ôzôn trong tầng đối lưu do sản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi
trong hoạt động của mặt trời trong thời kỳ từ năm 1750 đến nay được xác định là tạo ra
hiệu ứng dương đối với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m2. Như
vậy, tác động tổng cộng của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ
cưỡng bức âm. Vì thế, trên thực tế, sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc
được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng
hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với
những gì đã quan trắc được, và điều đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là
do các hoạt động của con người chứ không phải do quá trình tự nhiên.
Nguyên nhân của nước biển dâng
Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao
gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao hơn hoặc
thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại dương và các
yếu tố khác. Mực nước biển được đo thông qua hệ thống thiết bị đo triều ký đặt tại các
trạm hải văn hoặc các máy đo độ cao vệ tinh.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự nóng lên
của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự
tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy
nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu.
Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần
chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt của các đại dương, các sông
băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.
Các kết quả nghiên cứu gần đây đưa ra dự báo mực nước biển sẽ cao hơn từ 0,5 – 1,4m
vào cuối thế kỷ XXI.
3. Biến đổi khí hậu và sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên
Theo kịch bản BĐKH mà Bộ Tài Nguyên và Môi trường đề cập thì đến năm 2050, nhiệt
độ bình quân ở Tây Nguyên tăng 1,01
0
C; năm 2100 tăng 2,39
0
C so với năm 1990; thấp
nhất trong 7 vùng sinh thái của cả nước (bảng 1).
Bảng 1.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam
(nhiệt độ tăng thêm
0
C so với năm 1990)
Năm Tây Bắc Đông
Bắc
Đồng
bằng BB
Bắc
Trung
Bộ
Nam
Trung
Bộ
Tây
nguyên
Nam Bộ
2050 1,41 1,66 1,44 1,68 1,13 1,01 1,21
2100 3,49 4,38 3,71 3,88 2,77 2,39 2,80
Nguồn: Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2009.
Thực vật sống nhờ ánh sáng, khí CO
2
và nước thông qua hiện tượng quang hợp để tạo
chất bột, rồi từ đó các phản ứng dây chuyền khác biến đổi thành chất đạm và chất béo,
căn bản cho sự sống. Hiện tượng quang hợp tối đa ở một nhiệt độ tối thích, quang hợp
giảm dần khi nhiệt độ giảm hay tăng vượt quá nhiệt độ đó, quang hợp không xảy ra ở
nhiệt độ tối thiểu hay nhiệt độ tối đa. Các nhiệt độ này thay đổi tuỳ loại cây trồng. Nhìn
chung, nhiệt độ tối thích cho cây vùng ôn đới khoảng 20 - 25
O
C, vùng nhiệt đới khoảng
25 - 32
0
C.
Những thay đổi về cường độ và thời gian nắng, thiếu nước (do khô hạn), gia tăng lượng
khí CO
2
và nhiệt độ trong tương lai sẽ ảnh hưởng tới việc sản xuất chất khô của cây và
cho sản phẩm thu hoạch.
Các nghiên cứu cho thấy nồng độ CO
2
hiện tại trong khí quyển trung bình là 350 ppm và
trong khoảng 50 - 70 năm nữa thì nồng độ này đạt 700 ppm. Việc gia tăng nồng độ
CO
2
đều làm gia tăng quá trình quang hợp cho đến lúc bão hòa. Trên phương diện quang
hợp, thực vật chia làm 3 nhóm, song chủ yếu là nhóm thực vật C3, C4.
Ở nhóm thực vật C3 (chiếm 95 % thực vật trên thế giới), khí khổng mở vào ban ngày,
hấp thụ CO
2
và đưa vào chu trình Calvin với sản phẩm 3C (3 phosphoglycerate). Khi gia
tăng cường độ ánh sáng, cường độ quang hợp nhóm C3 gia tăng, tiêu biểu nhóm thực vật
C3 là đa số thực vật như đậu tương, cỏ dại, cây ăn trái, cây rừng, lúa (Oryza sativa), cây
cho củ, v.v. của vùng nhiệt đới. Thực vật nhóm C3 hưởng lợi nhiều nhất khi gấp đôi
lượng CO
2
và tăng 1
O
C, nhất là thực vật thích ứng vùng ôn đới, năng suất chất khô toàn
cây có thể gia tăng 20 - 30 % so với lượng CO
2
hiện nay.
Ở nhóm thực vật C4, khí khổng mở vào ban ngày, hấp thụ CO
2
và đưa vào chu trình 4C,
nhờ enzyme phosphoenolpyruvate (PEP) carboxylase. Trong điều kiện CO
2
hiện nay (350
ppm), ở ánh sáng mạnh và nhiệt độ cao, nhóm C4 quang hợp và sử dụng nước hiệu quả
hơn nhóm C3. Như vậy, năng suất chất khô của thực vật C4 cao hơn C3 ở cường độ ánh
sáng cao.
Ở Tây Nguyên, các loại cây rừng, cao su, ca cao, tiêu, điều, cà phê, chè, đậu tương, -
thuộc nhóm C3- sẽ hưởng lợi nhiều khi tăng gấp đôi lượng CO
2
và nhiệt độ tăng thêm
1
0
C.
Tuy chè và cà phê vẫn có năng suất cao nhưng phẩm chất có thể bị giảm vì gia tăng nhiệt
độ. Diện tích canh tác có thể bị hạn chế, vì cần trồng ở cao độ lớn hơn hiện nay, nhất là
lọai cà phê arabica.
Mía, ngô thuộc nhóm C4, vẫn hưởng lợi trong việc gia tăng năng suất thân cây và độ
đường cao khi tăng gấp đôi CO
2
và 1
O
C, đặc biệt nhất là cây lúa miến sẽ có vị trí quan
trọng hơn vì chịu đựng khô hạn và sử dụng nước hữu hiệu hơn trong tương lai.
Lúa thuộc nhóm thực vật C3 cho năng suất toàn cây cao do gia tăng quang hợp, nhưng
năng suất hạt thấp hơn vì nhiệt độ cao làm chỉ số thu hoạch (harvest index) giảm, lúa cho
nhiều rơm rạ hơn hạt. Ngoài ra, nhiệt độ gia tăng 1
O
C đủ làm rút ngắn chu kỳ sinh trưởng,
nhất là thời gian từ trổ đến chín ngắn hơn, lá cờ chết sớm hơn, hậu quả là hàm lượng tinh
bột sản xuất ít hơn, và chuyển đến hạt ít hơn, vì vậy hạt lép nhiều và trọng lượng hạt nhỏ
hơn. Chẳng hạn, ở giống lúa IR36 chỉ cần tăng nhiệt độ từ 28
O
C lên 29
O
C, lúa trổ bông
sớm hơn 5 ngày, và thời gian từ trổ đến chín ngắn hơn 2 ngày. Nếu canh tác trong điều
kiện lý tưởng về nước và phân bón đầy đủ, năng suất có thể cao.
Đậu tương là loại cây quang hợp theo chu trình C3 và C4, sẽ gia tăng năng suất trong môi
trường mới. Bởi vì các giống đậu tương đã được tuyển chọn từ lâu đời để thích ứng với
nhiều loại khí hậu, trải dài nhiều vỉ tuyến, từ khí hậu lạnh đến nóng, nên không có vấn đề
gì cho vùng Tây Nguyên trong tương lai, khi nhiệt độ chỉ gia tăng một vài độ.
Ở các loài đậu khác trong họ Đậu, có cả C3 và C4, nhóm C3 gia tăng năng suất nhiều hơn
khi gia tăng CO
2
.
Các loại cây lấy củ (như khoai mì, khoai lang) cũng hưởng lợi gia tăng năng suất củ nhờ
hâm nóng toàn cầu, bởi vì tỉ lệ rễ/thân tăng khi CO
2
tăng.
Cỏ hoà thảo (C3 và C4, tuỳ loài) cũng hưởng lợi trong môi trường mới.
Cỏ dại đa số thuộc nhóm quang hợp C3, nên sẽ phát triển mạnh trong tương lai, khi nhiệt
độ tăng thêm 1
O
C và CO
2
tăng gấp đôi. Xâm nhập cỏ dại từ một nơi khác sẽ trầm trọng
trong tương lai, ví dụ như cây Mai dương đang là mối đe dọa cho sản xuất nông nghiệp ở
một số địa phương của Tây Nguyên.
Như vậy xét trên phương diện về sự gia tăng nhiệt độ và hàm lượng CO
2
trong thời gian
tới thì cơ cấu các loại cây trồng của vùng Tây Nguyên sẽ chưa có gì thay đổi lớn. Các
loại cây trồng chủ lực như cà phê, cao su, hồ tiêu, lúa, ngô vẫn tiếp tục duy trì sản
xuất, song cần có những giải pháp canh tác phù hợp để thích ứng với điều kiện mới. Việc
gia tăng 1
O
C một cách từ từ không có ảnh hưởng đáng kể đến nông nghiệp, vì thực vật và
động vật có khả năng thích ứng. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ gia tăng đột ngột chỉ trong vài
ngày sẽ có ảnh hưởng xấu trầm trọng đến năng suất.
BĐKH không chỉ là tăng nhiệt độ, tăng hàm lượng CO
2
, mà còn làm thay đổi quy luật
thời tiết, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm của cây trồng. Tác
động của BĐKH gây ra nhiều hậu quả khác nhau. Mưa lũ xuất hiện nhiều làm tăng nguy
cơ ngập lụt đối với các vùng đất canh tác cây lương thực mức độ rủi ro trong sản xuất cao
hơn. Bên cạnh đó, những đợt hạn hán trầm trọng kéo dài cũng đe dọa các ngành sản xuất
nông – lâm nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, sản lượng của hầu hết các loại cây
công nghiệp chủ lực của Tây Nguyên như cà phê, cao su, hồ tiêu Biến động của yếu tố
nhiệt ẩm và các yếu tố khí hậu thời tiết khác cũng khiến năng suất, sản lượng của cây
trồng và vật nuôi bị giảm; sức đề kháng của vật nuôi kém đi, đồng thời tạo môi trường
thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển bùng phát, gây ra nhiều loại dịch bệnh trên
gia súc, gia cầm như bệnh cúm gia cầm, bệnh dịch heo tai xanh Ngoài ra, BĐKH có
thể tác động rất mạnh mẽ tới đa dạng sinh học. Thành phần và phân bố địa lý của các hệ
sinh thái sẽ thay đổi. Mưa lũ lớn, hạn hán và nắng nóng làm cho đất đai bị rửa trôi, cằn
cỗi, tình trạng sa mạc hóa diễn ra nhanh hơn. Rừng mất dần, hệ sinh thái rừng, kiểu rừng
thay đổi, tăng nguy cơ tiệt chủng của động thực vật, mất đi những nguồn gen quí hiếm.
Sự thay đổi về thời tiết, nhất là phân bố mưa, lượng mưa ở Tây Nguyên trong vòng 10
năm trở lại đây là rất rõ. Tần suất xuất hiện mưa vào các tháng 12, 1 là khá phổ biến.
Điều này đã làm cho các loại cây trồng như điều, cà phê gặp trở ngại trong quá trình thụ
phấn thụ tinh. Cà phê sau một thời gian khô cùng với nhiệt độ giảm đã phân hóa mầm
hoa, khi tưới nước đầy đủ, thì hoa nở, nhưng nhiều khi gặp mưa phùn thì quá trình thụ
tinh trở ngại (do phấn không tung được), tỷ lệ đậu quả thấp, làm giảm năng suất. Hoặc
đầu mùa khô, xuất hiện một đợt mua phùn làm hoa cà phê nở lai rai, nhưng tỷ lệ đậu quả
cũng thấp, làm ảnh hưởng đến năng suất và thu hoạch sau này. Ngoài ra mưa trong giai
đoạn này đã làm ảnh ảnh đến việc sơ chế cà phê, thời gian phơi kéo dài, nhân bị đen, lỗi
chất lượng theo TCVN 4193 - 2005 sẽ tăng, giá bán sẽ thấp và thu nhập của người nông
dân bị ảnh hưởng.
Lượng mưa bình quân có xu hướng thay đổi, đặc biệt là từ tháng 4 - 7 giai đoạn cây cà
phê cần nhiều nước để đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng cây và phát triển của quả cà phê,
song gần đây vào các tháng này, lượng mưa có xu hướng thấp, tần suất mưa ít, gây thiếu
nước, làm quả cà phê bị khô và rụng, hoặc nhân nhỏ, dẫn đến thiệt hại về năng suất và
giảm chất lượng cà phê nhân.
Cây điều là cây ra hoa, thụ phấn trong mùa khô (tháng 1 - 3), song trong những năm từ
2006 - 2009 quy luật mưa đã thay đổi, vào các tháng này thường có những đợt mưa phùn
xảy ra ở các vùng trồng điều, vì vậy hoa điều không thể thụ phấn thụ tinh được. Nếu cây
điều ra hoa nhiều đợt thì có thể có các đợt khác đậu quả, song nếu chỉ ra hoa 1 đợt tập
trung, gặp mưa phùn thì tỷ lệ đậu quả gần như bằng không. Và như vậy điều sẽ không
cho năng suất, nông dân thu nhập thấp. Trong vòng khoảng 5 năm trở lại đây, năng suất
điều giảm dần do tác động bất lợi của thời tiết. Điều tra, nghiên cứu của Viện Khoa học
Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho thấy có tới 85,7 % nông dân cho rằng thời
tiết bất thường (mưa, nắng, nhiệt độ cao lúc ra hoa và đậu quả) đã làm cho năng suất điều
giảm sút nghiêm trọng. Năng suất điều thấp, đời sống người trồng điều gặp khó khăn, vì
vậy ở tỉnh Gia Lai, đặc biệt ở các huyện Kon Chro, Krông Pa, người dân đã phá bỏ cây
điều và chuyển sang trồng sắn có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Bảng 2. Năng suất điều giảm theo thời gian (tạ/ha)
Năm Tỉnh Đak Lak Tỉnh Gia Lai
2005 10,46 -
2006 8,53 7,72
2007 8,69 7,45
2008 7,78 6,95
2009 8,34 6,68
2010 7,20 5,60
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đak Lak (2010), WASI (2009)
Sự thay đổi về thời tiết có xu hướng nóng lên cũng làm cho sâu bệnh hại phát triển
nhanh và khó dự báo. Rệp sáp hại cà phê đã thành dịch vào những năm 2000 - 2003, bệnh
vàng lá do tuyến trùng và nấm đối với cà phê (2000 - 2004), ve sầu hại rễ cà phê (2007 -
2009), bệnh chết nhanh, chết chậm cây tiêu (2005 - nay), rầy nâu hại lúa, bọ xít muỗi hại
điều, ca cao đã làm thiệt hại đến năng suất và chất lượng sản phẩm đáng kể.
Sự nóng lên do bức xạ nhiệt tăng thì nhu cầu nước của cây cũng tăng lên, vì vậy yêu cầu
về lượng nước tưới sẽ tăng trong bối cảnh nguồn tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt sẽ là
thách thức cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Chí phí đầu tư để thu được 1 đơn
vị sản phẩm tăng, đồng nghĩa với thu nhập giảm và đời sống của người nông dân càng
khó khăn hơn.
Đợt hạn năm 1998 ở Tây Nguyên, trong tổng số 24.000 ha lúa Đông - Xuân, có 7.800 ha
bị thiệt hại; 110.000 ha diện tích cây công nghiệp và cây ăn quả bị hạn có 20.000 ha bị
chết. Khoảng 800.000 người bị thiếu nước ngọt.
Tóm lại, BĐKH trước mắt đã gây ra nhiều tác động có hại đối với sản xuất nông lâm
nghiệp. Thiên tai, đặc biệt là hạn hán, ngày càng xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng
hơn cả về cường độ và quy mô, quy luật phân bố mưa cũng bị thay đổi. Nguyên nhân của
biến đối khí hậu rất phức tạp và đa dạng, bao gồm cả nguyên nhân do tự nhiên và
nguyên nhân do con người. Vì vậy, để giảm thiểu tác hại cần phải có những giải pháp
đồng bộ mang tính đa ngành, đa lĩnh vực để đối phó và thích ứng với biến đổi khí hậu.
4. Các giải pháp đối phó và thích ứng với BĐKH
- Bảo vệ rừng, siết chặt công tác quản lý rừng, đầu tư trồng rừng cũng như các dự án
trồng cây xanh trên lãnh thổ của mình, các biện pháp quản lý hệ thống thủy lợi và thoát
lũ Rừng chính là “máy điều hòa khí hậu” khổng lồ. Các nhà khoa học cho biết: Tạm
tính với diện tích 1.000.000 ha nếu chỉ 50% diện tích có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm
rừng ở Trường sơn giữ được 22-25 triệu tấn CO
2
, góp phần đáng kể vào giảm hiệu ứng
nóng lên toàn cầu mà không cần đầu tư gì ngoài bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng sinh học,
đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trường sẽ là một chiến lược thích ứng lợi hại của Việt
Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng trước thảm họa BĐKH.
- Trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp, xây dựng
các biện pháp kỹ thuật, tăng cường hệ thống tưới tiêu và các biện pháp chống chịu với
ngoại cảnh khắc nghiệt. Sử dụng các giống kháng, chịu hạn (cà phê, lúa, ngô ), giống ra
hoa nhiều lần (đối với cây điều), bộ giống cây lương thực, thực phẩm ngắn ngày; bố trí
thời vụ thích hợp để tránh hạn, né lũ. Tăng cường đa dạng sinh học trên vườn cà phê như
trồng cây che bóng, cây ăn quả, cây đai rừng sẽ là giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu hiệu quả do hệ thống cây trồng này có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều hòa vi
khí hậu, hạn chế bốc thóat hơi nước trên bề mặt đất và lá, cung cấp hữu cơ, cải tạo đất,
hạn chế xói mòn và rửa trôi đất giúp sản xuất cà phê bền vững hơn. Tưới nước tiết kiệm
hợp lý cho cà phê cũng là giải pháp kỹ thuật nhằm thích ứng với sự BĐKH ở Tây
Nguyên. Chuyển một số diện tích đất trồng điều ở các vùng có điều kiện khí hậu bất
thuận, sản xuất không hiệu quả sang trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn như sắn,
khoai lang, khoai môn là những loại cây có khả năng thích ứng cao với sự BĐKH và từng
bước thay đổi khẩu phần lương thực của chúng ta từ gạo là chủ yếu sang một phần các
loại củ để giảm áp lực về an ninh lương thực trong tương lai.
- Nhà nước ngay từ bây giờ nên đầu tư một nguồn kinh phí thỏa đáng và mang tính chiến
lược cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp trong việc chọn tạo giống kháng, chịu hạn;
giống kháng sâu bệnh; giống chín tập trung, hoặc rãi rác (tùy đối tượng cây trồng và tùy
vùng sinh thái); nghiên cứu về các giải pháp khoa học công nghệ tổng hợp đối với từng
loại cây trồng, trên từng vùng sinh thái theo hướng thích ứng cao với BĐKH, trước mắt
ưu tiên tập trung nghiên cứu canh tác cà phê thích ứng với biến đổi khí hậu, vì đây là loại
cây trồng chủ lực của Tây Nguyên, song lại có nhu cầu sử dụng nước với khối lượng lớn,
trung bình cần 400 - 500 m
3
nước để sản xuất được 1 tấn cà phê nhân.
- Tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cán bộ và người dân về
BĐKH và tác hại của nó đối với đời sống kinh tế xã hội; về phương thức và phương án
giảm nhẹ thiên tai để từ đó thay đổi thái độ, hành vi ứng xử trong hoạt động sống của
mình (lao động sản xuất, học tập, sinh hoạt, công tác, sử dụng tài nguyên )
Một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nhân loại trong tương lai là hạn chế
nguy cơ biến đổi khí hậu nhằm giảm thiểu thảm họa do thiên tai gây ra như bão lụt, sóng
thần, trượt đất, băng tan, lốc xoáy Hàng chục triệu người đã bị tác động bởi thời tiết
khắc nghiệt, bất thường trong hai thập kỷ qua. Lượng khí thải CO
2
hàng năm cao hơn 3
lần so với thập niên 1990 và tỷ lệ sử dụng nhiên liệu hóa thạch tiếp tục tăng vọt.
Các nhà khoa học dự báo ngay cả khi loài người có thể ngừng hoàn toàn và ngay lập tức
việc thải khí CO
2
thì nhiệt độ trung bình của trái đất vẫn sẽ tiếp tục tăng từ mức cao hơn
bình thường 0,8 độ C như hiện nay lên mức 1,6 - 1,8 độ C. Nhiệt độ mới cao hơn mức
bình thường của trái đất sẽ kéo dài trong 500 năm nữa vì các đại dương, vốn đã bị ấm lên,
cần có thời gian để hạ nhiệt. Để ngăn ngừa nguy cơ nhiệt độ trái đất sẽ tăng thêm 2
0
C
nữa, tới ngưỡng gây thảm họa, thế giới cần ngay lập tức loại bỏ hoàn toàn việc thải khí
CO
2
. Dưới đây là 10 giải pháp khả thi đã được Tạp chí Sciencetific America của Mỹ đưa
ra:
1. Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch
Một trong những giải pháp khả thi nhất là hạn chế đốt than, dầu và khí thiên nhiên. Hiện
nay, dầu là nhiên liệu phổ biến và cũng từ dầu người ta sản xuất ra nhiều sản phẩm khác,
còn than lại được sử dụng rất phổ biến ở hầu hết các quốc gia, chủ yếu là để sản xuất
điện. Theo các chuyên gia Năng lượng Mỹ, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một giải
pháp hoàn hảo nào để thay thế nhiên liệu hóa thạch mặc dù đây là nguồn gây hiệu ứng
nhà kính rất lớn. Bởi vậy, sớm hay muộn con người cũng sẽ phải tìm ra nguồn nhiên liệu
khác thay thế như nhiên liệu sinh học, điện nguyên tử hay các nguồn năng lượng khác.
2. Cải tạo, nâng cấp hạ tầng
Theo số liệu thống kê, nhà ở chiếm tới gần 1/3 lượng phát tán khí gây hiệu ứng nhà kính
trên quy mô toàn cầu (riêng ở Mỹ là 43%). Vì vậy, việc cải tiến trong lĩnh vực xây dựng
như tăng cường hệ thống bảo ôn, xây dựng các cầu thang điều chỉnh nhiệt, các loại nhà
"môi trường" sẽ tiết kiệm được rất nhiều nhiên liệu và giảm mức phát tán khí thải.
Ngoài ra, các công trình giao thông như cầu đường cũng là yếu tố cần đầu tư thỏa đáng.
Đường tốt không chỉ giảm nhiên liệu cho xe cộ mà còn giảm cả lượng khí phát tán độc
hại hoặc sử dụng các loại lò đốt trong công nghiệp (như lò khí hóa than, lò dùng trong
sản xuất xi măng) cũng sẽ giảm được rất nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
3. Làm việc gần nhà
Theo các nhà khoa học, cứ khoảng 1 galon nhiên liệu (tương đương 4,5lít) cho xe chạy sẽ
tạo ra khoảng 9 kg CO
2
phát tán, vì vậy phương án làm việc gần nhà không dùng xe mà
đi bộ hay đi xe đạp vừa có lợi cho sức khỏe lại có lợi về mặt kinh tế môi trường.
4. Giảm tiêu thụ
Một trong những phương án kinh tế nhất là tiết kiệm giảm chi tiêu, điều này không chỉ
đúng trong cuộc sống hàng ngày mà nó còn có tác dụng làm giảm các loại khí thải gây
hiệu ứng nhà kính. Ví dụ như giảm dùng các loại bao gói sẽ giảm được đáng kể chi phí
sản xuất lẫn phí tái chế. Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là sử dụng quá nhiều
các loại bao gói có nguồn gốc từ nhựa plastic đã gây nên hiệu ứng "ô nhiễm trắng"
5. Ăn uống thông minh, tăng cường rau, hoa quả
Đây là phương án được giới y học khuyến cáo rất nhiều, nhưng đứng về mặt môi trường
lại có ý nghĩa khác. Theo đó, người ta đã khuyến khích việc canh tác hữu cơ, gieo trồng
các loại rau, hoa quả không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu. Việc lựa chọn thực phẩm
để cân bằng dưỡng chất, ngon miệng lại mang tính môi trường quả là không đơn giản,
trong khi đó các hãng sản xuất lại thi nhau quảng cáo nên đã làm cho người tiêu dùng dễ
bị nhầm lẫn. Ngoài ra việc ăn quá nhiều thịt cũng không tốt cho cơ thể, trong khi đó riêng
ngành chăn nuôi cũng là nơi sản xuất ra các loại gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất.
6. Chặn đứng nạn phá rừng
Theo số liệu thống kê của Bộ Môi trường Mỹ, mỗi năm bình quân trên thế giới có khoảng
33 triệu ha rừng bị phá, riêng nạn khai thác gỗ đã tạo ra trên 1,5 tỷ tấn CO
2
thải vào môi
trường, chiếm 20% lượng khí thải nhân tạo gây hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, chặn đứng nạn
phá rừng sẽ có tác dụng lớn trong việc giảm thiểu nguy cơ biến đổi khí hậu.
7. Tiết kiệm điện
Một trong những giải pháp kinh tế khả thi nhất nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường là
tiết kiệm điện, đặc biệt là sử dụng các thiết bị dân dụng tiết kiệm điện như bóng đèn
compact, các loại pin nạp. Theo các Bộ Môi trường Mỹ, ở quốc gia này mỗi gia đình chỉ
cần thay một bóng đèn dây tóc chiếu sáng bằng bóng compact thì cả nước sẽ tiết kiệm
được lượng điện dùng cho 3 triệu gia đình khác.
8. Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh 1 con
Hiện nay trên thế giới đã có trên 6 tỷ người và theo dự báo của LHQ thì đến giữa thế kỷ
21 sẽ tăng lên 9 tỷ và như vậy nhu cầu về thực phẩm, quần áo, các nhu yếu phẩm khác sẽ
tăng lên gấp rưỡi so với hiện nay. Với mức tiêu thụ lớn như vậy sẽ tạo ra nguồn phát tán
khí thải gây hiệu ứng nhà kính rất lớn, nhất là ở các nước đang phát triển. Áp dụng
phương án mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1 con sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, được coi
là phương án phát triển bền vững và khả thi nhất trong tương lai.
9. Khai phá những nguồn năng lượng mới
Việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới để thay thế nhiên liệu hóa thạch là thách thức lớn
nhất của con người trong thế kỷ 21. Một số nguồn năng lượng ứng viên sáng giá là
ethanol từ cây trồng, hydro từ quá trình thủy phân nước, năng lượng nhiệt, năng lượng
sóng, năng lượng gió, năng lượng mặt trời và nhiên liệu sinh học
10. Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ trái đất
Hiện nay các nhà khoa học đang tiến hành những thử nghiệm mới như quá trình can thiệp
kỹ thuật địa chất hay kỹ thuật phong bế mặt trời nhằm giảm hiệu ứng nhà kính. Ngoài
các giải pháp này, các nhà khoa học còn tính đến kỹ thuật phát tán các hạt sulfate vào
không khí để nó thực hiện quá trình làm lạnh bầu khí quyển như quá trình phun nhan
thạch của núi lửa, hoặc lắp đặt hàng triệu tấm gương nhỏ để làm chệch ánh sáng mặt trời
cho tới việc bao phủ vỏ trái đất bằng các màng phản chiếu để khúc xạ trở lại ánh sáng
mặt trời, tạo ra các đại dương có chứa sắt và các giải pháp tăng cường dưỡng chất giúp
cây trồng hấp thụ nhiều CO
2
hơn
Lời kêt Thách thức và cơ hội trong ứng phó với biến đổi khí hậuv
Do vị trí địa lý, Việt Nam là một trong những quốc gia phải hứng chịu tác động của
biến đổi khí hậu nặng nề nhất. Với bờ biển dài 3.260km và 28 tỉnh, thành phố có biển,
các vùng sản xuất lương thực chính của nước ta cũng là các vùng tập trung dân cư
ngay tại 2 đồng bằng châu thổ lớn.
Trong khi đó, 80% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 30% diện tích Đồng bằng
sông Hồng ở độ cao dưới 2,5m so với mặt nước biển nên mối đe dọa do nước biển dâng,
xói lở bờ biển, xâm nhập mặn là thực sự nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu còn làm tăng tần
suất và cường độ của các đợt nắng nóng, lũ quét và hạn hán ở nhiều địa phương. Những
thiên tai này không còn diễn ra theo mùa hay chu kỳ và ngày càng thất thường, rất khó dự
báo.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Nguyên Anh, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam: Hiện có 2 giải pháp quan trọng để ứng phó và giải quyết vấn đề biến đổi khí
hậu. Trước hết là giảm thiểu lượng khí thải từ những hoạt động của con người nhằm giải
quyết tác nhân căn bản gây nên biến đổi khí hậu. Thứ hai là thích ứng, né tránh và lợi
dụng các tác động không thể tránh được tác hại của thiên tai và biến đổi khí hậu, để
chung sống với tự nhiên một cách hòa bình.
Một số giải pháp thích ứng cũng góp phần làm giảm lượng khí thải nhà kính, trong khi
ngược lại các giải pháp giảm thiểu cũng có thể làm giảm rủi ro thiên tai. Cả 2 giải pháp
này cần được kết hợp và thực hiện đồng thời trong các chương trình hành động nhằm ứng
phó với biến đổi khí hậu. Các giải pháp ứng phó cần gắn với quá trình phát triển bền
vững, bởi nó sẽ giúp giảm nhẹ rủi ro cho con người, đồng thời tăng khả năng ứng phó của
cộng đồng đối với sự tàn phá của thiên nhiên.
Thực tế trong công tác phòng chống thiên tai ở nước ta, nếu như trước đây chỉ chú trọng
phòng và khắc phục hậu quả, thì gần đây đã có sự chuyển hướng trong việc thích ứng và
tìm giải pháp phòng ngừa, giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Cụ thể như Chương trình sống
chung với lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Mới đây, Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ,
ngành liên quan nghiên cứu giải pháp thích ứng với lũ ở miền Trung.
Kết quả là việc thích nghi với mùa lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long đã mang lại lợi ích
đa dạng, nâng cao đáng kể nguồn sinh kế địa phương của người dân ở khu vực này.
Chẳng hạn như nông dân trồng lúa ở Đông bằng sông Cửu Long có thể trồng nhiều hơn 2
vụ trên diện tích bị ngập, bằng việc sử dụng phương pháp tiếp cận trồng cây trên lũ.
Những người nuôi thủy sản như cá da trơn và lươn quy mô nhỏ cũng thu được lợi nhuận
đáng kể. Hoặc việc trồng sen và củ ấu cũng có thể đem lại nguồn lợi từ 10-12 triệu đồng
trên mỗi ha, cao hơn gấp 2 lần so với trồng lúa.
Ngoài những lợi ích kinh tế, phương thức sản xuất nông nghiệp dựa vào mùa lũ còn tạo
ra nhiều dịch vụ việc làm cho người dân địa phương. Kinh nghiệm của các nước cho thấy
chiến lược thích nghi riêng lẻ từng cá nhân, từng hộ gia đình sẽ không là giải pháp nếu
không có được chiến lược của tập thể, sự duy trì hệ thống bảo vệ và thích ứng với biến
dổi khí hậu của cả cộng đồng.
Biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc
và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội toàn cầu. Để chủ động ứng phó, phải tiến hành
đồng thời các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ; trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu
là trọng tâm, coi giảm nhẹ khí nhà kính là cơ hội để phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
môi trường. Chính phủ đã khẳng định việc phòng chống, kiểm soát và giảm thiểu hậu quả
thiên tai là một trong những mục tiêu ưu tiên. Để giảm thiểu tác động của biến đổi khí
hậu, Việt Nam cần giải quyết ở cả 3 cấp độ. Đó là cộng đồng, chính sách và năng lực thể
chế, trong đó quan trọng nhất là xây dựng năng lực thể chế.
Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện
hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và
sự phát triển bền vững đất nước. Các lĩnh vực, ngành, địa phương dễ bị tổn thương và
chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu là tài nguyên nước, nông nghiệp,
ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, nhà ở và cơ sở hạ tầng. Biến đổi khí hậu
có tác động mạnh đến các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội quốc gia, của ngành và địa
phương, đến an ninh lương thực, năng lượng, học hành và sức khỏe cộng đồng. Biến đổi
khí hậu đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hàng triệu người dân nước ta,
gây khó khăn và thậm chí phá hủy chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, việc nâng cao nhận thức, hình thành ý thức thường trực ứng phó với biến đổi
khí hậu của các ngành, các cấp, cộng đồng dân cư và người dân là vấn đề cấp thiết hiện
nay. Đồng thời nâng cao khả năng thích ứng của hệ thống hạ tầng, công trình thủy lợi,
kinh tế-xã hội, cộng đồng dân cư trước tác động của biến đổi khí hậu. Trước hết ưu tiên
cho cho các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực thành phố Hồ Chí Minh, dải ven
biển miền Trung và khu vực Đồng bằng sông Hồng. Mặt khác phải đảm bảo 100% chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngành, lĩnh vực và vùng được xây
dựng trên cả nước đều cập nhật, bổ sung có tính đến các yếu tố tác động của biến đổi khí
hậu.