Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

CHUYEN DE DIA LY TU NHIEN DAI CUONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.51 KB, 40 trang )

1
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN ĐẠI CƯƠNG

CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÝ 3
I. Lịch sử phát triển của khoa học Địa lý đến cuối thế kỷ XIX: 3
1. Thời kỳ Cổ đại: 3
2. Thời kỳ Trung cổ: 4
3. Thời kì Phục Hưng: 5
4. Thời kì tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XVII – XVIII) 6
5. Thời kì tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX) 6
II. Lịch sử phát triển củ
a khoa học địa lý trong nửa đầu thế kỷ XX: 8
1. Trường phái địa lý Pháp: 8
2. Trường phái địa lý Đức: 9
3. Trường phái địa lý Nga: 9
4. Trường phái địa lý Mỹ: 10
5. Địa lý các nước khác: 10
III. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa cuối thế kỉ XX: 11
1. Sự hiện đại hóa khoa học địa lý: 11
2. Các phân hệ của hệ thống không gian địa lý hoàn chỉnh: 13
IV. Những vấn đề của Địa lý họ
c hiện đại: 15
1. Định nghĩa: 15
2. Đối tượng nghiên cứu: 15
a. Lớp vỏ địa lý: 15
b. Các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên: 15
c. Các xứ địa lý: 15
d. Vòng đai địa lý: 15
e. Đới địa lý: 16
f. Miền địa lý: 16
g. Khu địa lý: 16


h. Đai cao địa lý: 16
i. Cảnh quan địa lý: 16
j. Dạngđịa lý: 16
k. Diện địa lý: 17
CHƯƠNG 2. CÁC QUY LUẬT ĐỊA LÝ 18
I. Khái niệm v
ề quy luật địa lý: 18
II. Quy luật về tính thống nhất và hoàn chỉnh của LLE: 18
1. Định nghĩa: 18
2. Nguyên nhân: 18
3. Ý nghĩa: 19
III. Quy luật tuần hoàn vật chất và năng lượng: 20
1. Khái niệm: 20
2. Cơ sở của sự tuần hoàn: 20
a. Cơ sở tuần hoàn trong thủy quyển 20
b. Cơ sở tuần hoàn trong khí quyển 22
c. Cơ sở tuần hoàn của sinh vật 22
d. Cơ sở tuần hoàn của đ
á. 24
2
3. Đặc điểm cơ bản của vòng tuần hoàn vật chất 24
III. Quy luật về các hiện tượng nhịp điệu: 25
1. Khái niệm: 25
2. Nguồn gốc phát sinh và độ dài thời gian của các nhịp điệu 26
3. Các hiện tượng nhịp điệu cơ bản. 26
a. Phân loại 26
b. Các nhịp điệu cơ bản 27
4. Những nhận xét về qui luật nhịp đi
ệu 31
5. Ý nghĩa thực tiễn 32

IV. Quy luật địa đới: 32
1. Khái niệm địa đới 32
2. Nguyên nhân gây tính địa đới 32
3. Phạm vi biểu hiện của tính địa đới 33
4. Biểu hiện của tính địa đới ở Việt Nam. 35
V. Quy luật phi địa đới 36
1. Nguyên nhân 36
2. Phạm vi biểu hiện của quá trình phân dị phi địa đới 36
3. Ý nghĩa: 38
4. Biểu hiện của qui luật phi địa đới ở Việt Nam. 38
a. Qui lu
ật phân hoá theo kinh độ ở Việt Nam 38
b. Qui luật phân hóa theo các điều kiện kiến tạo - địa mạo ở Việt Nam. 39
c. Qui luật phân hóa theo đai cao ở Việt Nam 40

3
CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÝ
I. Lịch sử phát triển của khoa học Địa lý đến cuối thế kỷ XIX:

Cho đến cuối thế kỷ XIX, khoa học địa lý đã trở thành 1 khoa học thực sự với
những học thuyết, những khái niệm, những phương pháp riêng. Từ địa lý thống
nhất cổ điển đã tách ra thành nhiều khoa học bộ phận, gộp thành hai ngành chính
là Địa lý tự nhiên và Địa lý kinh tế - xã hội với xu thế phân tích là chính. Có thể
phân chia lịch sử phát triển lâu dài này thành một số thời kỳ như
thời kỳ Cổ đại,
Trung cổ, Phục Hưng, tiền Tư bản chủ nghĩa, Tư bản chủ nghĩa. Do lịch sử phát
triển diễn ra không đồng đều giữa phương Đông và phương Tây và giữa các nước
với nhau, mà các tư liệu địa lý chủ yếu được trích dẫn từ một số nước châu Âu,
một mặt vì tư liệu thành văn của họ được l
ưu trữ tốt, mặt khác khoa học địa lý

hiện nay trên toàn thế giới cũng chịu nhiều ảnh hưởng của địa lý phương Tây, vì
nền khoa học kĩ thuật của họ đạt trình độ cao hơn.
1. Thời kỳ Cổ đại:
Chính thức đi từ thế kỉ V TCN (với những công trình của Herodote công bố
vào năm 456 TCN) cho đến thế kỉ IV sau CN, khi Đế chế La Mã bị sụp đổ vào
năm 395 SCN. Nôi văn minh của phương Tây là các khu vực quanh Địa Trung
Hải, khu vực có những con đường hàng hải thuận lợi. Như thế các tư liệu địa lý
phương Tây ban đầu là những tư liệu về các bến bờ ven biển. Các tư liệu thu thập
trên đất liền đầu tiên lại do người Trung Quốc ở phương Đông tích lũy vì họ có 1
lãnh thổ quá rộng lớn. Cách đây 3000 năm họ đã có nh
ững thông tin địa lý về đất
nước mình, đến đầu CN họ đã biết rất rõ về đất nước, các con đường giao thông
thủy bộ, về các thành phố của mình và đã có những bản đồ được các nhà cầm
quyền rất coi trọng. Nhà vua bắt buộc các quan chức địa phương phải soạn thảo
một địa chí đầy đủ về địa phương mình, có kèm theo bản đồ. Các nhà trí thức
Trung Quốc c
ổ đại thường thông thiên văn, tường địa lý nhưng do chế độ phong
kiến Trung Quốc trì trệ đóng cửa kéo dài nên khoa học địa lý cổ truyền của Trung
Quốc vẫn dậm chân tại chỗ, ở trình độ mô tả, liệt kê.
Sau người Ai Cập, Babilon rồi đến người Hy Lạp và La Mã thì các thông tin
địa lý đã được sắp đặt, chọn lọc, nâng cao và nền khoa học địa lý cổ đại chính thức
hình thành. Herodote (485 – 425 TCN) lần đầ
u tiên đã cho ra đời những tập thông
tin có tổ chức về nhiều mặt, khi ông mô tả các vùng đất và biển mà ông đã đi qua
ở biển Đen, Địa Trung Hải, Ai Cập, Tiểu Á và Lưỡng Hà.
Trong thế kỷ V TCN cũng đã có những khái niệm về một Trái Đất hình tròn
(Pythagore) và tính địa đới (Parmenide), trong đó đề cao đới ôn hòa và cho rằng
xích đạo thì quá nóng còn vùng cực thì quá lạnh.
Vào thế kỉ III TCN Eratoxten đã chú ý đến việc đo đạc Trái Đấ
t, xác định

phương hướng và vị trí địa lý, đồng thời mô tả chuyển động của Trái Đất, ông
cũng xác định chiều dài kinh tuyến là 39.500 km và đã đặt tên cũng như định
nghĩa cho khoa học địa lý.
4
Đầu CN, Strabon (58 TCN – 25 SCN) chuyển sang nghiên cứu Địa lý nhân
văn, chú ý đến các dân tộc và chiều lịch sử.
Vào thế kỉ II SCN, khoa học địa lý có bước thụt lùi với các công trình của
Ptolemee (90 – 168 SCN) khi ông đưa ra thuyết địa tâm. Nhưng về khía cạnh bản
đồ và trắc địa thì đóng góp của ông là to lớn.
Đáng chú ý là trong thời kì Cổ đại, những hướng nghiên cứu địa lý chính đã
hình thành và tồn tại cho đến ngày nay, đó là hướng nghiên cứu toàn Trái Đất và
h
ướng nghiên cứu các khu vực khác nhau, hướng phân tích định lượng, đo đạc
chính xác, mô tả tổng hợp định tính, hướng địa lý thống nhất tự nhiên – con người
và hướng phân biệt địa lý tự nhiên và kinh tế - xã hội, nhân văn.
Đồng thời với tài liệu viết thì các bản đồ cũng được xây dựng bằng nhiều chất
liệu như đất nung, giấy, lụa. Bản đồ cổ nhất còn được lưu tr
ữ là một bản đồ bằng
đất nung rất nhỏ, có tuổi khoảng 2500 năm TCN, tìm thấy khi khai quật thành phố
cổ Ga Sua, cách Babilon 200 dặm về phía Bắc. Trình độ xây dựng bản đồ đạt đỉnh
cao tại cổ Hy Lạp, họ đã biết Trái Đất hình cầu với hai cực, hai chí tuyến và đường
xích đạo, phát triển hệ thống kinh – vĩ độ, biết dùng phép chiếu và biết tính toán
kích thước Trái Đất. Hai nhà bản
đồ kiêm địa lý sớm nhất là Anaximandre và
Hecatee (thế kỉ VI TCN). Nhà địa lý kiêm bản đồ học nổi tiếng của Hy Lạp là
Prolemee với công trình quan trọng nhất là cuốn “Địa lý học” gồm 8 tập. Tập 1
trình bày các nguyên tắc, trong đó có cách xây dựng quả địa cầu và cách chiếu khi
vẽ bản đồ. Từ tập II đến VII chứa đựng một danh mục khoảng 8000 địa danh kèm
theo tọa độ kinh vĩ để xác định vị trí. T
ập VIII là quan trọng nhất, trình bày về địa

lý toán học, về thiên văn học, cách họa đồ và phép chiếu trong đó có hai phép
chiếu là biến thể của phép chiếu hình nón. Công trình này có kèm theo 1 bản đồ
toàn thế giới và 26 bản đồ chi tiết về các khu vực, đó là Atlat thế giới đầu tiên
trong lịch sử phát triển địa lý.
2. Thời kỳ Trung cổ:
Bắt đầu từ năm đế chế La Mã sụp đổ (395 SCN) cho đến khi vua Th
ổ Nhĩ Kỳ
Mohamed II chiếm lĩnh được Constantinople vào năm 1453. Là thời kỳ suy thoái
của khoa học địa lý nói riêng và nền khoa học nhân loại nói chung do những ràng
buộc khắc nghiệt của nhà thời Thiên chúa giáo. Hình cầu của Trái Đất đã bị phủ
nhận mà coi là có dạng phẳng hay dạng đĩa.
Tuy nhiên, ở châu Á và nhất là Trung Cận Đông, người A rập nói riêng và thế
giới Hồi giáo nói chung vẫn giữ được các thành tựu của khoa học Hy Lạ
p và còn
phát huy thêm do các hoạt động mở rộng đất đai, buôn bán và du hành của họ. Thế
kỉ XI họ đã đo đạc lại kích thước của Trái Đất, xác định độ dài của kinh tuyến là
40.680 km và bắt đầu nói đến Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, sớm hơn Copernic.
Ngoài người A rập thì người Noocmang ở phía Bắc cũng có những cuộc hành
trình trên biển vĩ đại ở Đại Tây Dương. Vào thời kì này cũ
ng đã xuất hiện những
quan điểm địa lý tích cực, người ta đã bác bỏ ý kiến không có người cư trú ở xích
5
đạo và vùng cực, đã biết liên hệ tính đới của khí hậu với sinh vật và sinh hoạt của
con người. Một sự kiện nổi bật vào cuối thời Trung cổ là chuyến du hành của
Marco Polo người Vonido đã đi suốt châu Á tới Trung Quốc và khi về đã dùng
đường biển từ Xumatra để vòng quan Nam Á và Tiểu Á, chấm dứt cuộc hành trình
hàng chục năm vào năm 1299.
Các bản đồ thời này không thể hiện thực tạ
i mà vẽ theo trí tưởng tượng và theo
giáo lí Thiên chúa giáo. Trong khi đó, trong thế giới A rập thì bản đồ vẫn được vẽ

theo các quan điểm và phương pháp Cổ đại như cuốn “Địa lý học” của Ptolemee.
Ngoài ra họ còn đo đạc chính xác hơn với phép chiếu chữ nhật tốt hơn.
Như vậy, trong thời kỳ này, nhờ sự phát triển của hàng hải, thủ công nghiệp và
buôn bán mà thông tin địa lý đã được tích lũy nhiề
u hơn, bản đồ cũng hoàn thiện
hơn, nhất là các hải đồ.
3. Thời kì Phục Hưng:
Đó là thời kì khôi phục, chấn hưng và phát triển các nền khoa học, văn học và
nghệ thuật cổ Hy Lạp diễn ra ở châu Âu trong 2 thế kỉ XV – XVI, được châm ngòi
từ sự tiếp xúc với thế giới A rập cùng với việc mang về các sách và tài liệu cổ đại
được người A rập cất gi
ữ và sử dụng.
Thời kì này được đánh dấu bởi các “đại phát kiến” đi bằng đường biển trên các
thuyền buồm lớn gọi là Caravella, có tới 4 cột buồm với hệ thống buồm kiểu Ý.
Đại phát kiến thứ nhất là việc tìm ra châu Mỹ của Christophe Colomb qua 4 đợt
vượt Đại Tây Dương (từ 1492 đến 1504).
Đại phát kiến thứ hai là chuyến đi vòng quanh châu Phi qua mũi Hảo Vọng để
tớ
i Ấn Độ, do Vasco de Gama thực hiện vào năm 1498. Đại phát kiến thứ ba là
chuyến đi vòng quanh thế giới trong 3 năm 1519 – 1522 của Magellan. Ngoài ra
còn nhiều chuyến du hành khác cũng đã tìm thêm những vùng đất mới.
Những đợt phát kiến này không những đã chứng minh được những thành tựu
của địa lý Cổ đại như Trái Đất hình cầu, tính địa đới của khí hậu do góc tới khác
nhau của tia nắng Mặt Trời đến các nơ
i trên Trái Đất, quan hệ giữa khí hậu và sinh
vật,… mà còn mở rộng thêm tầm hiểu biết không gian rất nhiều, khiến cho có thể
dùng phương pháp so sánh để sơ bộ hình thành các quy luật địa lý, sẽ được chứng
minh vào các thế kỷ sau, đồng thời cũng sửa chữa được những nhận định sai lầm
cũ. VD, đã phát hiện được các đới gió (tín phong, gió Tây), thu thập nhiều mẫu
cây cối, chim thú, hiểu thêm về dân tộc đị

a phương,…
Địa lý học rất có uy tín trong thời kì này, vì giúp cho nhiều vương quốc bành
trướng thuộc địa, chủ yếu là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, của cải thế giới dồn về
châu Âu đã giúp cho việc tích lũy tư bản, đẩy mạnh công nghiệp.
Các thành tựu địa lý nói trên được thể hiện rõ và xúc tích qua các bản đồ và
quả địa cầu được xây dựng. Tuy nhiên, Bắc Mĩ vẫn chưa có tên trên bản đồ, mãi
đến khi nhà b
ản đồ học người Hà Lan Mercator dùng tên America để chỉ cả Bắc
6
và Nam Mĩ thì America mới được mọi người công nhận là châu Mĩ. Công lao to
lớn nhất của Mercator là giải phóng ngành bản đồ học khỏi ảnh hưởng của
Ptolemee. Các quả địa cầu cũng rất phổ biến trong thời kì này. Quả địa cầu đầu
tiên được hoàn thành năm 1492 nên chưa thể hiện được châu Mĩ. Thành tựu bản
đồ học đáng chú ý nhất là các tập bản đồ (Atlat). Atlat đầu tiên của thờ
i kì này là
của Abraham Ortelius xuất bản năm 1570 gồm 53 bản đồ in từ các bản khắc bằng
đồng, tô màu bằng tay, tham khảo tài liệu của 87 nhà địa lý và bản đồ học.
4. Thời kì tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XVII – XVIII)
Trong thời gian này, tuy vẫn tiếp tục tiến hành thêm nhiều chuyến du hành
quan trọng, mở rộng đất đai và hiểu biết thêm về địa lý, nhưng ấn tượng sâu sắc
đã
chuyển sang các phát minh công nghệ, các sự giải thích và lập luận khoa học, các
công trình tổng kết, mà kết quả là khởi đầu cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ
nhất, tạo tiền đề cho sự nhảy vọt vào thế kỉ XIX. Các dụng cụ nghiên cứu, đo
lường như phong vũ biểu, hàn thử biểu, dụng cụ chỉ giờ chính xác, kính viễn vọng,
bàn đạc, máy kinh vĩ và phương pháp tam giác
đạc giúp cho việc quan sát không
gian và vẽ bản đồ chính xác hơn.
Nhà thiên văn học Đức Kepler đưa ra lí thuyết về các quy luật chi phối sự vận
động của các hành tinh xung quanh Mặt Trời. Từ đó nhà bác học người Anh

Newton đã suy ngẫm và khám phá ra quy luật hấp dẫn trong vũ trụ. Quan điểm
của Emmanuel Kant coi “địa lý là sự mô tả theo không gian” đã là hòn đá tảng để
khoa học Địa lý trở thành một khoa học độc lập và
độc đáo mà các thế hệ về sau
sẽ đi sâu và cụ thể hóa. Nhà hàng hải kiêm Địa lý người Anh James Cook mở đầu
cho thời kì du hành khoa học, có mục đích và phương pháp rõ ràng chứ không
ngẫu hứng và nghiệp dư như các nhà du hành thời Cổ đại và Phục Hưng.
Trong thời kì này có lẽ Hà Lan là nước có nhiều thành tựu nghiên cứu địa lý
nhất với công trình “Địa lý đại cương” do Veranius công bố vào năm 1650. Trong
công trình này, Veranius lần đầu tiên giải thích bằng lí luận bản chất của địa lý,
qua việc xác định đối tượng của địa lý là “lớp vỏ Trái Đất” bao gồm lục địa, đại
dương và khí quyển, nghiên cứu trong khung cảnh toàn bộ Trái Đất và theo từng
vùng riêng biệt. Quan điểm này đã vượt quá tầm của thời đại và có ảnh hưởng rất
lớn đến những nhà địa lý của các nước. Tuy nhiên các bản đồ do Hà Lan sản xuất
vẫ
n còn chứa đựng nhiều điểm sai lầm do chủ yếu vì mục đích thương mại, cần in
nhanh, hấp dẫn, sao chép các bản đồ cũ. Trái lại, bản đồ của Pháp mang tính khoa
học để phục vụ cho quản lí đất đai, cho tác chiến nên cần chính xác và chi tiết.
5. Thời kì tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX)
Đặc điểm cơ bản của sự phát triển khoa học đị
a lý trong thế kỉ XIX là sự hình
thành một khoa học địa lý có tính chuyên nghiệp, có đào tạo và tổ chức nghiên
cứu rõ ràng và mang tính quốc tế, nhất là vào 30 năm cuối (1870 – 1900). Đặc
điểm thứ hai là sự phân ngành ngày càng mạnh khiến cho địa lý không phải là một
7
bộ môn thống nhất và trở thành một hệ thống nhiều bộ môn, làm cho địa lý thống
nhất cổ điển ngày càng mất đối tượng nghiên cứu và có nguy cơ tan rã.
Bộ môn địa lý được giảng dạy ngày càng nhiều tại các trường Đại học, vừa đào
tạo cán bộ nghiên cứu, vừa đào tạo giáo viên cho các trường phổ thông. Sự phát
triển giáo dục và đào tạo địa lý khởi đầu t

ừ Đức, sau đến Pháp và các nước châu
Âu khác. Trường Đại học nổi tiếng về địa lý là trường Đại học tổng hợp Berlin mà
ở đó Humboldt đã từng giảng dạy và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Các tạp chí địa
lý cũng xuất hiện và xuất bản hàng năm từ 1863.
Việc phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhất là kinh tế công
nghiệ
p, đòi hỏi sự nghiên cứu sâu và chính xác, do đó nhiều khoa học chuyên
ngành mới tách ra từ Địa lý. Đầu tiên là ngành Địa chất do nhu cầu tìm khoáng sản
và chất đốt. Sau đó là Khí hậu học, Thổ nhưỡng học, Thực vật học, Động vật học
do sự phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hóa và sản
xuất hàng hóa. Thủy văn học, Địa hình học, Trắc địa – Bản đồ thì giúp ích nhiều
cho xây dự
ng và giao thông liên lạc. Hải dương học phục vụ cho sự đi lại trên biển
và nghề cá cũng như việc đặt cáp xuyên đại dương. Và như vậy thì trong thế kỉ
XIX, thế mạnh thuộc về các khoa học địa lý tự nhiên, vì thế Địa lý học nói chung
được xếp vào khoa học tự nhiên. Địa lý kinh tế hình thành chậm hơn vào thập kỉ
cuối của thế kỉ XIX, kích thích việc ra đời của ngành này là sự
phân công lao động
theo lãnh thổ trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển của Thống
kê học và của học thuyết về sự định vị các ngành sản xuất.
Sự phân ngành của địa lý dần dần bộc lộ những nhược điểm, được kiểm
nghiệm sau những thất bại khi tiến hành các công trình phát triển kinh tế - xã hội
hoặc cải tạo tự nhiên ở
quy mô lớn. Do đó xuất hiện xu thế nghiên cứu địa lý tự
nhiên tổng hợp mà xuất phát điểm là các ngành nghiên cứu các thành phần tích
hợp, chịu ảnh hưởng đồng thời và tương hỗ của nhiều thành phần khác như thực
vật và thổ nhưỡng.
Bản đồ học cũng có những bước tiến quyết định trong thế kỉ XIX. Vào cuối thế
kỉ XIX hầu như không còn chỗ
nào trên Trái Đất mà người ta chưa hiểu biết.

Phương pháp đường bình độ đã thay thế cho những nét gạch khi thể hiện độ cao
địa hình. Các bản đồ không chỉ mô tả mà thường có nội dung khoa học, thể hiện
các mối quan hệ giữa các hiện tượng, có kết quả phân loại và phân vùng. Đức
cũng là nước xuất bản nhiều bản đồ và Atlat nhất và các nhà địa lý tiêu biểu cũng
là người Đức, trước h
ết là Humboldt và K.Ritter, tiếp sau là Pháp và Nga. Ở Nga,
do đất nước rộng lớn nên xu hướng địa lý tổng hợp sớm phát triển. Tựu chung lại
thì trong thế kỉ này có 3 khuynh hướng chính là nghiên cứu vùng, nghiên cứu quan
hệ con người – môi trường địa lý và khuynh hướng nghiên cứu cảnh quan. Ba
khuynh hướng này bổ sung cho nhau, mỗi khuynh hướng đi sâu vào một khía cạnh
của thực tại phân hóa không gian của tự nhiên và xã hội. Chúng phát huy tác dụng
mãi cho đến nửa đầu thế kỉ XX.

8
II. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa đầu thế kỷ XX:
Vào nửa đầu thế kỷ XX, khoa học Địa lý không được nổi bật trong xã hội như
ở thế kỷ XIX. Sau một thời kì phát triển nhanh, sôi nổi, đến đây địa lý hầu như
chững lại. Các nhà địa lý vẫn chỉ áp dụng những quan điểm, các thành tựu của 30
năm cuối thế kỷ XIX thể hiện trong 3 khuynh hướng chính, đồng thời lúng túng
trước sự thiếu thống nhất trong c
ơ sở lí luận cho khoa học Địa lý. Điểm nổi bật
của sự phát triển địa lý vào thời gian này là không được thúc đẩy bởi nhu cầu của
xã hội, mà chủ yếu là do những mâu thuẫn nội tại, do logic phát triển của bản thân
ngành khoa học này.
Khoa học Địa lý vẫn thiên về phía khoa học tự nhiên tuy có chú ý đến quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội cũng như con người. Trong khi đó vào đầu thế kỷ XX, các
khoa học xã hội lại phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng đa
dạng và thay đổi nhanh. Trong sự lúng túng chung ấy thì giải pháp tình thế là xây
dựng các trường phái quốc gia, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên và nhu cầu riêng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi nước mà tìm hướng đi cho thích hợp.

1. Trường phái địa lý Pháp:
Địa lý Pháp được hình thành vào loại sớm nhất, là trường phái gắn kết nh
ất vì
có một nền tảng quan điểm chung là quan điểm vùng, lấy sự phân hóa không gian,
sự phân hóa theo vùng làm nền tảng và mục tiêu nghiên cứu.
Người thầy của địa lý Pháp là Vidan de la Blaser, mà các công trình nghiên
cứu đã thu hút và tập hợp được rất nhiều môn đệ. Ý tưởng cơ bản là tập trung việc
nghiên cứu địa lý vào một vấn đề rõ ràng, đơn giản, không chịu ảnh hưởng của các
khoa học khác, đó là sự phân bố
không đồng đều của các cộng đồng người trên
Trái Đất, nghiên cứu trên góc độ quan hệ giữa con người và môi trường và sự
phân hóa vùng trên bề mặt Trái Đất.
Có một công trình địa lý tiêu biểu của trường phái Pháp mà các nhà địa lý cũng
như nhiều nhà nghiên cứu thuộc các khoa học khác ở Việt Nam hiểu biết khá rõ là
luận án Tiến sĩ đồ sộ với rất nhiều bản đồ và ảnh chụp có nhan đề “Người nông
dân châu thổ Bắc bộ” của Pierre Gourou. Cốt lõi của công trình là nghiên cứu lối
sống của con người nông dân qua cung cách sinh hoạt và sản xuất, phù hợp với
môi trường tự nhiên mà ông đã nghiên cứu rất kĩ.
Trường phái địa lý Pháp có sự thống nhất về quan điểm vùng trong mối quan
hệ con người – môi trường và về phương pháp nghiên cứu trên xuống – dưới lên,
theo cấu trúc ngang giữa các vùng lớn nhỏ, đồng thời chú trọng công tác thực đị
a
theo tỉ lệ lớn, nhưng trong nội bộ vẫn có những khuynh hướng khác nhau khiến
cho địa lý Pháp cũng có một sự phân hóa nào đó.
Nhờ quan điểm vùng mà nước Pháp có rất nhiều chuyên khảo và luận án đại
học hay trên đại học có giá trị, mô tả và phân tích mọi vùng trên đất nước, hoặc
vùng tự nhiên, hoặc vùng tự nhiên – lịch sử, hoặc vùng hành chính cho đến tận cấp
xã, được sử dụng rộng rãi để làm t
ư liệu giảng dạy, tư liệu tham khảo, hay làm cơ
9

sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ, cải tạo môi
trường tự nhiên.
2. Trường phái địa lý Đức:
Hình thành chậm hơn và kém đồng nhất hơn địa lý Pháp vì trong thế kỷ XIX,
địa lý Đức rất phát triển, có nhiều khuynh hướng và bộ môn khoa học khác nhau,
lại không có một ai uy tín vượt trội hẳn để thâu tóm tất cả trong một trường phái
với những lí luận và phương pháp chung. Tuy nhiên, trong số các bộ
môn thì cảnh
quan học là độc đáo hơn cả, có ảnh hưởng sâu rộng cả trong nước và ngoài nước,
cho nên có thể coi khuynh hướng cảnh quan là đặc trưng cho trường phái địa lý
Đức.
Trường phái cảnh quan Đức chủ yếu là nghiên cứu các cảnh quan văn hóa, các
cảnh quan trong sự tác động của con người, bởi lẽ, tại các vùng đồng bằng châu
Âu hầu như không còn cảnh quan thuần túy tự nhiên. Mặc dù vậy, đây vẫn là
tr
ường phái thiên về địa lý tự nhiên hơn trường phái vùng của Pháp. Ngoài ra, các
vùng của địa lý Pháp cũng chỉ tương đối, không có ranh giới thật rõ ràng, có thể
chồng gối lên nhau. Trái lại, cảnh quan địa lý Đức được vạch dứt khoát, xuất phát
từ 1 định đề là “cảnh quan biểu hiện tính thống nhất về mặt lãnh thổ của đối tượng
nghiên cứu”. Phương pháp tiếp cận cảnh quan của Đức rất chú ý đế
n lớp phủ thực
vật, cố tìm ra các dấu hiệu của thực bì tự nhiên, từ đó nhận xét về chiều hướng tác
động của con người lên thực bì tự nhiên. Trường phái cảnh quan Đức chú ý đến
cung cách mà một nhóm người nhập vào cảnh quan, để dấu ấn trên cảnh quan,
thông qua các biểu hiện vật chất cụ thể và rất chi tiết, cho nên không thể nghiên
cứu các vùng rộng lớn mà chỉ tập trung nghiên cứu các vùng r
ất nhỏ, rất đồng
nhất, có ranh giới rõ ràng.
Bên cạnh trường phái cảnh quan, địa lý Đức không có những trường phái
tương xứng khác nhưng lại có rất nhiều khuynh hướng tham gia vào sự tìm kiếm

những khái niệm mới, trên con đường phát triển địa lý học, đó là khuynh hướng
địa lý chính trị, địa – chính trị, địa lý văn hóa, địa lý kinh tế, sinh thái học, địa lý
vùng và lí thuyết định vị.
3. Trường phái địa lý Nga:
Trường phái
địa lý Nga cũng là 1 trường phái mạnh ngay từ cuối thế kỷ XIX
với khuynh hướng cảnh quan là chính và địa lý Nga cũng du nhập thuật ngữ
landschaft của trường phái địa lý Đức. Tuy nhiên trường phái Nga cũng có những
tính cách riêng, đó là sự phân biệt rõ địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế, đồng thời
thiên về địa lý tổng hợp, nghiên cứu các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên và các tổng
hợp thể lãnh thổ sản xuất, có ch
ỉ tiêu và ranh giới coi như rõ rệt. Đáng chú ý là địa
lý tự nhiên tổng hợp Nga – Liên Xô luôn luôn gắn bó với thực tiễn sản xuất, chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, đề xuất các cơ sở khoa học cho công việc chống hạn
và cải tạo các vùng thảo nguyên, cũng như khẩn hoang các vùng đất mới. Nhờ đó
đã phát hiện ra cấu trúc ngang của cảnh quan địa lý, bao gồm 2 đơn vị cấu tạo c
ơ
10
bản cấp dưới là dạng và diện địa lý. Địa lý tự nhiên tổng hợp Nga không những
chỉ đi sâu vào các đới cảnh quan mà còn nghiên cứu cả toàn Trái Đất, phát hiện và
định nghĩa rõ ràng lớp vỏ địa lý với ranh giới và những quy luật chung, nêu lên
tính thống nhất cũng như sự phân hóa của bề mặt Trái Đất.
Về mặt địa lý kinh tế, thì những người khởi xướng có tên tuổi là Baranxki và
Koloxovski. Baranxki tiếp tục hoàn thi
ện hướng phân vùng địa lý kinh tế của địa
lý Nga thế kỷ XIX và đóng góp to lớn vào việc phân vùng và kế hoạch hóa nền
kinh tế Liên Xô vào những năm trước Đại chiến thế giới lần II. Ông đã sớm đưa ra
cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc vào việc nghiên cứu vùng kinh tế từ quan điểm
không gian, chú ý đến các câu hỏi “ở đâu”, “từ đâu”, “đi đâu”. Ông đã chú ý đến
cả

địa lý khu vực (địa lý kinh tế quốc gia). Cuối cùng, ông đi vào phân công lao
động theo lãnh thổ và tổ chức xã hội theo lãnh thổ, coi như đó là cốt lõi của sự tạo
vùng và kiến thiết vùng. Có thể nói địa lý kinh tế Liên Xô phát triển gắn liền với
việc triển khai các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế quốc dân, do đó đã có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn to lớn.
4. Trường phái địa lý Mỹ:
Được hình thành rất muộ
n nhưng lại phát triển rất nhanh, chỉ mới bắt đầu từ
những năm đầu của thế kỉ XX mà đến những năm 30 – 40 đã nổi tiếng qua nhiều
công trình cơ bản và thực tiễn. Tuy về cơ bản địa lý Mỹ vẫn là địa lý vùng và cảnh
quan trên quan điểm địa lý thống nhất tự nhiên – con người, có chú ý đến vấn đề
bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng không thành 1 tr
ường phái thống nhất như ở
Pháp, hoặc quá đa dạng như Đức, mà phân thành 2 nhánh khác biệt khá rõ rệt là
nhánh Trung Tây và nhánh Berkeley.
− Nhánh Trung Tây: chú ý đến nguyên tắc phân vùng và mô tả vùng, đến vấn đề
sử dụng đất đai, đến địa lý kinh tế và địa lý chính trị. Khác với Tây Âu thường
dựa vào lối sống để giải thích sự đa dạng vùng, các nhà địa lý – địa chất Trung
Tây đi theo con đường nghiên cứu ảnh hưởng của tự
nhiên.
− Nhánh Berkeley: tương phản rõ rệt với nhánh Trung Tây. Họ không quan tâm
đến các vấn đề hiện đại, mà say mê đi sâu vào các nền văn hóa cổ, thí dụ nền
văn hóa của người da đỏ, trên cơ sở nhân chủng học và dân tộc học.
5. Địa lý các nước khác:
Ngoài các nước trên thì không có nước nào có trường phái địa lý rõ rệt. Đáng
kể còn có nước Anh. Địa lý Anh chọn địa lý Pháp làm mẫu, nhưng các nhà địa lý
Anh không phải là bắt chước nguyên si địa lý Pháp. Tuy h
ọ không có gì độc đáo
hơn nhưng nét Anh của họ là ở chỗ họ đặc biệt quan tâm đến chất lượng điều tra,
thường rất chi tiết, tỉ mỉ, đến tính nghiêm túc chặt chẽ của phương pháp luận và

phương pháp. Ngoài ra họ còn 2 thế mạnh liên quan đến vị trí bá chủ toàn cầu lúc
đó của họ, nhất là bá chủ trên biển, đó là môn địa lý chính trị, và môn địa lý lịch
sử.
11

Kết luận: Giai đoạn này là thời kì đầy biến động của chủ nghĩa đế quốc.
Trong bối cảnh đó, khoa học địa lý cũng cố vươn lên để đáp ứng nhu cầu thực
tiễn sống động, phát triển nhiều trường phái quốc gia, nhiều bộ môn khoa học
mới, đồng thời ngày càng mang tính thống nhất, nghiên cứu tổng hợp môi
trường – con người, nhưng còn thiên về
địa lý tự nhiên, hoặc tách biệt các tổng
hợp thể lãnh thổ tự nhiên và tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất. Có nhiều trường
phái mạnh nhưng các trường phái này không bền vững và có xu thế thống nhất
lại phương pháp luận và phương pháp chung, một mặt do sức ép từ bên trong
của nhu cầu phải thống nhất của khoa học địa lý, trên cơ sở những lí luận có
đủ sức mạnh để
tổng hợp và liên kết các khuynh hướng khác nhau, mặt khác
còn do sức ép của sự phát triển kinh tế - xã hội thế giới, đã làm cho nhiều khái
niệm khoa học và phương pháp tiếp cận được sử dụng từ trước đến nay đã
nhanh chóng bị lỗi thời, nhất là sau Đại chiến thế giới II.
III. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa cuối thế kỉ XX:

Khoa học địa lý có 1 sự thay đổi cơ bản, lớn lao, với bước nhảy vọt vào 20
năm sau cùng. Bản sắc nghiên cứu tổng hợp lãnh thổ được khẳng định và theo tính
chất nhất thể hóa, nghĩa là đối tượng của địa lý học là tổng hợp thể lãnh thổ thống
nhất tự nhiên – kinh tế - xã hội – nhân văn. Hơn nữa địa lý học từ 1 khoa học thiên
về khoa họ
c tự nhiên trong nhiều thế kỷ đã trở thành 1 khoa học thiên về khoa học
xã hội. Con người không những được coi như 1 hợp phần nội tại của tổng hợp thể
lãnh thổ thống nhất, mà còn như 1 hợp phần năng động và chủ động nhất. Vì thế

khi nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ thống nhất để phát triển bền vững, thì yếu tố
quản lí và t
ổ chức lãnh thổ 1 cách chủ động và khoa học của con người đã được đề
cao. Sự biến đổi ấy đã khiến cho địa lý hiện đại thâm nhập vào mọi người, được
mọi người cần đến, từ những nhà chiến lược toàn cầu, khu vực, quốc gia, địa
phương cho tới 1 nhà doanh nghiệp hoặc 1 người muốn đi du lịch hay nghỉ ngơi,
giải trí.
1. Sự hi
ện đại hóa khoa học địa lý:
Có thể hình dung các quan điểm và phương pháp tiếp cận cơ bản chung nhất
của địa lý học hiện đại vào nửa cuối thế kỷ XX như sau:
Do hoàn cảnh giao lưu thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện xu thế toàn cầu hóa,
với 1 thế giới đã trở thành một hệ thống thống nhất trong sự đa dạng và chứa đự
ng
nhiều mâu thuẫn, ngành địa lý thế giới có xu hướng xem xét lại toàn ngành để tập
trung trí tuệ và sức lực nhằm nâng cao vai trò và vị thế của ngành trong việc giải
quyết những vấn đề bức xúc của xã hội loài người hiện nay.
Hiện nay, xu hướng chung là tập trung các khoa học bộ phận lại dưới ngọn cờ
của 1 khoa học tổng hợp – động lực, nghiên cứu các hệ thống không gian tự nhiên
– kinh t
ế - xã hội – nhân văn thống nhất hay hoàn chỉnh, trong lịch sử phát sinh –
phát triển, trong sự biến động, để đánh giá đúng hiện trạng và dự báo tương lai.
Khoa học địa lý là khoa học nằm ở giao diện giữa các khoa học tự nhiên và khoa
12
học xã hội, do nhiệm vụ là nghiên cứu quan hệ giữa tự nhiên và con người, giữa
xã hội và lãnh thổ, vì thế được đặt ở phía nào cũng chỉ là quy ước, nhưng hiện nay
xu thế xếp vào khoa học xã hội thắng thế, vì đặt như vậy sẽ làm cho khoa học địa
lý đóng góp tích cực hơn vào các quyết định và các hành động của các cơ quan
lãnh đạo Nhà Nước, địa phương, của các nhà quản lí xí nghiệp, doanh nghi
ệp,

khiến cho khoa học địa lý trở thành 1 khoa học hành động và năng động trong 1 xã
hội công nghiệp hóa, đô thị hóa, tin học hóa sôi động.
Đối tượng nghiên cứu của địa lý là chiều không gian của các hiện tượng và sự
vật, là tổng hợp thể không gian mà các hiện tượng và sự vật tồn tại trong đó.
Nhiệm vụ của địa lý là định vị, xác định vị trí và vị thế của các hiện tượ
ng và sự
vật, là đánh giá các tổng hợp thể không gian như các điểm, các đường, các vùng,
các trường, các mạng lưới và đưa ra các mô hình để tổ chức không gian lãnh thổ,
sao cho các hoạt động kinh tế - xã hội của con người diễn ra trên đó đạt được hiệu
quả tốt nhất. Quan điểm nghiên cứu đồng thời nhiều vùng đã được thống nhất từ
lâu, chỉ tồn tại 1 vấn đề
là chưa có 1 hệ thống phân vị chung cho toàn ngành.
Khi nghiên cứu chiều không gian thì xuất phát điểm là việc coi không gian trên
Trái Đất là không gian của con người, do con người tạo ra, sản xuất ra, vì lợi ích
của con người. Xuất phát điểm đó đã xóa bỏ quyết định luận địa lý xưa kia, coi tự
nhiên hoàn toàn chi phối con người. Đặt con người vào trung tâm của tổng hợp thể
không gian địa lý thống nhất, hoàn chỉnh, là đặt con người vào vị trí làm chủ
môi
trường tự nhiên, sử dụng môi trường tự nhiên và khai thác nó tùy theo mục đích và
khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở con người phải chăm sóc và
bảo vệ môi trường tự nhiên, cho mình và cho con cái mình, bảo vệ ngôi nhà của
mình và ngôi nhà chung của nhân loại. Với nhận thức như vậy, địa lý có thể đóng
vai trò rất tích cực trong việc tổ chức không gian nhân tác hay nhân sinh và trong
việc bảo vệ và cải tạ
o môi trường, chống ô nhiễm môi trường, là hai hoạt động
kinh tế - xã hội gắn với không gian một cách trực tiếp nhất. Đó là 2 công việc có
tính tổng hợp cao và rất phức tạp, nhưng phù hợp với đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu đặc thù của nhà địa lý đã được đào tạo để làm.
Phương pháp tiếp cận hiện đại là phương pháp tiếp cận hệ thống, bằng các mô
hình định lượng chính xác và công cụ hiện đại là hệ thông tin địa lý (GIS) với sự

trợ giúp của tin học và máy tính điện tử mạnh, của mạng lưới viễn thông toàn cầu
và của các kết quả viễn thám bằng máy bay và vệ tinh. Phương pháp tiếp cận hệ
thống thực chất là 1 phương pháp logic, 1 phương pháp luận, để nắm được các hệ
thống, nhằm mục đích điều khiển h
ệ thống sao cho hệ thống vận hành tốt, đạt
được mục đích mong muốn. Nó được trợ giúp bởi nhiều phương pháp khác. Vì hệ
thống vô cùng phức tạp, nhiều hợp phần, nhiều bộ phận, nhiều quan hệ, nhiều
dòng vào và dòng ra, cho nên muốn tiếp cận hệ thống thì phải dùng phương pháp
mô hình hóa. Mô hình là sản phẩm của trí tuệ, đã khái quát hóa và đơn giản hóa
thực tế, để có thể phát hiện ra bả
n chất của hiện tượng, sự vật hay vấn đề đang xét.
Mô hình phải hợp lí, nếu quá đơn giản hoặc quá phức tạp đều sẽ không đạt kết
quả. Hệ thông tin địa lý được coi như 1 công cụ đắc lực cho việc phân tích hệ
13
thống không gian, vì có sự trợ giúp của máy tính điện tử và các phần mềm tin học,
cho phép vẽ bản đồ một cách tự động, nhanh chóng và đẹp, nhất là cho phép phân
tích cấu trúc ngang với các đặc tính không gian và quan hệ không gian, cũng như
tính toán được các mối quan hệ cấu trúc thẳng đứng. Tuy nhiên xây dựng 1 hệ
thông tin địa lý rất tốn kém và công phu, do đó chỉ nên xây dựng cho những dự án
tổ chức và quản lí lãnh thổ phức tạp mà làm theo phương pháp thông thườ
ng là
không thể được hoặc khó và lâu.
2. Các phân hệ của hệ thống không gian địa lý hoàn chỉnh:
a. Phân hệ tự nhiên:
Điểm xuất phát là phân hệ tự nhiên vì đó là giá đỡ, là cơ sở vật chất và năng
lượng của mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Không đi sâu vào phương pháp truyền
thống là nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, ở đây chỉ nhấn mạnh thêm vào sự
nghiên cứu các dòng vật ch
ất và năng lượng, là bản chất của các mối quan hệ
tương tác trong môi trường tự nhiên, trên quan điểm địa – sinh thái và địa – hóa.

Theo các quan điểm này thì con người là 1 bậc trong tháp địa – sinh thái, lấy
thức ăn từ thế giới thực vật và động vật. Cốt lõi của việc nghiên cứu là tìm hiểu
dòng năng lượng đi từ bức xạ Mặt Trời qua thực vật đến động vật ă
n cỏ rồi động
vật ăn thịt cùng với các chu trình sinh – địa – hóa của các yếu tố hóa học cần thiết
cho sự sống, đi từ vô cơ sang hữu cơ rồi lại trở về vô cơ để xoay vòng mãi. Con
người tham gia vào dòng năng lượng và chu trình vật chất ấy nhưng đôi lúc lại làm
nhiễu loạn chúng, gây nên nhiều tác hại. Do đó, tìm hiểu sự hoạt động của hệ địa –
sinh thái và tác động qua lại giữa hệ với con người, chính là nhằm mục đích điều
chỉnh các quan hệ giữa xã hội và môi trường tự nhiên sao cho hợp lí, để giữ cho sự
phát triển của xã hội được bền vững, không hủy hoại môi trường để rồi tự hủy hoại
mình.
Nghiên cứu dòng năng lượng cho phép chúng ta xác định được năng suất và
sản lượng của các hệ địa – sinh thái tự
nhiên để vận dụng vào sự phát triển năng
suất và sản lượng cây trồng và vật nuôi. Các hệ địa – sinh thái trồng trọt và chăn
nuôi có năng suất thấp hơn hệ địa – sinh thái tự nhiên, do thường là độc canh,
không tận dụng hết tiềm năng tự nhiên, cho nên muốn nâng cao năng suất hệ địa –
sinh thái nông nghiệp thì con người phải đầu tư thêm năng lượng hóa thạch và hóa
chất. Bên cạnh quan điể
m địa – sinh thái còn phải sử dụng cả quan điểm và
phương pháp địa – hóa học để nghiên cứu môi trường tự nhiên trong hệ thống
không gian địa lý thống nhất, hoàn chỉnh.
Cuối cùng phải xét quan hệ giữa con người và môi trường, thông qua tác động
của con người vào hệ địa – sinh thái và phản ứng trở lại của hệ. Có thể phân biệt ra
2 quá trình quan hệ là quá trình khai thác các hệ địa – sinh thái tự nhiên và quá
trình trồng trọt, chăn nuôi, sả
n xuất công nghiệp hay làm dịch vụ. Khi khai thác tự
nhiên thì tốt nhất nên tuân thủ quy luật phát triển tự nhiên của hệ, là tiến tới giai
đoạn cao đỉnh qua hàng loạt diễn thế. Chiến lược khai thác các hệ tự nhiên là

14
không được làm cản trở quá trình phát triển của tự nhiên, chỉ nên khai thác tổng
hợp các dạng tài nguyên trong quần xã cao đỉnh và sao cho tất cả các sản phẩm lấy
ra không quá khả năng tái sinh của quần xã. Đối với các hệ địa – sinh thái nông
nghiệp nhân sinh thì phải cân nhắc cẩn thận mỗi khi nhập nội một giống mới hay
sử dụng một loại phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu nào đó, sao cho không hủy
diệt các loài sinh vậ
t cộng sinh có ích, không làm hư hại môi trường hóa – lí,
không làm xáo trộn quan hệ giữa các loài và tập tính thích nghi với môi trường của
các loài. Đối với các hoạt động công nghiệp và dịch vụ thì quan trọng nhất là
không làm nhiễu loạn các chu trình sinh – địa – hóa, đồng thời đừng biến quá trình
vòng thành quá trình không vòng mà phải cố gắng biến các quá trình không vòng
thành quá trình vòng nhằm đảm bảo quá trình tái sử dụng.
b. Phân hệ xã hội:
Khi khai thác tự nhiên để sản xuất và sinh hoạt, con người hoạt động trong mộ
t
cộng đồng, một xã hội có tổ chức, cho nên phân hệ xã hội cần phải xét tiếp ngay
sau phân hệ tự nhiên. Khi nghiên cứu các vấn đề xã hội trên quan điểm địa lý
thống nhất, thì điều chúng ta quan tâm không phải là nội dung chuyên môn của
các khoa học xã hội mà chỉ là sự phân bố không gian của các hoạt động xã hội và
ảnh hưởng của chúng trong việc hình thành nên tính đặc thù của địa phương,
thông qua các mối quan hệ tương tác gi
ữa chúng với nhau và nhất là giữa chúng
và môi trường tự nhiên. Hoạt động của xã hội cũng rất phong phú và đa dạng, nếu
hiểu rộng thì bao gồm cả kinh tế, nhưng ở đây phân hệ xã hội chỉ gồm có các hoạt
động chính trị, xã hội, văn hóa và sự định cư cùng với các đặc điểm của cư dân.
Các vấn đề xã hội cần quan tâm là các quyền và các hình thức sở hữu và s

dụng đất đai, nội dung cơ bản của việc quản lí hệ thống lãnh thổ, rồi đến sự chênh
lệch giàu nghèo và sự đấu tranh cho công bằng xã hội. Lĩnh vực xã hội phong phú

nhất khi nghiên cứu hệ thống không gian địa lý là các hoạt động văn hóa. Vì nội
dung nghiên cứu của địa lý là xác định các mô hình không gian của tất cả các hiện
tượng và sự vật trên Trái Đất, cho nên địa lý văn hóa quan tâm đến vi
ệc giải thích
sự phân bố không gian của các hiện tượng văn hóa, sự giống nhau và khác nhau về
văn hóa giữa nơi này với nơi khác, sự hình thành nên những vùng văn hóa trong
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người, đồng
thời cũng “bản đồ hóa” các kết quả nghiên cứu để trình bày với mọi người. Văn
hóa cũng có sự biến đổi theo thời gian, cho nên nghiên cứu
địa lý văn hóa cũng
phải sử dụng cả quan điểm lịch sử. Việc giải thích các hiện tượng văn hóa và vùng
văn hóa dựa vào quan hệ giữa con người và tự nhiên được gọi là văn hóa – sinh
thái. Cũng có nơi thấy ảnh hưởng của tự nhiên là mạnh mẽ, rõ ràng, thường đối
với những nét văn hóa cổ, nhưng càng ngày, ảnh hưởng của con người đến tự
nhiên càng trở thành nhân t
ố quyết định thì nghiên cứu địa lý văn hóa chủ yếu là
phát hiện các dấu ấn của con người trên tự nhiên.
Một không gian tự nhiên được con người biến đổi thông qua các hoạt động văn
hóa cả vật chất lẫn tinh thần của mình, được gọi là cảnh quan văn hóa. Cảnh quan
15
văn hóa là tấm gương phản ánh nền văn hóa đã tạo ra nó, tức là có thể nghiên cứu
văn hóa bằng khảo sát cảnh quan, trước hết về 3 phương diện: hình thái quần cư,
hình thái sử dụng đất đai và hình thái kiến trúc. Chính khái niệm cảnh quan văn
hóa đã mở ra khuynh hướng địa lý thống nhất trong đó hướng nghiên cứu các đô
thị ngày càng phát triển.
IV. Những vấn đề của Địa lý họ
c hiện đại:
1. Định nghĩa:
Địa lý học là 1 hệ thống các khoa học tự nhiên và xã hội, nghiên cứu các thể
tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, các thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ và các thành

phần của chúng (Đại từ điển bách khoa toàn thư Xô Viết).
2. Đối tượng nghiên cứu:
Có 3 đối tượng nghiên cứu chính của Địa lý tự nhiên: lớp vỏ Địa lý, thể tổng
hợp lãnh thổ và cảnh quan. Ngoài ra là môi trường
Địa lý.
a. Lớp vỏ địa lý:
Có nhiều khái niệm và tên gọi khác nhau như lớp vỏ cảnh quan, địa quyển
ngoài,… Giới hạn của lớp vỏ địa lý khoảng 40 km.
Là lớp vỏ ngoài của Trái Đất bao gồm các lớp vỏ bộ phận như khí quyển, thạch
quyển, thủy quyển, thổ nhưỡng quyển và sinh quyển xâm nhập và tác động lẫn
nhau. Hệ thống vật chất trong lớp vỏ
địa lý khác với lớp vỏ thành phần thuần túy
vì nó có tính phức tạp trong thành phần cấu tạo và trong cấu trúc. Trong 5 thành
phần này thì thạch quyển là thành phần cổ nhất và bảo thủ nhất, đồng thời tạo nên
bề mặt địa hình Trái Đất. Thành phần trẻ nhất và năng động nhất là sinh quyển.
Năm thành phần này vừa kết hợp với nhau theo cả cấu trúc đứng và cấu trúc
ngang, trong đó quan trọng là cấ
u trúc ngang, thể hiện mối quan hệ giữa các vùng
lãnh thổ.
b. Các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên:
Là sự kết hợp có quy luật của các thành phần địa lý như địa hình, khí hậu,
nước, đất, sinh vật nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất phức tạp và tạo
thành 1 hệ thống không thể chia cắt được.
c. Các xứ địa lý:
Là yếu tố phi địa đới, là đơn vị
tự nhiên tương đối đồng nhất với nhau về đơn
vị địa chất và đại địa hình, có kích thước lớn từ hàng trăm nghìn đến hàng triệu
km
2
. Mỗi xứ địa lý được phân biệt với nhau dựa vào đại địa hình. Sau nữa do quan

hệ tương hỗ giữa các hợp phần mà xứ cũng có 1 đại khí hậu riêng, chi phối bởi vị
trí của xứ đối với đại dương và đối với hoàn lưu khí quyển, bởi độ cao tuyệt đối và
hướng của địa hình núi.
d. Vòng đai địa lý:
16
Là khái niệm trừu tượng, được thống nhất từ khi xác định được độ nghiêng của
trục Trái Đất. Bao gồm vòng nội chí tuyến, vòng ngoại chí tuyến và vòng cực.
e. Đới địa lý:
Là đới tổng hợp dựa trên sự phân tích quan hệ giữa tất cả các hợp phần tự
nhiên và có diện tích rộng lớn, khoảng từ hàng trăm nghìn đến hàng triệu km
2
,
theo chiều Bắc – Nam có thể tới 5 – 10
0
vĩ tuyến, trải dài qua cả các xứ đồng bằng
cũng như xứ núi. Các đới chuyển tiếp rất từ từ không như các xứ có ranh giới kiến
tạo – địa hình khá rõ.
f. Miền địa lý:
Là đơn vị khá lớn đã có sự đồng nhất về cả hai phương diện địa đới và phi địa
đới, tại các xứ đồng bằng, thì miền là một khúc đới, còn tại các xứ núi thì mi
ền là
một tập hợp các đai cao đặc trưng cho đới, diện tích khoảng hàng chục đến hàng
trăm nghìn km
2
. Vì miền đồng thời là 1 bộ phận của xứ và của đới đều rất rộng
lớn, cho nên trong miền vẫn có sự phân hóa địa đới chi tiết thành á đới và sự phân
hóa phi địa đới chi tiết thành các khu vực có tuổi và cấu trúc địa chất – địa hình
khác nhau, có độ cao và mức độ chia cắt khác nhau, có địa hình chạm trổ - hình
thái khác nhau, do đó có thể chia miền thành các khu.
g. Khu địa lý:

Là sự phân hóa lãnh thổ của miền nên có tính đồng nhất cao h
ơn nữa, diện tích
cũng nhỏ hơn, khoảng hàng nghìn đến hàng chục nghìn km
2
. Trong khu đồng bằng
thì tiến hành xác định ngay cấp cảnh quan, còn tại 1 khu núi thì phải qua khâu
phân chia ra các đai cao.
h. Đai cao địa lý:
Chỉ tồn tại ở miền núi, được phân chia dựa vào cân bằng bức xạ hay tổng nhiệt
độ và tương quan nhiệt - ẩm, đồng thời với việc phân tích các điều kiện nham
thạch – địa hình cụ thể của khu núi.
i. Cảnh quan địa lý:
Là đơn vị có vị trí và ý nghĩa rất đặ
c biệt trong hệ thống phân vị địa lý tự
nhiên. Đặc trưng quan trọng nhất của cảnh quan là sự đồng nhất tuyệt đối về cả hai
phương diện địa đới và phi địa đới, nghĩa là trong cảnh không còn sự phân hóa do
sự phân bố không đồng đều của tia bức xạ Mặt Trời.
Định nghĩa của cảnh quan địa lý: cảnh quan địa lý là một tổng hợp thể lãnh
th
ổ, được phân hóa ra trong một đới vĩ độ ở đồng bằng hoặc một đai cao trên núi,
có một cấu trúc hợp phần đồng nhất về nền địa chất, về kiểu địa hình, kiểu khí
hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng, đại tổ hợp thực vật và một cấu trúc
không gian bao gồm một tập hợp có quy luật của nh
ững dạng và diện địa lý.
j. Dạng địa lý:
17
Dạng địa lý là một tập hợp có quy luật của các diện địa lý phát triển trên một
dạng trung địa hình lồi, lõm hoặc bằng phẳng theo phát sinh, với những điều kiện
di chuyển nước và vật chất đặc trưng, có tiểu khí hậu, tiểu tổ hợp thổ nhưỡng và
tiểu tổ hợp thực vật đồng nhất.

k. Diện địa lý:
Là đơn vị nhỏ nhấ
t, đồng nhất nhất, không thể phân chia được nữa của môi
trường địa lý tự nhiên, hình thành tại 1 địa thế đồng nhất về nham thạch trên mặt,
về vi khí hậu, về mực nước ngầm, về biến chủng thổ nhưỡng và quần hợp thực
vật.
18
CHƯƠNG 2. CÁC QUY LUẬT ĐỊA LÝ
I. Khái niệm về quy luật địa lý:

Qui luật địa lý là mối liên hệ bên trong cơ bản của các hiện tượng địa lý, được
chi phối bởi sự phát triển tất yếu của những hiện tượng ấy.
II. Quy luật về tính thống nhất và hoàn chỉnh của LLE:

1. Định nghĩa:
Là quy luật về mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các hợp phần và mỗi bộ
phận lãnh thổ của LLE.
2. Nguyên nhân:
Các hệ thống trong LLE tuy rất đa dạng, nhưng vẫn có chung một số dấu hiệu
nhất định sau đây:
a) Các hệ thống thường bao gồm nhiều hợp phần và bộ phận cấu tạo.
Các hợp phần cấu tạo là các hợp ph
ần vật chất và năng lượng, còn các bộ phận
cấu tạo là các đơn vị lớn, nhỏ nằm trong hệ thống.
Thí dụ: Nếu ta coi một quả đồi là một hệ thống địa – sinh thái cấp cảnh dạng
(dạng địa lí) thì các hợp phần cấu tạo của nó là đá, đất, nước, khí hậu, thực vật,
động vật, vi sinh vật; còn các bộ phận cấu tạo là các hệ th
ống cấp thấp hơn; cấp
cảnh diện (diện địa lí) như đỉnh đồi, sườn đồi, chân đồi. Mỗi bộ phận của hệ thống
vẫn có đá, đất, nước, khí hậu và sinh vật riêng của mình.

b) Giữa các hợp phần, các bộ phận với nhau đều có mối quan hệ qua lại
mật thiết. Đồng thời tất cả mọi hợp phần và bộ ph
ận của lớp vỏ địa lý đều chịu sự
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nội lực và ngoại lực. Chính thông qua các
mối quan hệ tương tác này mà hệ thống không phải là con số cộng của các hợp
phần và các bộ phận. Sự phối hợp hoạt động của tất cả các hợp phần biến chúng
thành một hệ thống vật liệu thống nhấ
t, trong đó hợp phần này phụ thuộc vào hợp
phần khác, hợp phần này ảnh hưởng tới hợp phần khác. Tính hoàn chỉnh của hệ
thống này to lớn và mang đặc tính chung đến mức mà nếu trong tổng thể địa lí hay
trong LLE chỉ một khâu nào đó thay đổi thì tất cả các khâu còn lại cũng thay đổi
theo. LLE về toàn thể là một hệ thống vừa hoàn chỉnh vừa không cân bằng.
c) Giữa hệ thống và môi trườ
ng bên ngoài cũng có sự thống nhất với nhau.
Môi trường ở đây không chỉ tất cả những gì bên ngoài hệ thống, có thể tác động
đến hệ thống và đồng thời chịu tác động ngược lại của hệ thống. Bởi vì giữa hệ
thống và môi trường bên ngoài cũng có sự thống nhất nên khi tìm hiểu, nghiên cứu
một hệ thống phải khép kín nó lại trong một ranh giới nhất định. N
ếu như không
xác định đúng phạm vi của hệ thống sẽ không tìm ra được “cửa vào” và “cửa ra”
các dòng quan hệ của hệ thống, từ đó ta không thể hiểu được sự hoạt động của hệ
thống, không điều khiển được hệ thống. Sự hoạt động của hệ thống bao giờ cũng
phụ thuộc vào ngoại cảnh. Vì vậy phải đặt hệ
thống vào môi trường của nó. Một
19
khi hoàn cảnh bên ngoài của hệ thống cũng được xác định cụ thể phạm vi, thì ta có
một hệ thống lớn.
3. Ý nghĩa:
a. Ý nghĩa khoa học.
− Củng cố quan điểm vững chắc về sự tồn tại của LLE

− Trong sự phát triển của khoa học, con người là thực thể tự nhiên, chính con
người có tác động mạnh đến tự nhiên.
b. Ý nghĩa thực tiễn.

Hoạt động kinh tế của xã hội loài người chẳng qua là sự can thiệp vào bước
tiến triển xác định của các quá trình tự nhiên trong vỏ cảnh quan. Việc thay thế
thực vật hoang dại bằng thực vật gieo trồng, việc xây dựng các đập trên sông,
việc dẫn nước tới các miền hạn hán, việc làm khô các đầm lầy, … nhất định sẽ
ảnh hưởng tới toàn bộ tổng thể tự nhiên c
ủa cảnh quan và trải qua một thời
gian có thể dẫn tới những kết quả bất ngờ, trong đó có cả những kết quả trái
với ý muốn của con người. Nguồn kích thích đầu tiên khơi ra bởi con người,
giống như một loại “máy cảm ứng”, đã gây ra trong tự nhiên một “phản ứng
dây chuyền” độc đáo nghĩa là hàng loạt những thay đổi tự động. Phản ứ
ng này
trong hàng loạt trường hợp có thể tự tăng lên: thí dụ, đường cày của con người
cực kì nhỏ hơn rãnh xâm thực nhưng nó đã là điểm xuất phát của rãnh xâm
thực.
− Qui luật này báo trước sự cần thiết trước hết phải nghiên cứu tỉ mỉ cấu trúc địa
lí của bất kì lãnh thổ nào muốn đem sử dụng. Theo cách diễn đạt của Armand
(1966), trong tự nhiên tồn t
ại không chỉ đơn thuần một loạt các nguyên nhân và
hậu quả mà còn cả một bức thêu về các mối liên hệ qua lại. Chỉ có nhận thức
được cấu trúc “dạng bức thêu” này mới có thể phán đoán được rằng mối tương
quan giữa các hợp phần của tổng thể địa lí thay đổi theo phương hướng nào
dưới tác dụng của các biện pháp kinh tế.
− Quy luật này sẽ giúp cho con người sử
dụng tự nhiên một cách hợp lí hơn và
có thể tránh được những tai biến không đáng có. Ví dụ ở miền đất thấp Tây
Sibir trước đây có kế hoạch xây dựng các trạm thủy điện, nhưng sau khi tham

khảo ý kiến của các nhà địa lí thì những đề án như vậy đã phải bỏ đi, bởi vì
việc thực hiện các đề án đó sẽ làm cho miền đất thấp này trở thành
ẩm ướt quá
mức và sẽ gây cản trở rất nhiều đến việc sử dụng toàn diện tài nguyên tự nhiên
của miền này.
Nói một cách giản đơn, việc cải tạo tự nhiên hợp lí không thể không tính đến
qui luật về tính hoàn chỉnh của vỏ cảnh quan. Sự can thiệp của những người
không hiểu biết vào lĩnh vực các mối liên hệ nhân quả tinh tế tự nhiên chẳng khác
gì sự
can thiệp của những con ong vào mạng nhện (Armand, 1966)

20
III. Quy luật tuần hoàn vật chất và năng lượng:
1. Khái niệm:
Trong LLE vòng tuần hoàn không đóng kín, giai đoạn cuối cùng của vòng tuần
hoàn không giống hệt như giai đoạn đầu của nó mà phát triển ở một trình độ cao
hơn. Sự tuần hoàn của vật chất trong bất kì hệ thống nào của LLE đôi khi cũng
mang tính chất một sự phân công lao động độc đáo giữa các hệ thống cấu thành.
Vật chất gia nhập vào vòng tuần hoàn thường được t
ổ chức lại trong các khâu
trung gian và thay đổi trạng thái vật lí và hóa học ở đó. Đồng thời sự tác động qua
lại giữa các vật chất cũng chính là sự trao đổi giữa các hợp phần và bộ phận cấu
tạo.
2. Cơ sở của sự tuần hoàn:
Cơ sở sâu xa của mọi quá trình tuần hoàn trong tự nhiên là sự di chuyển và sự
phân bố lại của các yếu tố hóa học. Khả
năng di chuyển của các yếu tố đó phụ
thuộc vào sự di động của chúng.
a. Cơ sở tuần hoàn trong thủy quyển.
(i) Trong quá trình tuần hoàn trên qui mô toàn LLE, nước tự do có thể gia nhập

vào thạch quyển và tạo nên những tích tụ nước dưới dạng khác nhau ở trên bề mặt
cũng như ở bên trong LLE. Khi nước thấm xuống dưới sâu, nó thay đổi thành
phần và tính chất của mình và dần dần thu nhận được nh
ững tính năng của một
loại axit mạnh.
(ii) Do tác động cơ giới của mình, nước có tác dụng cải tạo bề mặt rắn của LLE
thông qua các quá trình phong hoá vật lí và bóc mòn. Mặt khác của quá trình ấy là
sự bồi tụ vật liệu vụn ở những chỗ thấp của bề mặt đất và sự tích tụ những hệ tầng
dầy phù sa bở rời với các thành phần khác nhau như d
ăm, cuội, cát, sét…
(iii) Trong thủy quyển, có đến 96,5% được cấu tạo bởi 2 nguyên tố hóa học
ôxy và hyđrô, ngoài ra còn rất nhiều các nguyên tố khác. Do đó thành phần và tính
chất của nước trong thủy quyển bị chi phối bởi các mối liên hệ đa dạng của nó với
các hợp phần khác của LLE.
(iv) Đại dương thế giới được gắn liền với sự trao đổi phức tạp nhiệ
t, khí và
nước, cũng như sự trao đổi muối. Các loại khí thâm nhập vào thủy quyển nhờ
những tính chất hấp thụ của nước và được giữ lại trong nước dưới trạng thái bị hòa
tan. Ôxy hòa tan được sử dụng bởi sinh vật nước để hô hấp và tạo điều kiện cho
những phản ứng ôxy hóa. Khí CO
2
tham gia vào phản ứng với các bazơ để hình
thành các loại cacbonat và bicacbonat được sử dụng tích cực bởi sinh vật biển để
xây dựng bộ xương, nhưng sau khi chết chúng bị lắng đọng ở đáy.
(v) Dòng chảy sông ngòi hàng năm mang đi từ bề mặt thạch quyển vào đại
dương thế giới từ 13 – 50 tỷ tấn phần tử lơ lửng và từ 2,5 – 5,5 tỷ tấn muối bị hòa
tan (A.G. Isachenko, 1985). Như vậy, sự hình thành trầm tích đáy đại dương gắn
liền với quá trình bóc mòn bề mặt địa hình của thạch quyển.
21
(vi) Sự bốc hơi của nước trên bề mặt đại dương, sự ngưng đọng của hơi nước

trong khí quyển và sự rơi của nước mưa trên bề mặt đại dương tạo thành vòng tuần
hoàn nhỏ. Nhưng khi nước được các dòng không khí chuyển lên đất nổi, sự tuần
hoàn của nước trở thành phức tạp hơn. Một phần nước mưa rơi trên bề mặ
t đất nổi,
bị bốc hơi và quay trở lại khí quyển, phần khác theo các con đường ở trên bề mặt
đất và ở dưới bề mặt đất chảy vào những chỗ thấp trũng của địa hình, cung cấp
nước cho các con sông và các bồn nước tụ. Quá trình bốc hơi của nước và rơi
xuống thành mưa trên đất nổi có thể lặp lại nhiều lần nhưng cuối cùng hơi nướ
c từ
ngoài đại dương được chuyển vào đất nổi bởi các dòng không khí, quay trở lại đại
dương bằng các sông ngòi và các dòng ngầm đã hoàn thành vòng tuần hoàn lớn
của mình (S.V.Kalesnik, 1978).
(vii) Trong sự tuần hoàn chung của hơi nước, nước của khí quyển tỏ ra rất di
động. Lượng hơi nước trung bình trong khí quyển vào khoảng gần 13.000 km
3

nước nhưng lượng mưa hàng năm trên LLE khoảng 519.000 km
3
. Do vậy lượng
nước trong khí quyển phải quay vòng 40 lần trong năm nghĩa là cứ 9 ngày đêm
phải thay một lần. Kết quả tính toán cho thấy cần phải chi dùng hơn 20% năng
lượng Mặt Trời tới Trái Đất để bốc hơi 519.000 km
3
nhưng lượng nhiệt chi dùng
vào sự bốc hơi 600 g/cal được giải phóng lại khi hơi nước ngưng đọng. Như vậy
tuần hoàn của nước kéo theo sự tuần hoàn của năng lượng nhiệt.
(viii) Sự tuần hoàn của nước không chỉ bó hẹp trong LLE. Các phần tử hơi
nước đi lên các lớp cao của khí quyển bị quang giải dưới tác dụng của tia tử ngoại
của Mặt Trờ
i phân tách chúng thành các nguyên tử ôxy và hyđrô. Do nhiệt độ cao

ở tầng điện ly, vận tốc của phần tử hyro trở thành lớn hơn tốc độ vũ trụ và nó đi ra
khỏi khí quyển tới khoảng không gian giữa các hành tinh (một nguyên tử hyđrô
bay đi có nghĩa là Trái Đất mất đi một phần tử nước). Ngược lại, vũ trụ cung cấp
nước cho Trái Đất ở các thiên thạch (với l
ượng trung bình là 0,5%). Theo số liệu
tính toán của V. F. Dergaltsa (1962), lượng nước gia nhập vào Trái Đất bằng con
đường này vào khoảng 80 m
3
trong một ngày đêm tức là 25-30.000 tấn/năm
(ix) Sự lưu thông của nước ở đại dương cũng góp phần quan trọng cho vòng
tuần hoàn trong LLE. Ở mỗi đại dương, các dòng biển tạo thành những vòng lưu
thông của nước đại dương. Các dòng lớn nhất ở vào khoảng xích đạo và các vĩ
tuyến 40
0
, vòng vận chuyển của chúng phù hợp với lực Coriolis theo chiều kim
đồng hồ ở bán cầu nam. Các vòng này vận chuyển đều bao quanh các miền có khí
xoáy tản cố định cận nhiệt đới và như vây lấy các miền đó, những thí dụ sau đây
minh họa đặc điểm trên (Kalesnik).
Thí dụ 1: Dòng vận chuyển xung quanh biển Xácgát: dòng biển ở miền tín
phong bắc đi về phía tây tạo thành hệ thống phức tạp của dòng Gulfstream v
ận
chuyển một lượng lớn 75 triệu m
3
/s, nhánh từ tam giác châu Gulfstream đi về phía
đông tới châu Âu là dòng biển Canari

22
b. Cơ sở tuần hoàn trong khí quyển.
Ngày nay người ta biết rằng sự trao đổi không khí giữa xích đạo và cực, về cơ
bản là do sự di chuyển của các khối khí theo hướng nằm ngang. Tuy các vận động

theo chiều thẳng đứng không vì vậy mà loại trừ, nhưng tốc độ của chúng nhỏ hơn
nhiều lần so với tốc độ các vận động theo chiều ngang.
Theo Isachenko, tầng đối lưu có gần 500 triệ
u tấn phần tử lơ lửng (do gió, núi
lửa, chất thải) luôn trao đổi liên tục. Chúng tồn tại trong không khí từ vài giờ đến
vài ngày đêm (tùy thuộc vào kích thước), sau đó trầm lắng xuống bề mặt đất.
Tuy nhiên, sự có mặt của những chất tạp đã làm thay đổi tới mức đáng kể
những tính chất và chức năng của không khí trong khí quyển. Hơi nước hấp thụ
phầ
n lớn bức xạ sóng dài của Trái Đất và tạo nên hiệu ứng nhà kính trong khi
đóng vai trò kiểu như cái áo khoát đối với bề mặt Trái Đất. Những phần tử bụi
cũng hấp thụ bức xạ sóng dài, nhưng làm yếu bức xạ Mặt Trời, chúng là những hạt
nhân ngưng tụ của hơi nước và do đó ảnh hưởng lớn đến sự hình thành mưa và
đến vòng tuần hoàn toàn cầu của n
ước. Mặt khác, nhờ tính cơ động đặc biệt, sự
chuyển động và sự di chuyển thường xuyên (sự hoàn lưu), các khối khí dường như
làm trung gian cho sự tác động qua lại giữa đất nổi và đại dương, nghĩa là việc
truyền nhiệt, hơi nước, cũng như muối giữa đất nổi và đại dương và thường phân
phối lại chúng trong phạm vi lớp LLE.
Ngoài ra, tác động của gió vào bề m
ặt của đại dương thế giới còn lớn hơn nữa,
nó là nguyên nhân hình thành một hệ thống phức tạp của các dòng biển. Ôxy tự do
của khí quyển tham gia vào các phản ứng ôxy hóa của đất, các bồn nước, bề mặt
thạch quyển, sử dụng bởi sinh vật để hô hấp. Khí CO
2
của khí quyển là vật liệu
xây dựng cơ bản, từ đó cây xanh tổng hợp chất hữu cơ.
c. Cơ sở tuần hoàn của sinh vật.
Sự tuần hoàn của sinh vật đóng một vai trò to lớn trong LLE. Sơ đồ chung của
sự tuần hoàn sinh vật có thể diễn đạt như sau (Kalesnik): Dưới tác dụng của ánh

sáng ban ngày, quá trình quang hợp tiến triển ở cây xanh: nước bị phân tích trong
các hạt diệ
p lục, hyđrô được sử dụng để tạo nên các hợp chất hữu cơ và ôxy bay
vào khí quyển. Sau khi động vật và thực vật chết, chất hữu cơ trong cơ thể của
chúng bị phân hủy bởi vi sinh vật thành những hợp chất đơn giản như CO
2
, H
2
O,
NH
3
Các hợp chất khoáng xuất hiện do con đường nói trên, lại bị hấp thụ bởi
thực vật, động vật, vi sinh vật và lại đi vào thành phần của các vật chất hữu cơ
phức tạp. Nói một cách khác, cũng những thành phần ấy nhiều lần tạo thành hợp
chất hữu cơ của các cơ thể sống và nhiều lần chuyển sang trạng thái khoáng vật.
Khối lượng c
ủa chất sống rất nhỏ bé so với các hợp phần khác, song nó lại có ý
nghĩa cực kỳ vĩ đại (khoảng 1 phần triệu khối lượng của lớp LLE). Điều đó được
Isachenko giải thích bởi hoạt tính hóa học rất cao của các loài sinh vật, thể hiện ở
tính cực kì đa dạng của chúng. Điều quan trọng là sinh vật có tính chịu đựng cao
nhất và có mặt ở khắ
p nơi. Kết quả xét nghiệm cho thấy trong 1g đất bùn hồ có
23
chứa hàng tỷ mẫu vi khuẩn, còn ở trong đá trên núi cao và ở bùn đáy của các vực
nước sâu cũng có đến hàng triệu mẫu vi khuẩn trong 1g vật chất.
Sự trao đổi giữa sinh vật và môi trường là điều kiện tất yếu của sự sống. Sự
trao đổi sinh vật (sự trao đổi chất) diễn ra mạnh hơn nhiều lần sự trao đổi nguồn
gốc phi sinh vật. Các nguyên tố
đóng vai trò ưu thế trong thành phần của chất sống
là các nguyên tố cơ động tạo nên các khí của khí quyển và có khả năng cung cấp

những hợp chất dễ bị hòa tan.
Đối với thủy quyển, các loài sinh vật cũng đóng một vai trò quan trọng trong
vòng tuần hoàn của nước bởi vì chúng hút nước tích cực từ đất và làm thoát hơi
nước vào khí quyển. Hơn nữa, chúng làm cho các loại nước thổ nhưỡng, nước
sông, n
ước hồ, đại dương, trở thành giàu ôxy và nghèo axit cabonic trong quá trình
quang hợp và sử dụng ôxy để nhả ra CO
2
và các khí khác khi phân giải những tàn
dư hữu cơ. Sinh vật dưới nước hấp thụ mạnh mẽ canxi, kali, phospho, nitơ trong
nước và sau đó làm trầm lắng các chất ấy vào trầm tích.
Khối lượng vật chất nguồn gốc sinh vật gia nhập vào LLE nhiều hơn khối
lượng của vật chất này bị cuốn ra khỏi LLE bởi vì phần lớn của khối lượng sinh
vật, được tạo nên từ
CO
2
, cũng như nitơ của không khí. Do đó, hàm lượng của
cacbon và nitơ tăng lên trong tầng đá trầm tích và đặc biệt là trong đất. Đất là kết
quả hoạt động cụ thể nhất của sinh vật trong lớp LLE (thể hiện qua hàm lượng
mùn). Điều đáng chú ý là khi lôi cuốn các nguyên tố của thạch quyển vào trong
tuần hoàn và khi làm cho chúng tích tụ lại trong đất, sinh vật đóng vai trò làm cản
trở sự di chuyển củ
a chúng vào đại dương.
Trong quá trình phong hóa các loại đá, chất sống là tác nhân quan trọng nhất.
Các sản phẩm phong hóa như vật liệu sét bao gồm chủ yếu là các ôxyt: SiO
2
,
Al
2
O

3
, Fe
2
O
3
trong một chừng mực nhất định có nguồn gốc sinh vật, nó chứa
nhiều sản phẩm từ các loại tàn dư hữu cơ bị phá hủy. Hơn nữa, các loại sinh vật
tham gia gián tiếp vào quá trình phong hóa hóa học, có tiết ra những tác nhân
phong hóa tích cực như khí CO
2
và các loại axit hữu cơ. Có nhiều loại đá có nguồn
gốc sinh vật như các loại đá chứa cacbon (than đá, dầu mỏ, khí tự nhiên, than bùn,
đá phiến cháy, than chì); các tầng đá vôi dày cũng như các đá phấn được hình
thành từ bộ xương của trùng lỗ, san hô, bọt biển, và các loài sinh vật nước khác.
Như vậy, vỏ đá trầm tích của thạch quyển đã được tạo nên với sự tham gia trự
c
tiếp hay gián tiếp của sinh vật.
Tóm lại, vai trò của vòng tuần hoàn sinh vật có ý nghĩa rất lớn trong sự phát
triển, trong việc cải tạo địa hình của thạch quyển cả trên bề mặt Trái Đất và dưới
đáy biển. Nhịp điệu của tuần hoàn sinh vật qui định những nét quan trọng về sự di
chuyển của các thành phần hóa học và về đặc tính của mối liên hệ giữa khí quy
ển,
thủy quyển và thạch quyển. Ý nghĩa của sự tuần hoàn sinh vật lại càng lớn lao hơn
nữa ở chỗ nó đã hoạt động trong nhiều trăm triệu năm.

24
d. Cơ sở tuần hoàn của đá.
Chúng ta đều biết sự rắn lại của magma dẫn đến tạo thành đá phun trào. Đá này
bị phân hủy bởi quá trình phong hóa, vật liệu phong hóa được vận chuyển đi do
nước, băng hay gió và lắng đọng ở chỗ khác trên đất nổi hay dưới đáy các bồn

nước dưới hình thức trầm tích vụn bở. Về sau, các trầm tích này bị ép chặt lại bởi
các quá trình tạo đá. Sự tích tụ các lớp trầm tích có thể có hậu quả làm lún đáy của
chúng xuống khu vực có nhiệt độ và áp suất cao. Kết quả gần nhất của sự kiện đó
là làm biến chất đá và trong điều kiện nhiệt độ cao có thề làm chảy rửa đá tức là
làm quay trở lại trạng thái magma (hình 6.15).

Hình 6.15. Chu trình tuần hoàn của đá
3. Đặc điểm cơ bản của vòng tuần hoàn vật chất.
Trên cơ sở tổng hợp các số liệu tính toán, dựa vào cơ sở của sự tuần hoàn của
các nguyên tố hóa học diễn ra trong thạch quyển, Isachenko đúc kết và rút ra
những đặc điểm cơ bản sau đây của vòng tuần hoàn vật chất trong LLE.
a) Sự di chuyển và biến đổi c
ủa vật chất trong LLE diễn ra dưới hình thức các
vòng tuần hoàn, nghĩa là có tính chất chu trình.
b) Các vòng tuần hoàn có tính chất bề ngoài của vòng khép kín mà theo đó
cùng một lượng vật chất được chu chuyển.
c) Những thay đổi về chất của vật chất và các hợp phần trong LLE diễn ra
trong quá trình tuần hoàn.
25
d) Thời gian lưu lại của vật chất trong vòng quay có thể rất đa dạng (độ dài của
chu trình)
e) Trong cấu trúc của LLE, các vòng tuần hoàn của nước và các nguyên tố tích
cực nguồn gốc sinh vật (ôxy, cacbon, nitơ, phốt pho, lưu huỳnh ) có ý nghĩa rất
lớn.
f) Trong thời đại ngày nay con người đã trở thành một nhân tố có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tiến trình tự nhiên của vòng tuần hoàn vật chất.
Chúng ta đều biết, sự tác động của nền sản xuất đến nhiều sự cân bằng của
nước, ôxy, khí CO
2
và nhiều nguyên tố cũng như các hợp chất khác.

Sự tác động của con người cũng làm thay đổi vòng tuần hoàn nước và sự cân
bằng nước. Ngày nay, việc con người điều tiết và phân phối nước sông trong trình
độ kỹ thuật hiện đại đã trở thành việc bình thường, nhưng hậu quả địa lí của nó rất
nghiêm trọng.
Sự tác động của con người đã làm phá vỡ tình trạng cân bằng sinh v
ật. Do hoạt
động khai thác rừng lấy gỗ, chăn thả trên các đồng cỏ săn bắt các loài động vật
hoang dã đã dẫn đến phá vỡ cấu trúc của các quần hợp sinh vật, phá vỡ cân bằng
ôxy trong khí quyển và làm ảnh hưởng đến sự di chuyển của nitơ, phốt pho, lưu
huỳnh và các nguyên tố khác.
Trong quá trình sản xuất, con người đã rút ra từ vỏ Trái Đất nhiều nguyên tố
(như C, Ca, Fe, Al, Cl, Na, S, N, P ) và thu nhận t
ừ chúng những chất mới đã làm
phân tán chúng trên bề mặt thạch quyển. Con người cũng thải vào môi trường
những chất thải nguồn gốc kỹ thuật dẫn đến sự giảm sút chất lượng môi trường,
làm phá vỡ tình trạng cân bằng địa hóa trong LLE.
Những tác động nguồn gốc kỹ thuật của con người đã dẫn đến sự phá vỡ tình
trạng cân bằng nhiệt của khí quy
ển. Theo dự báo của M. I. Budyko đến năm 2050,
nhiệt độ của Trái Đất sẽ lên cao 3,5
0
C, điều này đẫn đến sự tan chảy hoàn toàn của
băng và gây nên sự dâng cao của mực nước đại dương cũng như sự thay đổi hoàn
lưu khí quyển và của các quá trình tự nhiên khác.
III. Quy luật về các hiện tượng nhịp điệu:

1. Khái niệm:
Sự lặp lại nhiều lần theo thời gian của thể tổng hợp các hiện tượng phát triển
theo cùng một hướng gọi là nhịp điệu. Các hiện tượng có nhịp điệu khác nhau là
một biến dạng độc đáo của vòng tuần hoàn trong LLE.

Theo Kalesnik, việc người ta phân chia hai dạng nhịp điệu sau đây là hợp lí:
(i) Các nhịp điệu theo thời kì: là các nhịp điệ
u có khoảng thời gian kéo dài
đồng nhất. Thí dụ, thời gian Trái Đất quay xung quanh trục của nó, thời gian Trái
Đất quay xung quanh Mặt Trời.

×