Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Bài soạn Những vấn đề địa lý tự nhiên đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.45 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN ĐẠI CƯƠNG

CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÝ
I. Lịch sử phát triển của khoa học Địa lý đến cuối thế kỷ XIX:
2. Thời kỳ Trung cổ:
3. Thời kì Phục Hưng:
5. Thời kì tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX)
II. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa đầu thế kỷ XX
1. Trường phái địa lý Pháp:
2. Trường phái địa lý Đức
3. Trường phái địa lý Nga
4. Trường phái địa lý Mỹ:
5. Địa lý các nước khác
III. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa cuối thế kỉ XX:
1. Sự hiện đại hóa khoa học địa lý:
2. Các phân hệ của hệ thống không gian địa lý hoàn chỉnh
IV. Những vấn đề của Địa lý học hiện đại:
1. Định nghĩa
2. Đối tượng nghiên cứu:
a. Lớp vỏ địa lý:
b. Các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên:
c. Các xứ địa lý:
d. Vòng đai địa lý
e. Đới địa lý:
f. Miền địa lý
g. Khu địa lý
h. Đai cao địa lý:
i. Cảnh quan địa lý:
j. Dạngđịa lý:
k. Diện địa lý
CHƯƠNG 2. CÁC QUY LUẬT ĐỊA LÝ


I. Khái niệm về quy luật địa lý:
II. Quy luật về tính thống nhất và hoàn chỉnh của LLE
1. Định nghĩa
2. Nguyên nhân:
3. Ý nghĩa
III. Quy luật tuần hoàn vật chất và năng lượng:
1. Khái niệm
2. Cơ sở của sự tuần hoàn:
a. Cơ sở tuần hoàn trong thủy quyển.
b. Cơ sở tuần hoàn trong khí quyển.
c. Cơ sở tuần hoàn của sinh vật.
d. Cơ sở tuần hoàn của đá.
3. Đặc điểm cơ bản của vòng tuần hoàn vật chất
III. Quy luật về các hiện tượng nhịp điệu
1. Khái niệm
2. Nguồn gốc phát sinh và độ dài thời gian của các nhịp điệu
3. Các hiện tượng nhịp điệu cơ bản.
a. Phân loại.
b. Các nhịp điệu cơ bản.
4. Những nhận xét về qui luật nhịp điệu.
5. Ý nghĩa thực tiễn
IV. Quy luật địa đới
1. Khái niệm địa đới
2. Nguyên nhân gây tính địa đới.
3. Phạm vi biểu hiện của tính địa đới
4. Biểu hiện của tính địa đới ở Việt Nam.
V. Quy luật phi địa đới
1. Nguyên nhân
2. Phạm vi biểu hiện của quá trình phân dị phi địa đới
3. Ý nghĩa

4. Biểu hiện của qui luật phi địa đới ở Việt Nam.
a. Qui luật phân hoá theo kinh độ ở Việt Nam
b. Qui luật phân hóa theo các điều kiện kiến tạo - địa mạo ở Việt Nam.
c. Qui luật phân hóa theo đai cao ở Việt Nam
CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÝ
I. Lịch sử phát triển của khoa học Địa lý đến cuối thế kỷ XIX:
Cho đến cuối thế kỷ XIX, khoa học địa lý đã trở thành 1 khoa học thực sự với những học thuyết, những khái
niệm, những phương pháp riêng. Từ địa lý thống nhất cổ điển đã tách ra thành nhiều khoa học bộ phận, gộp
thành hai ngành chính là Địa lý tự nhiên và Địa lý kinh tế - xã hội với xu thế phân tích là chính. Có thể phân
chia lịch sử phát triển lâu dài này thành một số thời kỳ như thời kỳ Cổ đại, Trung cổ, Phục Hưng, tiền Tư bản
chủ nghĩa, Tư bản chủ nghĩa. Do lịch sử phát triển diễn ra không đồng đều giữa phương Đông và phương Tây
và giữa các nước với nhau, mà các tư liệu địa lý chủ yếu được trích dẫn từ một số nước châu Âu, một mặt vì
tư liệu thành văn của họ được lưu trữ tốt, mặt khác khoa học địa lý hiện nay trên toàn thế giới cũng chịu nhiều
ảnh hưởng của địa lý phương Tây, vì nền khoa học kĩ thuật của họ đạt trình độ cao hơn.
1. Thời kỳ Cổ đại:
Chính thức đi từ thế kỉ V TCN (với những công trình của Herodote công bố vào năm 456 TCN) cho đến thế
kỉ IV sau CN, khi Đế chế La Mã bị sụp đổ vào năm 395 SCN. Nôi văn minh của phương Tây là các khu vực
quanh Địa Trung Hải, khu vực có những con đường hàng hải thuận lợi. Như thế các tư liệu địa lý phương Tây
ban đầu là những tư liệu về các bến bờ ven biển. Các tư liệu thu thập trên đất liền đầu tiên lại do người Trung
Quốc ở phương Đông tích lũy vì họ có 1 lãnh thổ quá rộng lớn. Cách đây 3000 năm họ đã có những thông tin
địa lý về đất nước mình, đến đầu CN họ đã biết rất rõ về đất nước, các con đường giao thông thủy bộ, về các
thành phố của mình và đã có những bản đồ được các nhà cầm quyền rất coi trọng. Nhà vua bắt buộc các
quan chức địa phương phải soạn thảo một địa chí đầy đủ về địa phương mình, có kèm theo bản đồ. Các
nhà trí thức Trung Quốc cổ đại thường thông thiên văn, tường địa lý nhưng do chế độ phong kiến Trung Quốc
trì trệ đóng cửa kéo dài nên khoa học địa lý cổ truyền của Trung Quốc vẫn dậm chân tại chỗ, ở trình độ mô tả,
liệt kê.
Sau người Ai Cập, Babilon rồi đến người Hy Lạp và La Mã thì các thông tin địa lý đã được sắp đặt, chọn
lọc, nâng cao và nền khoa học địa lý cổ đại chính thức hình thành. Herodote (485 – 425 TCN) lần đầu tiên đã
cho ra đời những tập thông tin có tổ chức về nhiều mặt, khi ông mô tả các vùng đất và biển mà ông đã đi qua
ở biển Đen, Địa Trung Hải, Ai Cập, Tiểu Á và Lưỡng Hà.

Trong thế kỷ V TCN cũng đã có những khái niệm về một Trái Đất hình tròn (Pythagore) và tính địa đới
(Parmenide), trong đó đề cao đới ôn hòa và cho rằng xích đạo thì quá nóng còn vùng cực thì quá lạnh.
Vào thế kỉ III TCN Eratoxten đã chú ý đến việc đo đạc Trái Đất, xác định phương hướng và vị trí địa lý,
đồng thời mô tả chuyển động của Trái Đất, ông cũng xác định chiều dài kinh tuyến là 39.500 km và đã đặt
tên cũng như định nghĩa cho khoa học địa lý.
Đầu CN, Strabon (58 TCN – 25 SCN) chuyển sang nghiên cứu Địa lý nhân văn, chú ý đến các dân tộc và
chiều lịch sử.
Vào thế kỉ II SCN, khoa học địa lý có bước thụt lùi với các công trình của Ptolemee (90 – 168 SCN) khi ông
đưa ra thuyết địa tâm. Nhưng về khía cạnh bản đồ và trắc địa thì đóng góp của ông là to lớn.
Đáng chú ý là trong thời kì Cổ đại, những hướng nghiên cứu địa lý chính đã hình thành và tồn tại cho đến
ngày nay, đó là hướng nghiên cứu toàn Trái Đất và hướng nghiên cứu các khu vực khác nhau, hướng phân
tích định lượng, đo đạc chính xác, mô tả tổng hợp định tính, hướng địa lý thống nhất tự nhiên – con người
và hướng phân biệt địa lý tự nhiên và kinh tế - xã hội, nhân văn.
Đồng thời với tài liệu viết thì các bản đồ cũng được xây dựng bằng nhiều chất liệu như đất nung, giấy, lụa.
Bản đồ cổ nhất còn được lưu trữ là một bản đồ bằng đất nung rất nhỏ, có tuổi khoảng 2500 năm TCN, tìm
thấy khi khai quật thành phố cổ Ga Sua, cách Babilon 200 dặm về phía Bắc. Trình độ xây dựng bản đồ đạt
đỉnh cao tại cổ Hy Lạp, họ đã biết Trái Đất hình cầu với hai cực, hai chí tuyến và đường xích đạo, phát triển
hệ thống kinh – vĩ độ, biết dùng phép chiếu và biết tính toán kích thước Trái Đất. Hai nhà bản đồ kiêm địa lý
sớm nhất là Anaximandre và Hecatee (thế kỉ VI TCN). Nhà địa lý kiêm bản đồ học nổi tiếng của Hy Lạp là
Prolemee với công trình quan trọng nhất là cuốn “Địa lý học” gồm 8 tập. Tập 1 trình bày các nguyên tắc,
trong đó có cách xây dựng quả địa cầu và cách chiếu khi vẽ bản đồ. Từ tập II đến VII chứa đựng một danh
mục khoảng 8000 địa danh kèm theo tọa độ kinh vĩ để xác định vị trí. Tập VIII là quan trọng nhất, trình bày
về địa lý toán học, về thiên văn học, cách họa đồ và phép chiếu trong đó có hai phép chiếu là biến thể của
phép chiếu hình nón. Công trình này có kèm theo 1 bản đồ toàn thế giới và 26 bản đồ chi tiết về các khu vực,
đó là Atlat thế giới đầu tiên trong lịch sử phát triển địa lý.
2. Thời kỳ Trung cổ:
Bắt đầu từ năm đế chế La Mã sụp đổ (395 SCN) cho đến khi vua Thổ Nhĩ Kỳ Mohamed II chiếm lĩnh được
Constantinople vào năm 1453. Là thời kỳ suy thoái của khoa học địa lý nói riêng và nền khoa học nhân loại
nói chung do những ràng buộc khắc nghiệt của nhà thời Thiên chúa giáo. Hình cầu của Trái Đất đã bị phủ
nhận mà coi là có dạng phẳng hay dạng đĩa.

Tuy nhiên, ở châu Á và nhất là Trung Cận Đông, người A rập nói riêng và thế giới Hồi giáo nói chung vẫn
giữ được các thành tựu của khoa học Hy Lạp và còn phát huy thêm do các hoạt động mở rộng đất đai, buôn
bán và du hành của họ. Thế kỉ XI họ đã đo đạc lại kích thước của Trái Đất, xác định độ dài của kinh tuyến là
40.680 km và bắt đầu nói đến Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, sớm hơn Copernic. Ngoài người A rập thì
người Noocmang ở phía Bắc cũng có những cuộc hành trình trên biển vĩ đại ở Đại Tây Dương. Vào thời kì
này cũng đã xuất hiện những quan điểm địa lý tích cực, người ta đã bác bỏ ý kiến không có người cư trú ở
xích đạo và vùng cực, đã biết liên hệ tính đới của khí hậu với sinh vật và sinh hoạt của con người. Một sự kiện
nổi bật vào cuối thời Trung cổ là chuyến du hành của Marco Polo người Vonido đã đi suốt châu Á tới Trung
Quốc và khi về đã dùng đường biển từ Xumatra để vòng quan Nam Á và Tiểu Á, chấm dứt cuộc hành trình
hàng chục năm vào năm 1299.
Các bản đồ thời này không thể hiện thực tại mà vẽ theo trí tưởng tượng và theo giáo lí Thiên chúa giáo.
Trong khi đó, trong thế giới A rập thì bản đồ vẫn được vẽ theo các quan điểm và phương pháp Cổ đại như
cuốn “Địa lý học” của Ptolemee. Ngoài ra họ còn đo đạc chính xác hơn với phép chiếu chữ nhật tốt hơn.
Như vậy, trong thời kỳ này, nhờ sự phát triển của hàng hải, thủ công nghiệp và buôn bán mà thông tin địa lý
đã được tích lũy nhiều hơn, bản đồ cũng hoàn thiện hơn, nhất là các hải đồ.
3. Thời kì Phục Hưng:
Đó là thời kì khôi phục, chấn hưng và phát triển các nền khoa học, văn học và nghệ thuật cổ Hy Lạp diễn ra ở
châu Âu trong 2 thế kỉ XV – XVI, được châm ngòi từ sự tiếp xúc với thế giới A rập cùng với việc mang về
các sách và tài liệu cổ đại được người A rập cất giữ và sử dụng.
Thời kì này được đánh dấu bởi các “đại phát kiến” đi bằng đường biển trên các thuyền buồm lớn gọi là
Caravella, có tới 4 cột buồm với hệ thống buồm kiểu Ý. Đại phát kiến thứ nhất là việc tìm ra châu Mỹ của
Christophe Colomb qua 4 đợt vượt Đại Tây Dương (từ 1492 đến 1504).
Đại phát kiến thứ hai là chuyến đi vòng quanh châu Phi qua mũi Hảo Vọng để tới Ấn Độ, do Vasco de Gama
thực hiện vào năm 1498. Đại phát kiến thứ ba là chuyến đi vòng quanh thế giới trong 3 năm 1519 – 1522 của
Magellan. Ngoài ra còn nhiều chuyến du hành khác cũng đã tìm thêm những vùng đất mới.
Những đợt phát kiến này không những đã chứng minh được những thành tựu của địa lý Cổ đại như Trái Đất
hình cầu, tính địa đới của khí hậu do góc tới khác nhau của tia nắng Mặt Trời đến các nơi trên Trái Đất, quan
hệ giữa khí hậu và sinh vật,… mà còn mở rộng thêm tầm hiểu biết không gian rất nhiều, khiến cho có thể
dùng phương pháp so sánh để sơ bộ hình thành các quy luật địa lý, sẽ được chứng minh vào các thế kỷ sau,
đồng thời cũng sửa chữa được những nhận định sai lầm cũ. VD, đã phát hiện được các đới gió (tín phong, gió

Tây), thu thập nhiều mẫu cây cối, chim thú, hiểu thêm về dân tộc địa phương,…
Địa lý học rất có uy tín trong thời kì này, vì giúp cho nhiều vương quốc bành trướng thuộc địa, chủ yếu là Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha, của cải thế giới dồn về châu Âu đã giúp cho việc tích lũy tư bản, đẩy mạnh công
nghiệp.
Các thành tựu địa lý nói trên được thể hiện rõ và xúc tích qua các bản đồ và quả địa cầu được xây dựng. Tuy
nhiên, Bắc Mĩ vẫn chưa có tên trên bản đồ, mãi đến khi nhà bản đồ học người Hà Lan Mercator dùng tên
America để chỉ cả Bắc và Nam Mĩ thì America mới được mọi người công nhận là châu Mĩ. Công lao to
lớn nhất của Mercator là giải phóng ngành bản đồ học khỏi ảnh hưởng của Ptolemee. Các quả địa cầu cũng
rất phổ biến trong thời kì này. Quả địa cầu đầu tiên được hoàn thành năm 1492 nên chưa thể hiện được châu
Mĩ. Thành tựu bản đồ học đáng chú ý nhất là các tập bản đồ (Atlat). Atlat đầu tiên của thời kì này là của
Abraham Ortelius xuất bản năm 1570 gồm 53 bản đồ in từ các bản khắc bằng đồng, tô màu bằng tay, tham
khảo tài liệu của 87 nhà địa lý và bản đồ học.
4. Thời kì tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XVII – XVIII)
Trong thời gian này, tuy vẫn tiếp tục tiến hành thêm nhiều chuyến du hành quan trọng, mở rộng đất đai và
hiểu biết thêm về địa lý, nhưng ấn tượng sâu sắc đã chuyển sang các phát minh công nghệ, các sự giải thích và
lập luận khoa học, các công trình tổng kết, mà kết quả là khởi đầu cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất,
tạo tiền đề cho sự nhảy vọt vào thế kỉ XIX. Các dụng cụ nghiên cứu, đo lường như phong vũ biểu, hàn thử
biểu, dụng cụ chỉ giờ chính xác, kính viễn vọng, bàn đạc, máy kinh vĩ và phương pháp tam giác đạc giúp cho
việc quan sát không gian và vẽ bản đồ chính xác hơn.
Nhà thiên văn học Đức Kepler đưa ra lí thuyết về các quy luật chi phối sự vận động của các hành tinh xung
quanh Mặt Trời. Từ đó nhà bác học người Anh Newton đã suy ngẫm và khám phá ra quy luật hấp dẫn trong
vũ trụ. Quan điểm của Emmanuel Kant coi “địa lý là sự mô tả theo không gian” đã là hòn đá tảng để khoa học
Địa lý trở thành một khoa học độc lập và độc đáo mà các thế hệ về sau sẽ đi sâu và cụ thể hóa. Nhà hàng hải
kiêm Địa lý người Anh James Cook mở đầu cho thời kì du hành khoa học, có mục đích và phương pháp rõ
ràng chứ không ngẫu hứng và nghiệp dư như các nhà du hành thời Cổ đại và Phục Hưng.
Trong thời kì này có lẽ Hà Lan là nước có nhiều thành tựu nghiên cứu địa lý nhất với công trình “Địa lý đại
cương” do Veranius công bố vào năm 1650. Trong công trình này, Veranius lần đầu tiên giải thích bằng lí
luận bản chất của địa lý, qua việc xác định đối tượng của địa lý là “lớp vỏ Trái Đất” bao gồm lục địa, đại
dương và khí quyển, nghiên cứu trong khung cảnh toàn bộ Trái Đất và theo từng vùng riêng biệt. Quan điểm
này đã vượt quá tầm của thời đại và có ảnh hưởng rất lớn đến những nhà địa lý của các nước. Tuy nhiên các

bản đồ do Hà Lan sản xuất vẫn còn chứa đựng nhiều điểm sai lầm do chủ yếu vì mục đích thương mại, cần in
nhanh, hấp dẫn, sao chép các bản đồ cũ. Trái lại, bản đồ của Pháp mang tính khoa học để phục vụ cho quản lí
đất đai, cho tác chiến nên cần chính xác và chi tiết.
5. Thời kì tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX)
Đặc điểm cơ bản của sự phát triển khoa học địa lý trong thế kỉ XIX là sự hình thành một khoa học địa lý có
tính chuyên nghiệp, có đào tạo và tổ chức nghiên cứu rõ ràng và mang tính quốc tế, nhất là vào 30 năm cuối
(1870 – 1900). Đặc điểm thứ hai là sự phân ngành ngày càng mạnh khiến cho địa lý không phải là một bộ
môn thống nhất và trở thành một hệ thống nhiều bộ môn, làm cho địa lý thống nhất cổ điển ngày càng mất đối
tượng nghiên cứu và có nguy cơ tan rã.
Bộ môn địa lý được giảng dạy ngày càng nhiều tại các trường Đại học, vừa đào tạo cán bộ nghiên cứu, vừa
đào tạo giáo viên cho các trường phổ thông. Sự phát triển giáo dục và đào tạo địa lý khởi đầu từ Đức, sau đến
Pháp và các nước châu Âu khác. Trường Đại học nổi tiếng về địa lý là trường Đại học tổng hợp Berlin mà ở
đó Humboldt đã từng giảng dạy và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Các tạp chí địa lý cũng xuất hiện và xuất
bản hàng năm từ 1863.
Việc phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhất là kinh tế công nghiệp, đòi hỏi sự nghiên cứu
sâu và chính xác, do đó nhiều khoa học chuyên ngành mới tách ra từ Địa lý. Đầu tiên là ngành Địa chất do
nhu cầu tìm khoáng sản và chất đốt. Sau đó là Khí hậu học, Thổ nhưỡng học, Thực vật học, Động vật học
do sự phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hóa và sản xuất hàng hóa. Thủy văn học,
Địa hình học, Trắc địa – Bản đồ thì giúp ích nhiều cho xây dựng và giao thông liên lạc. Hải dương học phục
vụ cho sự đi lại trên biển và nghề cá cũng như việc đặt cáp xuyên đại dương. Và như vậy thì trong thế kỉ XIX,
thế mạnh thuộc về các khoa học địa lý tự nhiên, vì thế Địa lý học nói chung được xếp vào khoa học tự nhiên.
Địa lý kinh tế hình thành chậm hơn vào thập kỉ cuối của thế kỉ XIX, kích thích việc ra đời của ngành này là sự
phân công lao động theo lãnh thổ trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển của Thống kê học
và của học thuyết về sự định vị các ngành sản xuất.
Sự phân ngành của địa lý dần dần bộc lộ những nhược điểm, được kiểm nghiệm sau những thất bại khi
tiến hành các công trình phát triển kinh tế - xã hội hoặc cải tạo tự nhiên ở quy mô lớn. Do đó xuất hiện xu thế
nghiên cứu địa lý tự nhiên tổng hợp mà xuất phát điểm là các ngành nghiên cứu các thành phần tích hợp, chịu
ảnh hưởng đồng thời và tương hỗ của nhiều thành phần khác như thực vật và thổ nhưỡng.
Bản đồ học cũng có những bước tiến quyết định trong thế kỉ XIX. Vào cuối thế kỉ XIX hầu như không còn
chỗ nào trên Trái Đất mà người ta chưa hiểu biết. Phương pháp đường bình độ đã thay thế cho những nét gạch

khi thể hiện độ cao địa hình. Các bản đồ không chỉ mô tả mà thường có nội dung khoa học, thể hiện
các mối quan hệ giữa các hiện tượng, có kết quả phân loại và phân vùng. Đức cũng là nước xuất bản nhiều
bản đồ và Atlat nhất và các nhà địa lý tiêu biểu cũng là người Đức, trước hết là Humboldt và K.Ritter, tiếp sau
là Pháp và Nga. Ở Nga, do đất nước rộng lớn nên xu hướng địa lý tổng hợp sớm phát triển. Tựu chung lại thì
trong thế kỉ này có 3 khuynh hướng chính là nghiên cứu vùng, nghiên cứu quan hệ con người – môi trường
địa lý và khuynh hướng nghiên cứu cảnh quan. Ba khuynh hướng này bổ sung cho nhau, mỗi khuynh hướng
đi sâu vào một khía cạnh của thực tại phân hóa không gian của tự nhiên và xã hội. Chúng phát huy tác dụng
mãi cho đến nửa đầu thế kỉ XX.
II. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa đầu thế kỷ XX:
Vào nửa đầu thế kỷ XX, khoa học Địa lý không được nổi bật trong xã hội như ở thế kỷ XIX. Sau một thời kì
phát triển nhanh, sôi nổi, đến đây địa lý hầu như chững lại. Các nhà địa lý vẫn chỉ áp dụng những quan điểm,
các thành tựu của 30 năm cuối thế kỷ XIX thể hiện trong 3 khuynh hướng chính, đồng thời lúng túng
trước sự thiếu thống nhất trong cơ sở lí luận cho khoa học Địa lý. Điểm nổi bật của sự phát triển địa lý vào
thời gian này là không được thúc đẩy bởi nhu cầu của xã hội, mà chủ yếu là do những mâu thuẫn nội tại, do
logic phát triển của bản thân ngành khoa học này.
Khoa học Địa lý vẫn thiên về phía khoa học tự nhiên tuy có chú ý đến quan hệ giữa tự nhiên và xã hội cũng
như con người. Trong khi đó vào đầu thế kỷ XX, các khoa học xã hội lại phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu
thực tiễn ngày càng đa dạng và thay đổi nhanh. Trong sự lúng túng chung ấy thì giải pháp tình thế là xây dựng
các trường phái quốc gia, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên và nhu cầu riêng trong sự phát triển kinh tế - xã hội tại
mỗi nước mà tìm hướng đi cho thích hợp.
1. Trường phái địa lý Pháp:
Địa lý Pháp được hình thành vào loại sớm nhất, là trường phái gắn kết nhất vì có một nền tảng quan điểm
chung là quan điểm vùng, lấy sự phân hóa không gian, sự phân hóa theo vùng làm nền tảng và mục tiêu
nghiên cứu.
Người thầy của địa lý Pháp là Vidan de la Blaser, mà các công trình nghiên cứu đã thu hút và tập hợp được
rất nhiều môn đệ. Ý tưởng cơ bản là tập trung việc nghiên cứu địa lý vào một vấn đề rõ ràng, đơn giản, không
chịu ảnh hưởng của các khoa học khác, đó là sự phân bố không đồng đều của các cộng đồng người trên Trái
Đất, nghiên cứu trên góc độ quan hệ giữa con người và môi trường và sự phân hóa vùng trên bề mặt Trái Đất.
Có một công trình địa lý tiêu biểu của trường phái Pháp mà các nhà địa lý cũng như nhiều nhà nghiên cứu
thuộc các khoa học khác ở Việt Nam hiểu biết khá rõ là luận án Tiến sĩ đồ sộ với rất nhiều bản đồ và ảnh chụp

có nhan đề “Người nông dân châu thổ Bắc bộ” của Pierre Gourou. Cốt lõi của công trình là nghiên cứu lối
sống của con người nông dân qua cung cách sinh hoạt và sản xuất, phù hợp với môi trường tự nhiên mà ông
đã nghiên cứu rất kĩ.
Trường phái địa lý Pháp có sự thống nhất về quan điểm vùng trong mối quan hệ con người – môi trường và
về phương pháp nghiên cứu trên xuống – dưới lên, theo cấu trúc ngang giữa các vùng lớn nhỏ, đồng thời chú
trọng công tác thực địa theo tỉ lệ lớn, nhưng trong nội bộ vẫn có những khuynh hướng khác nhau khiến
cho địa lý Pháp cũng có một sự phân hóa nào đó.
Nhờ quan điểm vùng mà nước Pháp có rất nhiều chuyên khảo và luận án đại học hay trên đại học có giá trị,
mô tả và phân tích mọi vùng trên đất nước, hoặc vùng tự nhiên, hoặc vùng tự nhiên – lịch sử, hoặc vùng hành
chính cho đến tận cấp xã, được sử dụng rộng rãi để làm tư liệu giảng dạy, tư liệu tham khảo, hay làm cơ sở
cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ, cải tạo môi trường tự nhiên.
2. Trường phái địa lý Đức:
Hình thành chậm hơn và kém đồng nhất hơn địa lý Pháp vì trong thế kỷ XIX, địa lý Đức rất phát triển, có
nhiều khuynh hướng và bộ môn khoa học khác nhau, lại không có một ai uy tín vượt trội hẳn để thâu tóm tất
cả trong một trường phái với những lí luận và phương pháp chung. Tuy nhiên, trong số các bộ môn thì cảnh
quan học là độc đáo hơn cả, có ảnh hưởng sâu rộng cả trong nước và ngoài nước, cho nên có thể coi khuynh
hướng cảnh quan là đặc trưng cho trường phái địa lý Đức.
Trường phái cảnh quan Đức chủ yếu là nghiên cứu các cảnh quan văn hóa, các cảnh quan trong sự tác động
của con người, bởi lẽ, tại các vùng đồng bằng châu Âu hầu như không còn cảnh quan thuần túy tự nhiên. Mặc
dù vậy, đây vẫn là trường phái thiên về địa lý tự nhiên hơn trường phái vùng của Pháp. Ngoài ra, các vùng
của địa lý Pháp cũng chỉ tương đối, không có ranh giới thật rõ ràng, có thể chồng gối lên nhau. Trái lại, cảnh
quan địa lý Đức được vạch dứt khoát, xuất phát từ 1 định đề là “cảnh quan biểu hiện tính thống nhất về mặt
lãnh thổ của đối tượng nghiên cứu”. Phương pháp tiếp cận cảnh quan của Đức rất chú ý đến lớp phủ thực vật,
cố tìm ra các dấu hiệu của thực bì tự nhiên, từ đó nhận xét về chiều hướng tác động của con người lên thực bì
tự nhiên. Trường phái cảnh quan Đức chú ý đến cung cách mà một nhóm người nhập vào cảnh quan, để dấu
ấn trên cảnh quan, thông qua các biểu hiện vật chất cụ thể và rất chi tiết, cho nên không thể nghiên cứu các
vùng rộng lớn mà chỉ tập trung nghiên cứu các vùng rất nhỏ, rất đồng nhất, có ranh giới rõ ràng.
Bên cạnh trường phái cảnh quan, địa lý Đức không có những trường phái tương xứng khác nhưng lại có rất
nhiều khuynh hướng tham gia vào sự tìm kiếm những khái niệm mới, trên con đường phát triển địa lý học, đó
là khuynh hướng địa lý chính trị, địa – chính trị, địa lý văn hóa, địa lý kinh tế, sinh thái học, địa lý

vùng và lí thuyết định vị.
3. Trường phái địa lý Nga:
Trường phái địa lý Nga cũng là 1 trường phái mạnh ngay từ cuối thế kỷ XIX với khuynh hướng cảnh quan là
chính và địa lý Nga cũng du nhập thuật ngữ landschaft của trường phái địa lý Đức. Tuy nhiên trường phái
Nga cũng có những tính cách riêng, đó là sự phân biệt rõ địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế, đồng thời thiên về
địa lý tổng hợp, nghiên cứu các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên và các tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất, có chỉ
tiêu và ranh giới coi như rõ rệt. Đáng chú ý là địa lý tự nhiên tổng hợp Nga – Liên Xô luôn luôn gắn bó với
thực tiễn sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đề xuất các cơ sở khoa học cho công việc chống hạn và
cải tạo các vùng thảo nguyên, cũng như khẩn hoang các vùng đất mới. Nhờ đó đã phát hiện ra cấu trúc ngang
của cảnh quan địa lý, bao gồm 2 đơn vị cấu tạo cơ bản cấp dưới là dạng và diện địa lý. Địa lý tự nhiên tổng
hợp Nga không những chỉ đi sâu vào các đới cảnh quan mà còn nghiên cứu cả toàn Trái Đất, phát hiện và định
nghĩa rõ ràng lớp vỏ địa lý với ranh giới và những quy luật chung, nêu lên tính thống nhất cũng như sự phân
hóa của bề mặt Trái Đất.
Về mặt địa lý kinh tế, thì những người khởi xướng có tên tuổi là Baranxki và Koloxovski. Baranxki tiếp tục
hoàn thiện hướng phân vùng địa lý kinh tế của địa lý Nga thế kỷ XIX và đóng góp to lớn vào việc phân vùng
và kế hoạch hóa nền kinh tế Liên Xô vào những năm trước Đại chiến thế giới lần II. Ông đã sớm đưa ra cách
tiếp cận hệ thống – cấu trúc vào việc nghiên cứu vùng kinh tế từ quan điểm không gian, chú ý đến các câu hỏi
“ở đâu”, “từ đâu”, “đi đâu”. Ông đã chú ý đến cả địa lý khu vực (địa lý kinh tế quốc gia). Cuối cùng, ông đi
vào phân công lao động theo lãnh thổ và tổ chức xã hội theo lãnh thổ, coi như đó là cốt lõi của sự tạo vùng và
kiến thiết vùng. Có thể nói địa lý kinh tế Liên Xô phát triển gắn liền với việc triển khai các kế hoạch 5 năm
phát triển kinh tế quốc dân, do đó đã có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.
4. Trường phái địa lý Mỹ:
Được hình thành rất muộn nhưng lại phát triển rất nhanh, chỉ mới bắt đầu từ những năm đầu của thế kỉ XX
mà đến những năm 30 – 40 đã nổi tiếng qua nhiều công trình cơ bản và thực tiễn. Tuy về cơ bản địa lý Mỹ
vẫn là địa lý vùng và cảnh quan trên quan điểm địa lý thống nhất tự nhiên – con người, có chú ý đến vấn đề
bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng không thành 1 trường phái thống nhất như ở Pháp, hoặc quá đa dạng như
Đức, mà phân thành 2 nhánh khác biệt khá rõ rệt là nhánh Trung Tây và nhánh Berkeley.
− Nhánh Trung Tây: chú ý đến nguyên tắc phân vùng và mô tả vùng, đến vấn đề sử dụng đất đai, đến địa lý
kinh tế và địa lý chính trị. Khác với Tây Âu thường dựa vào lối sống để giải thích sự đa dạng vùng, các nhà
địa lý – địa chất Trung Tây đi theo con đường nghiên cứu ảnh hưởng của tự nhiên.

− Nhánh Berkeley: tương phản rõ rệt với nhánh Trung Tây. Họ không quan tâm đến các vấn đề hiện đại, mà
say mê đi sâu vào các nền văn hóa cổ, thí dụ nền văn hóa của người da đỏ, trên cơ sở nhân chủng học và dân
tộc học.
5. Địa lý các nước khác:
Ngoài các nước trên thì không có nước nào có trường phái địa lý rõ rệt. Đáng kể còn có nước Anh. Địa lý
Anh chọn địa lý Pháp làm mẫu, nhưng các nhà địa lý Anh không phải là bắt chước nguyên si địa lý Pháp. Tuy
họ không có gì độc đáo hơn nhưng nét Anh của họ là ở chỗ họ đặc biệt quan tâm đến chất lượng điều tra,
thường rất chi tiết, tỉ mỉ, đến tính nghiêm túc chặt chẽ của phương pháp luận và phương pháp. Ngoài ra họ
còn 2 thế mạnh liên quan đến vị trí bá chủ toàn cầu lúc đó của họ, nhất là bá chủ trên biển, đó là môn địa lý
chính trị, và môn địa lý lịch sử.
 Kết luận: Giai đoạn này là thời kì đầy biến động của chủ nghĩa đế quốc. Trong bối cảnh đó, khoa học
địa lý cũng cố vươn lên để đáp ứng nhu cầu thực tiễn sống động, phát triển nhiều trường phái quốc gia, nhiều
bộ môn khoa học mới, đồng thời ngày càng mang tính thống nhất, nghiên cứu tổng hợp môi trường – con
người, nhưng còn thiên về địa lý tự nhiên, hoặc tách biệt các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên và tổng hợp thể
lãnh thổ sản xuất. Có nhiều trường phái mạnh nhưng các trường phái này không bền vững và có xu thế thống
nhất lại phương pháp luận và phương pháp chung, một mặt do sức ép từ bên trong của nhu cầu phải thống
nhất của khoa học địa lý, trên cơ sở những lí luận có đủ sức mạnh để tổng hợp và liên kết các khuynh hướng
khác nhau, mặt khác còn do sức ép của sự phát triển kinh tế - xã hội thế giới, đã làm cho nhiều khái
niệm khoa học và phương pháp tiếp cận được sử dụng từ trước đến nay đã nhanh chóng bị lỗi thời, nhất là
sau Đại chiến thế giới II.
III. Lịch sử phát triển của khoa học địa lý trong nửa cuối thế kỉ XX:
Khoa học địa lý có 1 sự thay đổi cơ bản, lớn lao, với bước nhảy vọt vào 20 năm sau cùng. Bản sắc nghiên
cứu tổng hợp lãnh thổ được khẳng định và theo tính chất nhất thể hóa, nghĩa là đối tượng của địa lý học là
tổng hợp thể lãnh thổ thống nhất tự nhiên – kinh tế - xã hội – nhân văn. Hơn nữa địa lý học từ 1 khoa học
thiên về khoa học tự nhiên trong nhiều thế kỷ đã trở thành 1 khoa học thiên về khoa học xã hội. Con người
không những được coi như 1 hợp phần nội tại của tổng hợp thể lãnh thổ thống nhất, mà còn như 1 hợp phần
năng động và chủ động nhất. Vì thế khi nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ thống nhất để phát triển bền vững,
thì yếu tố quản lí và tổ chức lãnh thổ 1 cách chủ động và khoa học của con người đã được đề cao. Sự biến đổi
ấy đã khiến cho địa lý hiện đại thâm nhập vào mọi người, được mọi người cần đến, từ những nhà chiến lược
toàn cầu, khu vực, quốc gia, địa phương cho tới 1 nhà doanh nghiệp hoặc 1 người muốn đi du lịch hay nghỉ

ngơi, giải trí.
1. Sự hiện đại hóa khoa học địa lý:
Có thể hình dung các quan điểm và phương pháp tiếp cận cơ bản chung nhất của địa lý học hiện đại vào nửa
cuối thế kỷ XX như sau:
Do hoàn cảnh giao lưu thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, với 1 thế giới đã trở thành
một hệ thống thống nhất trong sự đa dạng và chứa đựng nhiều mâu thuẫn, ngành địa lý thế giới có xu hướng
xem xét lại toàn ngành để tập trung trí tuệ và sức lực nhằm nâng cao vai trò và vị thế của ngành trong việc giải
quyết những vấn đề bức xúc của xã hội loài người hiện nay.
Hiện nay, xu hướng chung là tập trung các khoa học bộ phận lại dưới ngọn cờ của 1 khoa học tổng hợp –
động lực, nghiên cứu các hệ thống không gian tự nhiên – kinh tế - xã hội – nhân văn thống nhất hay hoàn
chỉnh, trong lịch sử phát sinh – phát triển, trong sự biến động, để đánh giá đúng hiện trạng và dự báo tương
lai.
Khoa học địa lý là khoa học nằm ở giao diện giữa các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, do nhiệm vụ là
nghiên cứu quan hệ giữa tự nhiên và con người, giữa xã hội và lãnh thổ, vì thế được đặt ở phía nào cũng chỉ là
quy ước, nhưng hiện nay xu thế xếp vào khoa học xã hội thắng thế, vì đặt như vậy sẽ làm cho khoa học địa lý
đóng góp tích cực hơn vào các quyết định và các hành động của các cơ quan lãnh đạo Nhà Nước, địa
phương, của các nhà quản lí xí nghiệp, doanh nghiệp, khiến cho khoa học địa lý trở thành 1 khoa học hành
động và năng động trong 1 xã hội công nghiệp hóa, đô thị hóa, tin học hóa sôi động.
Đối tượng nghiên cứu của địa lý là chiều không gian của các hiện tượng và sự vật, là tổng hợp thể không
gian mà các hiện tượng và sự vật tồn tại trong đó.
Nhiệm vụ của địa lý là định vị, xác định vị trí và vị thế của các hiện tượng và sự vật, là đánh giá các tổng
hợp thể không gian như các điểm, các đường, các vùng, các trường, các mạng lưới và đưa ra các mô hình để
tổ chức không gian lãnh thổ, sao cho các hoạt động kinh tế - xã hội của con người diễn ra trên đó đạt được
hiệu quả tốt nhất. Quan điểm nghiên cứu đồng thời nhiều vùng đã được thống nhất từ lâu, chỉ tồn tại 1 vấn đề
là chưa có 1 hệ thống phân vị chung cho toàn ngành.
Khi nghiên cứu chiều không gian thì xuất phát điểm là việc coi không gian trên Trái Đất là không gian của
con người, do con người tạo ra, sản xuất ra, vì lợi ích của con người. Xuất phát điểm đó đã xóa bỏ quyết định
luận địa lý xưa kia, coi tự nhiên hoàn toàn chi phối con người. Đặt con người vào trung tâm của tổng hợp thể
không gian địa lý thống nhất, hoàn chỉnh, là đặt con người vào vị trí làm chủ môi trường tự nhiên, sử dụng
môi trường tự nhiên và khai thác nó tùy theo mục đích và khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở

con người phải chăm sóc và bảo vệ môi trường tự nhiên, cho mình và cho con cái mình, bảo vệ ngôi nhà của
mình và ngôi nhà chung của nhân loại. Với nhận thức như vậy, địa lý có thể đóng vai trò rất tích cực trong
việc tổ chức không gian nhân tác hay nhân sinh và trong việc bảo vệ và cải tạo môi trường, chống ô nhiễm
môi trường, là hai hoạt động kinh tế - xã hội gắn với không gian một cách trực tiếp nhất. Đó là 2 công việc có
tính tổng hợp cao và rất phức tạp, nhưng phù hợp với đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đặc thù của nhà địa
lý đã được đào tạo để làm.
Phương pháp tiếp cận hiện đại là phương pháp tiếp cận hệ thống, bằng các mô hình định lượng chính xác và
công cụ hiện đại là hệ thông tin địa lý (GIS) với sự trợ giúp của tin học và máy tính điện tử mạnh, của mạng
lưới viễn thông toàn cầu và của các kết quả viễn thám bằng máy bay và vệ tinh. Phương pháp tiếp cận hệ
thống thực chất là 1 phương pháp logic, 1 phương pháp luận, để nắm được các hệ thống, nhằm mục đích
điều khiển hệ thống sao cho hệ thống vận hành tốt, đạt được mục đích mong muốn. Nó được trợ giúp bởi
nhiều phương pháp khác. Vì hệ thống vô cùng phức tạp, nhiều hợp phần, nhiều bộ phận, nhiều quan hệ, nhiều
dòng vào và dòng ra, cho nên muốn tiếp cận hệ thống thì phải dùng phương pháp mô hình hóa. Mô hình là sản
phẩm của trí tuệ, đã khái quát hóa và đơn giản hóa thực tế, để có thể phát hiện ra bản chất của hiện tượng, sự
vật hay vấn đề đang xét. Mô hình phải hợp lí, nếu quá đơn giản hoặc quá phức tạp đều sẽ không đạt kết quả.
Hệ thông tin địa lý được coi như 1 công cụ đắc lực cho việc phân tích hệ thống không gian, vì có sự trợ giúp
của máy tính điện tử và các phần mềm tin học, cho phép vẽ bản đồ một cách tự động, nhanh chóng và đẹp,
nhất là cho phép phân tích cấu trúc ngang với các đặc tính không gian và quan hệ không gian, cũng như tính
toán được các mối quan hệ cấu trúc thẳng đứng. Tuy nhiên xây dựng 1 hệ thông tin địa lý rất tốn kém và công
phu, do đó chỉ nên xây dựng cho những dự án tổ chức và quản lí lãnh thổ phức tạp mà làm theo phương pháp
thông thường là không thể được hoặc khó và lâu.
2. Các phân hệ của hệ thống không gian địa lý hoàn chỉnh:
a. Phân hệ tự nhiên:
Điểm xuất phát là phân hệ tự nhiên vì đó là giá đỡ, là cơ sở vật chất và năng lượng của mọi hoạt động kinh
tế - xã hội. Không đi sâu vào phương pháp truyền thống là nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, ở đây chỉ
nhấn mạnh thêm vào sự nghiên cứu các dòng vật chất và năng lượng, là bản chất của các mối quan hệ tương
tác trong môi trường tự nhiên, trên quan điểm địa – sinh thái và địa – hóa.
Theo các quan điểm này thì con người là 1 bậc trong tháp địa – sinh thái, lấy thức ăn từ thế giới thực vật và
động vật. Cốt lõi của việc nghiên cứu là tìm hiểu dòng năng lượng đi từ bức xạ Mặt Trời qua thực vật đến
động vật ăn cỏ rồi động vật ăn thịt cùng với các chu trình sinh – địa – hóa của các yếu tố hóa học cần thiết

cho sự sống, đi từ vô cơ sang hữu cơ rồi lại trở về vô cơ để xoay vòng mãi. Con người tham gia vào dòng
năng lượng và chu trình vật chất ấy nhưng đôi lúc lại làm nhiễu loạn chúng, gây nên nhiều tác hại. Do đó, tìm
hiểu sự hoạt động của hệ địa – sinh thái và tác động qua lại giữa hệ với con người, chính là nhằm mục đích
điều chỉnh các quan hệ giữa xã hội và môi trường tự nhiên sao cho hợp lí, để giữ cho sự phát triển của xã hội
được bền vững, không hủy hoại môi trường để rồi tự hủy hoại mình.
Nghiên cứu dòng năng lượng cho phép chúng ta xác định được năng suất và sản lượng của các hệ địa – sinh
thái tự nhiên để vận dụng vào sự phát triển năng suất và sản lượng cây trồng và vật nuôi. Các hệ địa – sinh
thái trồng trọt và chăn nuôi có năng suất thấp hơn hệ địa – sinh thái tự nhiên, do thường là độc canh,
không tận dụng hết tiềm năng tự nhiên, cho nên muốn nâng cao năng suất hệ địa – sinh thái nông nghiệp thì
con người phải đầu tư thêm năng lượng hóa thạch và hóa chất. Bên cạnh quan điểm địa – sinh thái còn phải
sử dụng cả quan điểm và phương pháp địa – hóa học để nghiên cứu môi trường tự nhiên trong hệ thống
không gian địa lý thống nhất, hoàn chỉnh.
Cuối cùng phải xét quan hệ giữa con người và môi trường, thông qua tác động của con người vào hệ địa –
sinh thái và phản ứng trở lại của hệ. Có thể phân biệt ra 2 quá trình quan hệ là quá trình khai thác các hệ địa –
sinh thái tự nhiên và quá trình trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất công nghiệp hay làm dịch vụ. Khi khai thác tự
nhiên thì tốt nhất nên tuân thủ quy luật phát triển tự nhiên của hệ, là tiến tới giai đoạn cao đỉnh qua hàng loạt
diễn thế. Chiến lược khai thác các hệ tự nhiên là không được làm cản trở quá trình phát triển của tự nhiên, chỉ
nên khai thác tổng hợp các dạng tài nguyên trong quần xã cao đỉnh và sao cho tất cả các sản phẩm lấy ra
không quá khả năng tái sinh của quần xã. Đối với các hệ địa – sinh thái nông nghiệp nhân sinh thì phải cân
nhắc cẩn thận mỗi khi nhập nội một giống mới hay sử dụng một loại phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu nào
đó, sao cho không hủy diệt các loài sinh vật cộng sinh có ích, không làm hư hại môi trường hóa – lí, không
làm xáo trộn quan hệ giữa các loài và tập tính thích nghi với môi trường của các loài. Đối với các hoạt động
công nghiệp và dịch vụ thì quan trọng nhất là không làm nhiễu loạn các chu trình sinh – địa – hóa, đồng thời
đừng biến quá trình vòng thành quá trình không vòng mà phải cố gắng biến các quá trình không vòng thành
quá trình vòng nhằm đảm bảo quá trình tái sử dụng.
b. Phân hệ xã hội:
Khi khai thác tự nhiên để sản xuất và sinh hoạt, con người hoạt động trong một cộng đồng, một xã hội có tổ
chức, cho nên phân hệ xã hội cần phải xét tiếp ngay sau phân hệ tự nhiên. Khi nghiên cứu các vấn đề xã hội
trên quan điểm địa lý thống nhất, thì điều chúng ta quan tâm không phải là nội dung chuyên môn của các
khoa học xã hội mà chỉ là sự phân bố không gian của các hoạt động xã hội và ảnh hưởng của chúng trong việc

hình thành nên tính đặc thù của địa phương, thông qua các mối quan hệ tương tác giữa chúng với nhau và
nhất là giữa chúng và môi trường tự nhiên. Hoạt động của xã hội cũng rất phong phú và đa dạng, nếu hiểu
rộng thì bao gồm cả kinh tế, nhưng ở đây phân hệ xã hội chỉ gồm có các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa
và sự định cư cùng với các đặc điểm của cư dân. Các vấn đề xã hội cần quan tâm là các quyền và các hình
thức sở hữu và sử dụng đất đai, nội dung cơ bản của việc quản lí hệ thống lãnh thổ, rồi đến sự chênh lệch giàu
nghèo và sự đấu tranh cho công bằng xã hội. Lĩnh vực xã hội phong phú nhất khi nghiên cứu hệ thống không
gian địa lý là các hoạt động văn hóa. Vì nội dung nghiên cứu của địa lý là xác định các mô hình không gian
của tất cả các hiện tượng và sự vật trên Trái Đất, cho nên địa lý văn hóa quan tâm đến việc giải thích sự phân
bố không gian của các hiện tượng văn hóa, sự giống nhau và khác nhau về văn hóa giữa nơi này với nơi khác,
sự hình thành nên những vùng văn hóa trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với
con người, đồng thời cũng “bản đồ hóa” các kết quả nghiên cứu để trình bày với mọi người. Văn hóa cũng có
sự biến đổi theo thời gian, cho nên nghiên cứu địa lý văn hóa cũng phải sử dụng cả quan điểm lịch sử. Việc
giải thích các hiện tượng văn hóa và vùng văn hóa dựa vào quan hệ giữa con người và tự nhiên được gọi là
văn hóa – sinh thái. Cũng có nơi thấy ảnh hưởng của tự nhiên là mạnh mẽ, rõ ràng, thường đối với những nét
văn hóa cổ, nhưng càng ngày, ảnh hưởng của con người đến tự nhiên càng trở thành nhân tố quyết định thì
nghiên cứu địa lý văn hóa chủ yếu là phát hiện các dấu ấn của con người trên tự nhiên.
Một không gian tự nhiên được con người biến đổi thông qua các hoạt động văn hóa cả vật chất lẫn tinh thần
của mình, được gọi là cảnh quan văn hóa. Cảnh quan văn hóa là tấm gương phản ánh nền văn hóa đã tạo ra
nó, tức là có thể nghiên cứu văn hóa bằng khảo sát cảnh quan, trước hết về 3 phương diện: hình thái quần cư,
hình thái sử dụng đất đai và hình thái kiến trúc. Chính khái niệm cảnh quan văn hóa đã mở ra khuynh hướng
địa lý thống nhất trong đó hướng nghiên cứu các đô thị ngày càng phát triển.
IV. Những vấn đề của Địa lý học hiện đại:
1. Định nghĩa:
Địa lý học là 1 hệ thống các khoa học tự nhiên và xã hội, nghiên cứu các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, các
thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ và các thành phần của chúng (Đại từ điển bách khoa toàn thư Xô Viết).
2. Đối tượng nghiên cứu:
Có 3 đối tượng nghiên cứu chính của Địa lý tự nhiên: lớp vỏ Địa lý, thể tổng hợp lãnh thổ và cảnh quan.
Ngoài ra là môi trường Địa lý.

a. Lớp vỏ địa lý:

Có nhiều khái niệm và tên gọi khác nhau như lớp vỏ cảnh quan, địa quyển ngoài,… Giới hạn của lớp vỏ địa
lý khoảng 40 km.
Là lớp vỏ ngoài của Trái Đất bao gồm các lớp vỏ bộ phận như khí quyển, thạch quyển, thủy quyển, thổ
nhưỡng quyển và sinh quyển xâm nhập và tác động lẫn nhau. Hệ thống vật chất trong lớp vỏ địa lý khác với
lớp vỏ thành phần thuần túy vì nó có tính phức tạp trong thành phần cấu tạo và trong cấu trúc. Trong 5 thành
phần này thì thạch quyển là thành phần cổ nhất và bảo thủ nhất, đồng thời tạo nên bề mặt địa hình Trái Đất.
Thành phần trẻ nhất và năng động nhất là sinh quyển. Năm thành phần này vừa kết hợp với nhau theo cả cấu
trúc đứng và cấu trúc ngang, trong đó quan trọng là cấu trúc ngang, thể hiện mối quan hệ giữa các vùng lãnh
thổ.

×