Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.38 KB, 47 trang )

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Có những nhà văn bước vào nghề do sự thôi thúc của một vốn sống tự nhiên được
tích tụ một cách tự phát từ tuổi ấu thơ. Dù có viết về chủ đề hiện tại, tác phẩm của họ vẫn
đậm đà không khí của những kỷ niệm gắn liền với những phong cảnh, những phong tục
của một quê hương nào đã sinh ra và nuôi dưỡng họ. Những cây bút này nếu sớm thỏa
mãn với mình, không tỉnh táo và chủ động đi sâu vào cuộc sống của ngày hôm nay, thì
sau một thành công tài hoa ban đầu, có thể sa sút một cách nhanh chống như là bỗng
bước một bước hụt trên con đường sáng tác. Nguyễn Minh Châu chắc chắn sẻ không
thuộc một trong những cây bút như thế, Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có tình yêu
thương tha thiết với con người, trong ông luôn mang một mối quan hài thường trực về số
phận những nỗi đau khổ của con người ở xung quanh mình. Nhà văn muốn dùng ngòi bút
của mình tham gia trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác,
đồng thời luôn đặt niềm tin vào con người, ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện ở trong
họ. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu được hình
thành và phát triển trên cơ sở hiểu biết thấu đáo, sâu sắc về con người, đặc biệt là đời
sống tâm lí của con người. Chiều sâu bí ẩn của đời sống bên trong là cái đích mà ngòi bút
Nguyễn Minh Châu hướng đến.
Khảo sát hệ thống nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, có thể thấy rất
rõ những trăn trở tìm tòi của ông trong suốt cuộc đời sáng tác để xây dựng nên những
nhân vật thật tâm đắc nhất. Đặc biệt từ những năm 80, với sự thay đổi cơ bản trong quan
niệm nghệ thuật về con người, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một bước chuyển mạnh mẽ
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặt nền móng cho sự đổi mới văn học sâu sắc, toàn
diện. Từ vai trò của những khách thể với tính cách định hình, nhân vật của Nguyễn Minh
Châu được miêu tả như những chủ thể tự do trong các sáng tác ở thập kỷ 80. Với những lí
do như vậy, đặc biệt xuất phát từ lòng mến mộ tài năng của Nguyễn Minh Châu nên
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU


Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 2

chúng tôi chọn vấn đề “nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu” làm tiểu luận của mình.

2. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu về Nguyễn Minh Châu và Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác
của ông đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của rất nhiều học giả, nhưng mỗi góc
độ nghiên cứu khác nhau và cách lí giải vấn đề cũng có nhiều ý kiến khác xa nhau.
Nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu tác giả Hoàng Thị
Văn từng nói răng: “qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ưu ái đối
với những con người lam lũ, chịu nhiều hi sinh mất mát, nhà văn gửi lại những hiểu
biết, khám phá sâu sắc của mình về thế giới nội tâm con người, về những số phận và
những cuộc đời buồn vui dang dở” (3; 223).
Trong cuốn giáo trình văn học Việt Nam hiện đại tập II, do Nguyễn Văn Long (chủ
biên) nói về đổi mới nghệ thuật tự sự cũng có đưa ra nhận xét: “Nguyễn Minh Châu đã
thành công trong việc sử dụng nhiều thủ pháp khắc họa nhân vật, mà đặc sắc hơn cả
là miêu tả tâm lí, sử dụng độc thoại nội tâm, Từ những nhân vật được định hình, luôn
“trùng khít với chính” nó trong những tác phẩm mang âm hưởng sử thi, nhà văn đã đi
tới khám phá “con người bên trong con người”, phát hiện ra “con người không trùng
khít với bản thân mình” và những quy luật phức tạp của đời sống tâm lí bên trong con
người” (1; 220).
Ở bài viết về Ngưới đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tác giả Huỳnh Như Phương
tưng nói: “Chất sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Minh Châu không được phát huy qua
những trang văn mang âm hưởng phê phán, trào lộng của thói hư tật xấu của người
đời bằng ở những chỗ anh đào sâu ý nghĩa triết lí rút ra từ các hiện tượng đời sông
được miêu tả” (3; 215).
Trong bài viết: Nguyễn Minh Châu và hành trình tìm kiếm không ngừng nghỉ,
Nguyễn Văn Long viết “bên cạnh cái hào sảng và vẻ đẹp đầy chất thơ lãng mạn, trong
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 3

mạch văn của anh vẫn có những nốt trầm xao xuyến rung lên trước những tình đời,
cảnh người. Nguyễn Minh Châu thường nhạy cảm với những cảnh ngộ có phần
ngang trái, không suôn sẻ của số phận và cuộc đời” (2; 254).
Tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu, đã có nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng qua những gì chúng tôi thu thập được nói về vấn đề trên
còn mang tính riêng lẻ, chưa tạo nên một hệ thông nhất định. Chính vì vậy, mà chúng tôi
chọn nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu làm tiểu luận nghiên cứu của
mình, qua đó nhằm để hệ thông hóa lại một cách đấy đủ hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu “nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu” trên ba phương diện cơ bản sau:
- Độc thoại nôi tâm - một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu trong việc khắc họa tâm lí,
tính cách nhân vật
- Miêu tả nhân vật với những yếu tố tâm lí xác thực, tinh tế
- Khắc họa nhân vật qua những chi tiết ngoại hình giàu tính tượng trưng
b. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu, nhằm làm rỏ hơn
về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Mảnh trăng cuối rừng (1970), Bức tranh (1982), Chiếc
thuyền ngoài xa, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Phiên
chợ giát (1989).
4. Mục đích, phương pháp nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những biểu hiện về Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 4


- Việc thực hiện tiểu luận cũng giúp cho tác giả thu thập được một nguồn tài liệu
khá phong phú, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và
chuyên nghành văn học Việt Nam hiện đại.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lấy chủ nghĩa Marx làm nền tảng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tiểu
luận với phương pháp chủ yếu: Thi pháp học, ngoài ra còn sử dụng phương pháp tiếp cận
về mặt xã hội và một số gợi ý của trực giác và một số phương pháp cụ thể sau đây
- phương pháp thống kê – hệ thống
- Phương pháp lịch sử – so sánh
- Phương pháp phân tích – đánh giá
5. Đóng góp của tiểu luận
Tiểu luận sẻ giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về những biểu hiện của Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, tiểu luận sẽ là đóng góp thiết thực vào lĩnh vực lí
luận văn học, mà thể hiện rõ hơn là về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Với những đóng góp như đã nêu ở trên, tiểu luận sẻ là một tài liệu bổ ích cho việc
học tập và nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu.
6. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm có
hai chương:
Chương 1: Nguyễn Minh Châu và hành trình sáng tạo không mệt mỏi.
1.1. Cuộc đời
1.2. Sự nghiệp sáng tác
1.3. Nguyễn Minh Châu và hành trình sáng tạo không mệt mỏi
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
2.1. Độc thoại nôi tâm - một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu trong việc khắc họa tâm
lí, tính cách nhân vật
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 5


2.2. Miêu tả nhân vật với những yếu tố tâm lí xác thực, tinh tế
2.3. Khắc họa nhân vật qua những chi tiết ngoại hình giàu tính tượng trưng






NỘI DUNG

CHƯƠNG I: NGUYỄN MINH CHÂU VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO KHÔNG
MỆT MỎI
1.1: Cuộc đời
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 trong một gia đình nông dân
khá giả, ở làng Thơi thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là con út trong gia dình có
sáu anh chị em, Nguyễn Minh Châu học hành khá chu đáo. Ông học ở quê rồi sau đó
chuyển vào Huế học, đến đầu năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì ông trở về quê và đã
thi đỗ bằng thành chung. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu
tiếp tục học trung học trrong vùng kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh
chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu đã tình nguyện
vào quân đội. Sau một khóa đào tạo ngắn của trường lục quân, Ông đã chuyển về sư đoàn
320 làm cán bộ trung đội. Trong những năm từ 1950 đến 1954, Nguyễn Minh Châu cùng
đơn vị chiến đấu ở vùng đồng bằng bắc bộ. Sau 1954, Ông tiếp tục phục vụ trong quân
đội làm cán bộ tuyên huấn tiểu đoàn.
Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân, 1960 được điều
động về cục văn hóa quân đội, sau đó về tạp chí quân đội vừa làm biên tập vừa làm
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 6

phóng viên. Tại đây, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn

đầu tay nhưng chưa gây được sự chú ý trong giới văn nghệ sĩ. Sự nghiệp văn học của
Nguyễn Minh Châu chỉ thật sự được khẳng định trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ với
hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông(1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn
Những vùng trời khác nhau (1970). Nguyễn Minh Châu đã có nhiều chuyến đi thực tế
chiến trường, từ Quảng Bình, Vĩnh Linh đến đường 9 Nam Lào và đặc biệt là chiến
trường Quảng Trị nơi diễn ra nhiều chiến dịch hết sức quyết liệt trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ. Là nhà văn quân đội, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh kịp thời những hình ảnh
sôi động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc
nhiều thế hệ. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời
sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh, được Ông ghi lại trong nhiều trang
sổ tay và sau này đã trở thành những vấn đề chủ đạo trong sáng tác thời hậu chiến của
chính Ông.
Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền
văn học thời chiến tranh và thầm lặng nhưng dũng cảm và kiên định tìm kiếm con đường
đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy,
Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại những sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nữa đầu những năm 1980 thực sự
là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh
Châu Đã trở thành một trong những người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công
cuộc đổi mới văn học. Khi công cuộc đổi mới đất nước được chính thức phát động,
Nguyễn Minh Châu đã nhiệt thành và tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước
nhà, vừa bằng những phát biểu trực tiếp, mạnh mẽ, vừa bằng những sáng tác đã đạt đến
độ sâu sắc của tư tưởng và sự kết tinh nghệ thuật cao. Con đường đến với nghề văn của
Nguyễn Minh Châu cũng giống với nhiều cây bút cùng thế hệ của Ông như: Nguyễn Thi,
Hồ Phương, Xuân Thiều, Lê Khâm…đó là một thế hệ đã cầm súng trước khi cầm bút và
chính sự trải nghiệm cuộc đời của người lính trong sự gắn bó với nhân dân qua những
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 7

năm tháng chiến tranh đã dẫn họ đến với con đường nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đến

với con đường văn học khá muộn, truyện ngắn đầu tay được in khi Ông đã 30 tuổi và đã
có mười năm trong quân ngũ. Nhưng chính chặng đường 10 năm là sự chuẩn bị cần thiết
cho sự bắt đầu con đường sáng tác của nhà văn.
Về đặc điểm con người Nguyễn Minh Châu, những bạn bè quen biết Ông đều thấy
dưới cái bề ngoài không có gì nổi bật, thậm chí hơi dè dặt, ngần ngại nói trước đám đông
nhưng ở bên trong là một con người nhiều ưu tư trăn trở, có niềm tin vững chắc vào sự
lựa chọn của mình và một ý chí kiên định con đường đã lựa chọn, dám chấp nhận mọi sự
khó khăn, thử thách, có người gọi đó là “sự dũng cảm rất điềm đạm”. Nguyễn Minh Châu
là một nhà văn luôn suy nghĩ về chính công việc viết văn của mình, với ý thức trách
nhiệm của ngòi bút trước thời đại, trước dân tộc và trước bạn đọc.
Nhưng số phận nghiệt ngã với căn bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến hành
trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu phải đột ngột dừng lại khi vừa đạt tới độ chín của
tài năng. Ngày 23 tháng 1 năm 1989 Nguyễn Minh Châu trút hơi thở cuối cùng tại bệnh
viện quân y 108 Hà Nội, Sau gần một năm chống chọi với bạo bệnh, để lai nhiều dự định
sáng tác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối cùng truyện vừa Phiên chợ giát được hoàn thành
ngay trên giường bệnh trước đó không lâu.
1.2: Sự nghiệp sáng tác
1.2.1: Sáng tác từ 1975 về trước
Trước khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bùng nổ trong cả nước, Nguyễn Minh Châu
đã có hơn 10 truyện ngắn và bút ký in trên tạp chí văn nghệ quân đội. Nhưng phải đến
tiểu thuyết “cửa sông” (1967) thì con đường sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu
mới thực sự đình hình. Tiếp đó, tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau” (1970) và
nhất là tiểu thuyết “Dấu chân người lính” (1972) đã đưa Nguyễn Minh Châu vào trong số
những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học chống Mĩ.
“Cửa sông” là cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn thời sự của những ngày đầu đất nước
bước vào cuộc chiến tranh chống Mĩ. Cuộc sống ở một làng quê ở vùng cửa sông ven
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 8

biển miền trung vào những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.

Cuộc sống ở một vùng làng quê vừa yên tĩnh, chủ động vừa khẩn trương khi chiến tranh
xảy ra. Cái mà nhà văn cảm nhận và thể hiện được là sự vững vàng, bình tĩnh của chúng
ta chấp nhận tình thế mới, và điều quan trọng hơn nữa là chính cuộc chiến tranh đã gắn
kết hết thảy mọi người, từ các thành viên trong gia đình ông Vàng đến mọi người dân
làng Kiều, giúp họ vượt qua những ngăn cách để gần nhau hơn trong một tâm trạng
chung, một mối lo toan chung. “Cửa sông” là “Hình ảnh quê hương ta trong chiến
tranh”(Phong Lê)(1.211)
Tiểu thuyết dấu chân người lính (1972) gồm ba phần: Hành quân, Chiến dịch bao
vây và đất giải phóng đã dựng lại những khung cảnh rộng lớn và hào hùng của cuộc
chiến tranh với những cảnh vượt trường sơn của các binh đoàn chủ lực, rồi đến những
chiến dịch Khe Sanh - Tà Cơn với những trận chiến ác liệt trên vùng đất lữa Quảng Trị.
Cùng với việc tái hiện bối cảnh và không khí lịch sử, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã tập
trung khắc họa hình tượng người lính cách mạng với hàng chục nhân vật thuộc các thế hệ
khác nhau. Đông đúc và sinh động nhất là thế hệ trẻ mà tiêu biểu là Lữ, Khuê, Cận. Đến
với quân đội từ những vùng, miền, những hoàn cảnh xuất thân khác nhau, nhưng họ đều
mang những phẩm chất chung của thế hệ trẻ thời ấy: Lòng yêu nước và ý thức trách
nhiệm với tổ quốc, niềm say mê chiến đấu, tâm hồn trong sáng. Dấu chân người lính lôi
cuốn người đọc bằng chất sử thi hào hùng cùng với màu sắc trữ tình lãng mạn, nhất là
những trang miêu tả thiên nhiên, những rung động trong tâm hồn các nhân vật.
Một điều rất đáng chú ý trong hai cuốn tiểu thuyết ở thời kỳ này của Nguyễn Minh
Châu là cùng với việc thể hiện cảm hứng sử thi bao trùm thời đại, nhà văn cũng đã bộc lộ
sự nhạy cảm trước những câu chuyện tình đời, những số phận éo le của con người, dù đó
mới là những âm trầm, nốt lặng xen vào bản giao hưởng hào hùng. Đó là câu chuyện éo
le, khó xử của ông Vàng với hai bà vợ trong cửa sông, là mối tình nồng nàn mà ngang
trái của Lượng và Xiêm, là tình yêu giàu tính lý tưởng mà thầm lặng của Lữ với cô văn
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 9

công Thu Hiền, là nỗi đau của chính ủy Kinh trước cái chết của Lữ, đứa con trai hi sinh
lúc còn quá trẻ trong dấu chân người lính.

Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) gồm bảy truyện ngắn, được
chủ yếu được viết trong những năm đầu chiến tranh chống Mĩ. Tất cả đều là những câu
chuyện, những hình ảnh trong chiến tranh. Cùng với hình ảnh người lính thì đậm nét hơn
cả lại là một số nhân vật phụ nữ, như Thận (Nhành Mai), Bà Mẹ (Bà mẹ xóm nhà thờ),
Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng). Ở tập truyện ngắn đầu tay này, ngòi bút tác giả chưa thật
sự già dặn trong nghệ thuật kể chuyện, tổ chức kết cấu, tạo tình huống. Một số truyện còn
được xây dựng theo mạch kể chuyện khá đơn giản. Đặc biệt hơn cả là truyện “Mảnh
trăng” (về sau, khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là Mảnh trăng cuối rừng). Ở tập
truyện ngắn này cũng đã bộc lộ một số đặc điểm trong bút pháp của Nguyễn Minh Châu
là sử dụng hình ảnh biểu tượng: Nhành mai, Mảnh trăng trong những truyện ngắn cùng
tên, Dòng suối (trong nguồn suối).
1.2.2: Sáng tác từ sau 1975
Nguyễn Minh Châu là nhà văn nhạy cảm với những biến đổi của đời sống xã hội
ngay sau chiến tranh. Hai cuốn tiểu thuyết Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà cùng
xuất bản sau năm 1977 đã mang đến sắc điệu mới trong sáng tác của nhà văn. Miền cháy
là câu chuyện của đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh phải đối mặt với bao nhiêu khó
khăn và thách thức, nhiều cái là hậu quả của chiến tranh, nhiều cái lại nảy sinh sau cuộc
chiến và ngay trong hàng ngũ những người chiến thắng. “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh
cũng phải có đầy đủ trí tuệ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến
tranh”(1.212), đó là điều mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc qua câu chuyện của gia
đình Mẹ Êm và những con người vừa đi ra từ cuộc chiến trên cùng vùng đất khóc liệt
nhất suốt cuộc chiến tranh: Quảng Trị miền đất gánh chịu sự tàn phá, hủy diệt đến từng
thôn xóm, từng tấc đất và sự mất mát đau thương dội xuống mỗi gia đình, mỗi con
người. Ở cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn Minh Châu cũng đã sớm cảnh báo về những ung
nhọt hiểm họa của cái xấu, cái ác đang mộc ra ngay trong hàng ngũ cách mạng ngay sau
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 10

ngày chiến thắng. Nguyễn Minh Châu qua miền cháy còn muốn nêu cao tinh thần hòa
hợp, lòng khoan dung những cái cần phải có lúc này ở mỗi con người nhất là ở những

người chiến thắng để lấp đi những hố sâu ngăn cách, để chung tay xây dựng lại cuộc sống
trên một nước đã phải gánh chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu thuyết “Lửa từ những ngôi nhà” được Nguyễn Minh Châu viết trong những năm
cuối chiến tranh, nhưng phải đến 1977 mới được ra mắt bạn đọc. Qua câu chuyện một
chuyến về phép của người lính từ chiến trường trở về thành phố, hình ảnh của hậu
phương hiện ra không êm ả như nhiều sách hồi đầu chiến tranh miêu tả, mà tiềm ẩn
không ít vấn đề. Đặt người lính vào trong một môi trường sinh hoạt ngày thường ở hậu
phương, Nguyễn Minh Châu cũng đã nhìn nhận họ ở một cự ly gần, thấy cả những thiếu
hụt ở nơi họ và điều như một dự báo về trở ngại đối với những người lính khi họ trở về
sau chiến tranh.
“Những người đi từ trong rừng ra” (1982): Một tiểu đoàn rời khu căn cứ trên rừng
miền tây Thừa Thiên, tiến xuống vùng cửa Thuận An xây dựng thành một đơn vị đánh cá
biển. Những bàn tay người lính hôm qua chỉ quen cầm súng rồi cầm xẻng dò gỡ mìn,
hôm nay đã nắm lấy mái chèo và những vàng lưới học nghề đánh cá biển, đi từ thô sơ
đơn giản đến hiện đại, từ những đội thuyền bằng vó đèn đến những cặp tàu giã, từ trong
lọng vươn ra khơi xa.
Chuyển sang làm nhiệm vụ kinh tế, Hiển chính trị viên tiểu đoàn cũng như nhiều
người khác, mới nhận ra rằng: “Trong đời mình chưa hề làm một nghề gì, chưa bao giờ
phải tự đi làm nuôi thân, chưa bao giờ mình sống bằng một nghề nghiệp gì trong tay” bởi
vì trong một đất nước mấy chụ năm đánh giặc: “Một lớp người rất đông đảo như anh vừa
lớn lên đã vào bồ đội, vừa rời ghế nhà trường đã học cách cầm súng để đánh giặc cứu
nước”. Nguyễn Minh Châu còn đặt những nhân vật người lính của mình vào môi trường
thường nhật với những nhu cầu, những quan hệ phức tạp cả xã hội và riêng tư.
“Mảnh đất tình yêu” (1987); Truyện được trần thuật bằng lời nhân vật Quy theo
cách xen kẻ hồi tưởng và tái hiện, từ lúc còn là một chú bé mồ côi cha khi mới nữa tuổi,
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 11

sống với mẹ và ông ngoại, đến lúc trưởng thành rời làng quê ra thành phố. Qua đó tác
phẩm làm hiện lên nhiều cuộc đời với những số phận lắm truân chuyên của mấy thế hệ

nối tiếp nhau trên một vùng đất trên một cửa lạch đổ ra biển, nơi mà cứ vài ba chục năm
“Trời đất lại vẽ lại bản đồ một lần”, cùng với bao nhiêu biến thiên của chiến tranh và đổi
thay của xã hội. Nỗi bật trong thế giới nhân vật của cuốn tiểu thuyết là ông ngoại và mẹ
của Quy, rồi ông lão Bờ những con người bằng nghị lực phi thường và sự bền bỉ, nhẫn
nại lại vượt lên mọi tai họa, hiểm nguy và thử thách để duy trì sự sống và niềm tin vào
các giá tri nhân bản trên đời. Chính tình thương đã gắn kết mọi con người, mọi số phận
nhiều bất hạnh của họ, để bảo tồn sự sống trước mọi cơn bão táp hủy diệt đến từ thiên
nhiên và xã hội, để mảnh đất đầy sống gió ấy vẫn là mảnh đất tình yêu. Đó cũng chính là
niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào sức sống và các giá trị bền vững của nhân dân.
Bốn tiểu thuyết trên đây đã thể hiện những chuyễn biến trong tư tưởng và nghệ
thuật của Nguyễn Minh châu ở giai đoạn sáng tác sau 1975. Nhưng sự đổi mới của nhà
văn còn được thể hiện đầy đủ và rỏ nét hơn trong các truyện ngắn và truyện vừa của ông,
đồng thời bộc lộ trực tiếp trong nhiều bài tiểu luận và chân dung văn học. Nguyễn Minh
Châu dã mở ra những bình diện mới của hiện thực cùng với những hướng tiếp cận mới.
Sự quan tâm của tác giả hướng vào đời sống thế sự, hàng ngày đang ẩn chứa bao nhiêu
vấn đề của các vấn đề nhân sinh, đạo đức và các số phận con người. Chăm chú quan sát
cuộc sống xung quanh mình, Nguyễn Minh Châu nhận thấy ngày càng có nhiều vấn đề
cần quan tâm và nhà văm muốn: “Dung ngòi bút trợ lực cho con người trong cuộc đấu
tranh cho cái thiện và cái ác trong mỗi con người”(1.215) (Lời phát biểu của tác giả trong
cuộc trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tháng 6/1985).
Thể hiện những điều quan sát ở đơi thường của những người xung quanh, nhà văn
muốn lưu ý mọi người về cách sống, thức tỉnh ở mỗi người nhìn lại những thói quen,
những cách ứng xử với người khác và với chính mình. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
còn là sự chiêm nghiệm về đời người, về bi kịch của những số phận bị chiến tranh “Phạt
ngang làm hai nữa và không thể nào gắn trở lại”. Chiến tranh còn được nhìn nhận ở sự
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 12

tác động tiêu cực của nó đến nhân cách con người như nhân vật Toàn trong “mùa trái cóc
ở miền Nam” chẳng những lạnh lùng, vô cảm trước đồng đội mà còn bất nhẫn với cả

người mẹ bao năm khắc khoải mong được gặp con với nỗi day dứt khôn nguôi.
1.2.3. Đổi mới ý thức nghệ thuật
Từ những cuộc nhận đường gian truân, phức tạp sau cách mạng tháng Tám các nhà
văn Việt Nam đã thấu hiểu: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
nhất định, tức là: phụng sự kháng chiến, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân trước hết
là công – nông - binh”. Là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật , Nguyễn Minh
Châu cùng các đồng nghiệp của ông thời chống Mĩ luôn ý thức được nhiệm vụ của mình
là phải góp sức vào chiến thắng. Ông khẳng định: “Chưa lúc nào bằng lúc này, thái độ
của nhà văn trước vận mệnh chung của dân dân tộc lại đặt ra cấp bách và nghiêm khắc
đến thế”(2.15). Trong thế giới bổ đôi phân cực cùng sự phân định khá rạch ròi giữa hai
trận tuyến, nhân danh cộng đồng, nhân danh công lý và chính nghĩa, các nhà văn dùng
ngòi bút chống lại những kẻ thù cụ thể, hữu hình, đề ra những khuôn mẫu định hình về
nhân cách đạo đức…và do vậy mà chiến tranh tuy gian khổ, ác liệt nhưng việc xác định
nhiệm vụ của nhà văn, sứ mạnh của văn chương lại giản dị, rõ ràng trên một điểm tựa
chắc chắn là lợi ích cộng đồng cùng với niềm tin chiến thắng vào chính nghĩa.
Với nhiệt tình chân thật, với niềm tin trong sáng mãnh liệt vào chính nghĩa và
chiến thắng, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu như “Cửa sông, Dấu chân người lính,
Mảnh trăng cuối rừng”,…đã có sức chinh phục và lôi cuốn kỳ lạ đối với bao thế hệ nối
tiếp nhau lên đường bảo vệ Tổ quốc. Mục đích thiết thực và cấp bách trước mắt có thể
hạn chế những kết tinh nghệ thuật nhưng để hướng tới mục đích nhân văn cao cả nhất lúc
đó là phấn đấu cho sự sống còn của hàng triệu con người, sự tồn vong của đất nước, các
nhà văn đương nhiên phải tạm gác lại những trang viết cho muôn đời để cổ động kịp thời
cho cuộc kháng chiến. Từ cuộc chiến tranh giành quyền sống cho cả dân tộc chuyển sang
cuộc chiến đấu giành quyền sống cho từng con người, nhiệm vụ của nhà văn và văn học
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 13

đã có sự thay đổi. Thay cho một thế giới phân cực là những kẻ thù cụ thể hữu hình trong
chiến tranh là một thế giới tương quan tương thông với bao nỗi đa đoan của cuộc đời và

lòng người, văn học phải tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với tất cả những nẻo
khuất, góc tối, những mầm mống của cái xấu, cái cá đang manh nha trong mỗi con người,
tiến hành cuộc chiến đấu cho cái chân - thiện – mĩ, cho một xã hội công bằng, bác ái.
Giữa những cây bút thời đổi mới, Nguyễn Minh Châu nổi lên như một nhà văn có
tầm nhìn sắc sảo và trái tim trung hậu khi ông lặng lẽ quan sát dòng đời chảy trôi vô tận,
khám phá những đá ngầm và ghềnh thác, khái quát những quy luật vĩnh hằng, những triết
lý nhân sinh, đề xuất những phép ứng xử, bày tỏ dứt khoát tình cảm và thái đọ hoặc căm
phẫn, lên án cái xấu, cái ác(Cơn giông, Mùa trái cóc ở miền Nam,…) hoặc yêu thương,
trân trọng với cái thiện lương tiềm ẩn trong mỗi con người như chi Hạnh (Dọc đường
chiến tranh), chị Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), …Theo nguyễn Minh
Châu: “Cuộc sống trên trái đất này thời nào và ở đau cũng đầy rẫy oan khiên, oan khuất,
cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt, đầy mưu ma chước quỷ, còn cái thiện thì ngu
ngơ và ngây thơ, lại thường cả tin. Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: Để
làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số
phận đên đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị
hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà
văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh
vực”(2.19). Bằng tài năng, tâm huyết và trái tim nhân hậu, chứa chan yêu thương với con
người, những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã góp phần thực hiện một trong những
sứ mệnh nhân văn cao quý nhất của văn chương, phấn đấu cho sự bình yên và hạnh phúc
của con người. Theo Nguyễn Minh Châu, “Tình yêu của người nghệ sĩ vừa là một niềm
hân hoan say mê, vừa là một niềm đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về
số phận, hạnh phúc của những con người xung quanh minh”(2.25). Chính nỗi quan hoài
ấy đã khiến các nhà văn có sự đồng cảm và xót thương thực sự đối với những số phận
trong cuộc đời. Những sáng tác sau chiến tranh của Nguyễn Minh Châu cũng giành một
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 14

mảng quan trọng cho những kiểu nhân vật điển hình như vậy. Đó là nỗi xót xa cho người
mẹ bất hạnh có đứa con trai mất hết tình người, sống những ngày cuối đời trong cảnh

hành khất ngửa tay xin tình thương của thiên hạ (Mùa trái cóc ở miềm Nam); là niềm
cảm thương cho số phận người đàn bà hàng chài bất hạnh (Chiếc thuyền ngoài xa); và
ngay cả những mẫu hình đẹp đẽ của sự thủy chung, nhân hậu, của những khát vọng và
hoài bão cao cả như Phi Phi, Thai (Cỏ lau), Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành).
Những nhân vật ấy cũng không đẩy lên đến đỉnh cao lý tưởng, họ đứng giữa đời thường
với những nỗi đau khó lòng xoa dịu, những nỗi niềm khó có thể sẻ chia và số phận của họ
khiến người đọc không khỏi động niềm trắc ẩn. Khảo sát các nhân vật của Nguyễn Minh
Châu, đặc biệt là các nhân vật tư tưởng, có thể thấy ông đã có ý thức tôn trọng logic vận
động và phát triển nội của nhân vật. Trong dòng ý thức miên man, lộn xộn của Lão
Khúng, trong những cuộc tra tấn tinh thần của người họa sĩ, người thủ thành sắp từ giả
cõi đời…trong những trăn trở day dứt của Lực (Cỏ lau), của Nhĩ (Bến quê), nhân vật tự
bọc lộ tâm hồn nhân cách như những chủ thể tự nó có ý thức., không phụ thuộc vào ý
muốn của nhà văn. Tính độc lập tương đối ấy khiến cho nhân vật chân thực và giàu sức
thuyết phục, có khả năng lôi cuốn người đọc vào hành trình tư tưởng cùng nhân vật mời
gọi người đọc tiên liệu về diễn biến trong nhân cách, số phận nhân vật ở phạm vi giả
thuyết ngoài tác phẩm.
Tôn trọng tính chân thực và toàn vẹn của một hiện thực đang diễn tiến, các nhân
vật văn học của Nguyễn Minh Châu đã được đưa về gần với cuộc đời hơn, giàu sức
thuyết phục hơn trong vị thế bình đẳng và độc lập tương đối của chúng. Với Nguyễn
Minh Châu, trong các sáng tác ở thập kỷ 80, hình tượng tác hiện lên rất rỏ qua một loạt
các quan niệm mới mẻ, những chiêm nghiện, suy tư triết lí và đặc biệt thông qua một số
hình tượng nhân vật, ông đã đưa ra những linh cảm dữ dội, những giả thuyết đọc đáo về
con người và cuộc đời. “Phiên chợ giát” không chỉ hoàn thiện thêm chân dung tính cách
người nông dân trong sự tiếp nối “Khách ở quê ra” mà còn đưa ra những linh cảm về thân
phận của họ, khiến tác phẩm trở thành “những dấu hỏi lớn còn treo lơ lững trước cả xã
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 15

hội và từng số phận con người”.Mối liên hệ giữa cuộc sống, số phận và tính cách của
người nông dân Việt Nam đã tạo ra vòng tròn luẩn quẫn trong cuộc đời những người như

Lão Khúng: Họ là nạn nhân của cuộc sống nghèo khổ, trì trệ và u tối đồng thời cũng là tội
nhân của chính mình khi làm trì trệ và u tối thêm cuộc sống nghèo khổ ấy. Đây là cách
nhìn mới mẻ và táo bạo của Nguyễn Minh Châu, thể hiện quan niệm rất riêng của nhà
văn đối với con người nói chung và người nông dân nói riêng. Ông còn góp vào văn học
một dự cảm về sự bất ổn đối với những bước đi hiện tại trong quá trình đô thị hóa. Để thể
hiện tính tích cực của một chủ thể nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu không chỉ gửi gắm ý
tưởng trong các hình tượng nhân vật, ông còn bộc lộ quan điểm cá nhân thông qua những
phát ngôn trực tiếp ngay giữa dòng trần thuật (Bến quê, Mẹ con chị Hằng,…). Cũng có
khi trong vai trò chủ thể đã được “nhân vật hóa”, nhà văn càng dễ dàng bày tỏ quan điểm,
nhận xét, đánh giá của mình với con người và cuộc sống (Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành, Mùa trái cóc ở miền Nam, sắm vai,…).
Hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đều để trống những lời đánh giá.
Cuộc sống được nhà văn được nhà văn miêu tả trước mắt bạn đọc trong sự chảy trôi bình
thản của dòng đời. Từ những quan hệ mẹ con, vợ chồng, hàng xóm (Mẹ con chị Hằng,
Người đàn bà tốt bụng,…), từ những cái trớ trêu của tạo hóa đặt bên cạnh những giới hạn
nghiệt ngã không thể vượt qua trong cuộc sống (Hương và Phai), những nghịch lí cay
đắng của cuộc đời (Bến quê)…tất cả đều được trình bày một cách tự nhiên và giản dị tạo
nên một cảm giác khách quan từ phía chủ thể sáng tác. Người đọc tự tìm cho mình những
bài học, khái quát những quy luật và sự đánh giá nhận xát tùy theo quan niệm, vốn sống
của mỗi người.
`1.3. Nguyễn Minh Châu và hình trình sáng tạo không mệt mỏi
Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trải qua gần 30 năm với hai
giai đoạn chính đó là trước và sau 1975, hành trình này nó gắn liền với hai giai đoạn của
nền văn học hiện đại Việt Nam.
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 16

1.3.1. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu
Đây là vấn đề cốt lõi của ý thức nghệ thuật, chi phối toàn bộ hệ thống quan niệm

nghệ thuật của nhà văn, sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người chính là quá trình
vận động biện chứng của ý thức nghệ thuật cho phù hợp với đặc điểm của lịch sử - xã
hội. Từ sự ưu tiên tối thượng cho lợi ích cộng đồng trong hoàn cảnh chiến tranh đến sự
quan tâm dến từng con người cá nhân trong cộng đồng. Việc chuyển đổi mối quan tâm
của văn học chính là nguyên nhân chi phối sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con
người, bởi nó đồng nghĩa với sự thay đổi vị thế của con người trong văn học: Từ vai trò
lá điểm nhìn để nhà văn quan sát lịch sử - xã hội trở thành đối tượng quan sát của nhàvăn.
Khi là điểm nhìn để nhà văn quan sát lịch sử - xã họi, con người được thể hiện chủ yếu ở
bình diện xã hội trong những mô hình giản đơn và vận động xuôi chiều. Sự quan tâm đến
số phận của cộng đồng, ca ngợi những phẩm chất của cộng đồng là nét đặc thù của nền
văn học mang tính sử thi, cũng là đặc điểm của nền văn học viết về chiến tranh trong
chiến tranh. Nhà văn thông qua con người để quan sát bức tranh hoành tráng của lịch sử -
xã hội, thông qua những đại diện của cộng đồng để khám phá vẻ đẹp, sức mạnh và số
phận cộng đồng. Nhân vật văn học luôn đặt trong mối quan hệ với hoàn cảnh lớn của lịch
sử - xã hội, được quan sát từ lăng kính của cộng đồng, được đánh giá bằng thước đo giá
trị của cộng đồng, được khám phá chủ yếu ở bình diện con người xã hội. Con người mới
trong văn học lúc đó là con người biết xả thân vì nghĩa lớn, biết đặt cái chung của tập thể,
của dân tộc lên trên cái riêng nhỏ bé của cá nhân. Biền (Tầm nhìn xa), Nhẫn (Cỏ lau),
Ông năm Hạng (Ông năm Hạng), bà Cà Xợi (Hòn đất)…là những con người như thế. Ý
thức cộng đồng để giúp họ điều chỉnh cách sống, những tình cảm máu thịt, những quan
hệ riêng tư, dù sự giằng xé đau đớn nhiều khi không tránh khỏi. Sự khắc nghiệt của chiến
tranh dẫn đến hình thái của một thế giới phân cực với hai tuyến địch - ta, tốt - xấu rỏ
ràng. Đối tượng khám phá và phản ánh lớn nhất trong các sáng tác của Nguyễn Minh
Châu là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của một dân tộc vĩ đại, “cuộc chiến tranh bao giờ
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 17

cũng chồng chất biến động và sự kiện mà con người bình thường không phải bao giờ
cũng làm được, thấy trước được”. Với những đại diện ưu tú như Kinh, Lữ (Dấu chân
người lính), Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng) cùng cuộc sống chiến đấu của họ, Nguyễn

Minh Châu đã tái hiện được phần nào bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc những
ngày chống Mĩ, khắc họa vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ và sức mạnh tiềm ẩn trong con người
Việt Nam. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu tương đối “tĩnh” hơn về tâm hồn và tính
cách, Khuê, Nguyệt, Lữ, Thùy,…dường như là những lát cắt ngang của chân – thiện – mĩ
trong mỗi con người Việt Nam những năm tháng chiến tranh hào hùng, oanh liệt của lịch
sử dân tộc.
Với cách nhìn con người ở chiều sâu nhân bản, nhân vật của nguyễn Minh Châu
nhiều khi vẫn được soi rọi trong những luồng ánh sáng khác nhau và ngòi bút giàu chất lí
tưởng của ông vẫn không hoàn toàn giản đơn trong hành trình đi tìm cái đẹp. Vẫn có một
cái gì đó xa vời và bí ẩn, khó nắm bắt ở bề sâu tâm hồn con người như Nguyệt (Mảnh
trăng cuối rừng), Lữ (Dấu chân người lính) khơi gợi khát khao kiếm tìm, khám phá. Mỗi
con người vừa là thành viên của một thể chế xã hội, cũng là một con người cá nhân trong
mối quan hệ với chính mình, gia đình, người thân và bạn bè…là đối tượng của văn học,
con người phải được nhìn nhận như một nhân cách đích thực và toàn vẹn, được soi ngắm
từ nhiều mối quan hệ, được thừa nhận ở mọi giá trị liên quan tới con người mà trong đó
giá trị xã hội chỉ là một nhân tố. Nhìn con người trong tính toàn vẹn, tổng thể Nguyễn
Minh Châu và các nhà văn sau chiến tranh đã lấy con người làm đối tượng quan sát, phản
ánh và là giá trị cao nhất với chính con người. Đó cách nhìn dựa trên nền tảng của triết
học nhân bản, giúp nhà văn khám phá con người sâu sắc, toàn diện hơn, sự phản ánh thấu
tình đạt lí và chính xác hơn. Mở rộng bình diện khám phá con người cũng đồng nghĩa với
sự thừa nhận những giá trị khác nhau của con người, đồng nghĩa với việc đánh giá con
người bằng thước đo giá trị nhân bản.
Với cái nhìn thấu hiểu sắc sảo và từng trải độ lượng, Nguyễn Minh Châu đã hướng
tới những biểu hiện đầy biến động của các quá trình tư tưởng, tình cảm, tâm lí để nắm bắt
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 18

cái con người đích thực ở trong con người. Sự nắm bắt ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu tái
hiện chân thực cái bản ngã trong mỗi con người bao gồm sự hiện hữu song hành của cái
xấu và cái tốt, sự cao cả và cái thấp hèn, bản tính thiện và cái hoang dã, u tối, lí trí và bản

năng…cùng cuộc giao tranh giữa chúng.
Với quan niệm con người cá nhân “vừa là thành viên của xã hội,…vừa là một cá
nhân được ý thức trong mọi khả năng phát triển về tinh thần, về năng lực sáng tạo trong
mọi thực tế của nó” các nhà văn thời hậu chiến trong đó có Nguyễn Minh Châu luôn đề
cao và thức tĩnh sự tự ý thức của con người, coi đó không chỉ là biểu hiện thái độ tôn
trọng con người mà còn là phương cách hữu hiệu để nhà văn “dời chổ vào nhân vật”,
“tìm ra con người bên trong con người…miêu tả toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con
người”. Tâm lí thời đại đã khiến người ta muốn làm đại diện cho cái chung của cộng
đồng hơn là khẳng định sự hiện hữu của bản ngã, ý thức cá nhân hòa tan trong ý thức
cộng đồng một cách nhiệt thành và tự nguyện. Nói như một nhân vật của Nguyễn Minh
Châu lúc đó thì tất cả mọi cá nhân “sẳn sàng đổi mọi thứ khả năng khác nhau riêng của
mình để lấy một khả năng riêng quân sự” bởi vì “lúc này, không có một thứ tài năng nào
quý bằng tài năng đánh giặc, không có một thứ chuyện nào hay bằng chuyện nói với
thằng Mĩ bằng súng đạn đâu”. Có thể nhận thấy nỗi niềm thường trực và ngày càng da
diết trong trái tim nhân ái của Nguyễn Minh Châu, thậm chí trở thành mạch cảm hứng
chủ đạo bao trùm phần lớn những trang viết cuối đời của ông là sự trăn trở khôn nguôi về
số phận con người cá nhân. Cuộc đối thoại giữa hai nữa phân thân của người họa sĩ trong
truyện ngắn “Bức tranh” cũng đã đề cập đến một vấn đề bức bối: mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng, quyền lợi riêng của cá nhân trong quan hệ với quyền lợi của cộng
đồng. Đã có một thời, sự hi sinh cao quý, cần thiết của quyền lợi cá nhân cho cộng đồng
đã làm người ta lãng quên, thậm chí vô tình mà bất công , tàn nhẫn với những đòi hỏi
chính đáng của con người.

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 19

1.3.2. Đổi mới nhận thức về quan niệm hiện thực
Hiện thực bao trùm và bức xúc nhất của giai đoạn trước 1975, là hiện thực của đời
sống chính trị xã hội với hai nội dung chính: cuộc chiến tranh vệ quốc và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây chính là “mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những diễn

biến quan trọng nhất của đời sống xã hội, thể hiện những nét bản chất nhất của thời kì
lịch sử đó”. Do đó mà nó trở thành đề tài trung tâm mà văn học thời kì này tập trung phản
ánh, hoàn toàn là một định hướng đúng đắn phù hợp với vận nước và lòng dân, phù hợp
với chức năng cao quý của văn học khi đảng ta khẳng định: “Tổ Quốc và chủ nghĩa xã
hội là đề tài cao đẹp nhất trong văn học nghệ thuật nước ta hiện nay”. Tiếp nhận những
định hướng đúng đắn ấy, bản thân người cầm bút đã tự xác định nguồn đề tài - phạm vi
hiện thực phản ánh để có thể hòa nhập vào dòng thác vĩ đại của lịch sử dân tộc. Là một
nhà văn quân đội, ngay từ những năm 60, Nguyễn Minh Châu đã gắn bó máu thịt với đề
tài chiến tranh. Sau một số truyện ngắn viết về người lính đăng trên tạp chí vă nghệ quân
đội, năm 66 ông đã cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết Cửa sông , năm 70 in tập truyện ngắn
Những vùng trời khác nhau và năm 72 tiểu thuyết “Dấu chân người lính” ra đời như là sự
hoàn thiện bức chân dung đầu tiên của một nhà văn - chiến sĩ. Với mảng hiện thực hào
hùng, tươi mới của cuộc chiến tranh giải phóng, Nguyễn Minh Châu đã thực sự làm trọn
sứ mệnh của nhà văn - chiến sĩ của mình, góp một một khúc ca hào tráng vào bản anh
hùng ca vĩ đại của dân tộc. Theo dấu chân người lính trên con đường ra trận, Nuyễn Minh
Châu đã khám phá ra vẻ đẹp của những con người anh hùng mà bình thường ấy, lí giải
nguyên nhân của sức mạnh Việt Nam trong trận chiến không cân sức với một kẻ thù
mạnh hơn gấp bội. Với Nguyễn Minh Châu ông rất thận trọng và chắc chắn, ông đã từng
bước “lấp đi mảng yếu trong văn học viết về chiến tranh, đó là mảng đề tài viết về cuộc
sống hàng ngày, là số phận cá nhân trong cộng đồng”. Trăn trở những năm đầu sau chiến
tranh, khi Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn bắt đầu trình làng những mảnh đất mới khai
phá qua một số tác phẩm gây được sự chú ý của dư luận thì Nguyễn Minh Châu tiếp tục
những bước đi thận trọng trong mảng hiện thực chiến tranh quen thuộc dù cách nhìn điềm
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 20

đạm, trầm lắng hơn, những góc nhìn “đời” hơn. Với Nguyễn Minh Châu đề tài chiến
tranh vẫn là “mảnh đất mùa mỡ”… “bao la và có một chiều sâu vô tận cho sự khám phá
và sáng tạo”. Nhưng sau chiến tranh, ông cho rằng mình phải “có một cái nhìn đầy đủ
hơn, không phải chỉ một mặt mà trên tất cả các mặt của cuộc sống kháng chiến vô cùng

ác liệt và đa dạng như nó vốn có”. Nguyễn Minh Châu đã tìm đến những mảng hiện thực
bề bộn của đời thường, chiếu sáng những mảnh vụn bất ngờ nào đó bằng ánh sáng của sự
phân tích sắc sảo và ý thức trách nhiệm với cuộc đời. Nếu thể tài đời tư giúp Nguyễn
Minh Châu mở ra khoảng rộng mênh mông của hiện thực thăng trầm trong số phận con
người thì thể tài thế sự lại giúp ông đào sâu những tầng ngầm bí ẩn của quy luật nhân
sinh. Đối tượng phản ánh của văn học được mở rộng dần từ một hiện thực giới hạn trong
đời sông chính trị xã hội đến một hiện thực đa dạng của cuộc sống nhân sinh, thế sự.
Trong xu hướng vận động chung của văn xuôi Việt Nam những sau chiến tranh, Nguyễn
Minh Châu thực sự trở thành một trong những người mở đường xuất sắc bởi sự đổi mới
điềm đạm nhưng toàn diện, sâu sắc trong cả tư tưởng nghệ thuật lẫn sáng tác văn chương.
Những sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kì này cũng không nằm ngoài chủ đề
lớn lao bao trùm toàn bộ nền văn học lúc đó. Từ những trang viết êm ả, hiền hòa như
“Cửa sông”, thơ mộng trong trẻo như “Mảnh trăng cuối rừng”, hay hoành tráng, hào hùng
như “Dấu chân người lính”,…tất cả đều hướng tới cảm hứng ca ngợi và khẳng định cuộc
kháng chiến vệ quốc vĩ đại cùng những con người bình thường sẳn sàng hi sinh cho đất
nước, cho nhân dân. Phả ánh hiện thực trong xu thế vận động đi lên của lịch sử, đặc biệt
chú trọng những xung động thẫm mĩ cùng chiều, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu
phần lớn diễn biến trong mô hình của những thiên anh hùng ca thời chống Mĩ. “Bầu
không khí vô trùng” không chỉ bao bộc các nhân vật của Nguyễn Minh Châu, nó còn bao
bộc cả những tác phẩm văn học của ông, đem đến cho bạn đọc những món ăn đơn sơ mà
thanh khiết cùng niềm tin trong trẻo và mạnh mẻ vào cuộc đời, vào chiến thắng. Cách
phản ánh và lí giải hiện thực theochuẩn mực duy nhất của kinh nghiệm cộng đồng, vì lợi
ích cộng đồng với những đường biên rỏ ràng, xác định sẻ tỏ ra khiên cưỡng khi chiến
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 21

tranh đi qua, cuộc đời trở lại nhịp sống bình thường trong dòng chảy bộn bề, dang dở và
diễn biến khôn cùng. Những lời cảnh tỉnh nhẹ nhàng, những trách cứ nghiêm khắc,
những thức nhận cay đắng, những chiêm nghiệm xót xa…tất cả đều tồn tại trùng điệp
trong “Bến quê, Hai con nhóc, Mẹ con chị Hằng”…số phận con người, sự tàn khóc của

chiến tranh, mối quan hệ khắc nghiệt giữa khả năng và khát vọng, giữa thực tại và ước
mơ…đó cũng chính là những tầng nghĩa đan xen trong “người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Cỏ lau, Phiên chợ giát”…không chỉ nới rộng hiện thực bằng những tầng bậc chủ đề
đa nghĩa, cùng với các nhà văn sau 1975, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã bổ
sung thêm những mô típ chủ đề mới, gần như trống vắng trước đây.
Phản ánh hiện thực trong sự vận đọng xuôi chiều lạc quan khiến “hiện thực văn
học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hi
vọng, đang mơ ước”. Cách phản ánh và lí giải hiện thực sẻ phù hợp với xu thế vận động
đi lên của lịch sử xã hội hơn là sự bao quát toàn vẹn những mảng hiện thực đa chiều cụ
thể, một hiện thực được lí tưởng hóa sẻ phù hợp với vòng nguyệt quế của chiến thắng
nhưng phần nào lại che mờ con đường cam go, khúc khuỷu để đi tới chiến thắng. Sự đổi
mới cách tiếp nhận hiện thực của Nguyễn Minh Châu đã có nền tảng lâu bền từ trong
chiến tranh, khi ông muốn “ôm cho hết vòng tay của mình” cái hiện thực bề bộn của cuộc
sống, để người đọc “bắt gặp những dáng dấp và nhịp sống thực của họ trên trang sách”
nay gặp vận hội mới đã trở thành sự đổi mới toàn diện, sâu sắc, đồng bộ, từ mảng tiểu
luận, phê bình đến sáng tác trong một loạt các bài tiểu luận: “Viết về chiến tranh” (78),
“Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh” (79), “Nhà văn, nhân vật, bạn đọc, văn học
và cách mạng, hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa” (87),…Nguyễn
Minh Châu đã bộc lộ khá rõ quan điểm sáng tác của mình dựa trên cảm hứng tôn trọng
hiện thực, khám phá bề sâu hiện thực sinh động và toàn vẹn, tái hiện bức chân dung chân
thực của những con người “tráng kiện, đa dạng và đầy từng trải”… “những chặng đường
mà dân tộc ta trải qua phải tuân theo những quy luật phát triển của cách mạng và chiến
tranh, nghĩa là khúc khuỷu, quanh co trước khi đi đến thắng lợi cuối cùng” (2; 84).
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 22

CHƯƠNG II: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU

2.1. Độc thoại nội tâm - một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu trong

việc khắc họa tâm lí, tính cách nhân vật
Môtưlôva đã nêu lên những hình thức của độc thoại nội tâm như sau: “nó xuất hiện
như diễn từ không biểu đạt thành lời của các nhân vật; hoặc như diễn từ của tác giả, nhân
danh mình mà nói, nhưng có thể coi như đã mượn từ vựng và giọng điệu của nhân vật;
hoặc như đối thoại bên trong ở đó giọng nói của nhân vật bị xẻ làm đôi thành hai dòng
phân biệt và đối nghịch; nó xuất hiện dưới hình thức một chuỗi kết luận có tổ chức cũng
như qua những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn” (4; 56). Đọc thoại nội tâm là tiêng nói bên
trong của nhân vật, là lời nhân vật tự nói với mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín, “thể
hiện trực tiếp quá trình tâm lí, nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con
người trong dòng chảy trực tiếp của nó”. Ở nước ta, độc thoại nội tâm đã được đại thi hào
Nguyễn Du sử dụng từ thế kỉ XVIII nhằm để phân tích tâm lí, khắc họa tính cách nhân
vật Kiều, Hoạn Thư…, đến giai đoạn văn học 30 – 45 thì Nam Cao cũng tỏ ra đặc biệt
thành công khi dùng độc thoại nội tâm để xây dựng những tính cách điển hình như Chí
Phèo, Bá Kiến, những nhân vật hay suy tư, sám hối như Hộ, Điền, Thứ…trong giai đoạn
văn học 45 – 75, do hoàn cảnh của cuộc chiến tranh vệ quốc, con người được đặt trong
những không gian xã hội, trong mối quan hệ với hoàn cảnh lớn của lịch sử dân tộc , làm
việc, chiến đấu, rèn luyện và phát triển nhân cách trong sự tác động của hoàn cảnh bên
ngoài. Bị cuốn theo dòng thác mãnh liệt, lớn lao của lịch sử, họ ít có điều và nhu cầu
sống riêng với bản thân mình trong những suy tư, trăn trở của đời sống nội tâm. Nhà văn
và người đọc đứng ngoài quan sát, chiêm ngưỡng các nhân vật văn học với những phẩm
chất, những tính cách mà họ đang dần bộc lộ theo diễn biến của hoàn cảnh bên ngoài,
trong những hành động hướng ngoại.
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 23

Những sáng tác sau năm 1975, hướng tới con người trong bản chất người, trong
những mối quan hệ phức tạp của cái thế giới tương quan, tương thông, nhà văn không chỉ
đóng vai trò khách quan, đứng ngoài quan sát, miểu tả nhân vật chỉ bằng những hành
động hướng ngoại, mà con phải để nhân vật trở thành những “chủ thể” tự soi chiếu, phán
xét bởi ý thức hướng nội. Chính với thủ pháp độc thoại nội tâm đã trở thành phương tiện

hữu hiệu giúp Nguyễn Minh Châu phơi bày nội tâm nhân vật, miêu tả nó từ bên trong, len
lỏi vào bề sâu tâm lí nhân vật với những diễn biến phong phú, phức tạp, bí ẩn của nó.
Bakhtin đã từng nói “không thể biến con người sống thành một khách thể câm lặng,
khách thể của một nhận thức vắng mặt, một nhận thức hoàn kết. Ở con người bao giờ
cũng có một cái gì đó mà chỉ bản thân nó mới có thể khám phá bằng hoạt động tự do của
sự tự ý thức và của lời nói, điều này không thể xác định được từ bên ngoài, từ sau lưng
con người” (4; 68). Phải để nhân vật tự nói về mình, đó là đổi mới đầu tiên trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu. Đã đến lúc không thể chỉ “tạo hình
khách thể” bởi những nhận xét “sau lưng” căn cứ vào những hành động hướng ngoại của
nhân vật. Để tiến tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân – điều kiện đảm bảo cho sự hoàn
thiện của cộng đồng, cần phải thực sự tôn trọng sự tự hoàn thiện của họ trong những
giằng xé đau đớn, những cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng của nhân vật. Trong dòng
độc thoại nội tâm nhân vật còn phải phân thân, đối thoại với chính mình để trăn trở kiếm
tìm chân lí, vươn tới sự hoàn thiện của cá nhân. Cả dòng độc thoại nội tâm và những cuộc
độc thoại trong nội tâm đều đã được Nguyễn Minh Châu sử dụng rất “đắc địa” để khắc
họa tâm lí, tính cách của nhân vật. Nguyễn Minh Châu miêu tả độc thoại nội tâm phần
lớn đối với những nhân vật tư tưởng hoặc tính cách, đặc biệt là loại nhân vật suy tư - sám
hối như nhân vật họa sĩ (Bức tranh), nhà văn (Một lần đối chứng), người thủ thành già
(Dấu vết nghề nghiệp), Hạng trong truyện ngắn cùng tên…để khám phá tâm hồn, tính
cách hoặc gửi gắm những thông điệp tư tưởng bằng độc thoại nội tâm, các nhà văn
thường có xu hướng thông qua những nhân vật ở ngôi thứ ba hơn là ngôi thứ nhất. Nhân
vật tự xưng “tôi” với thủ pháp độc thoại nội tâm mới chỉ xuất hiện qua một vài truyện
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 24

ngắn của nhà văn Nam Cao trong (Cái mặt không chơi được, Mua nhà, Đôi mắt…), hay
trong Mẫn và tôi của Phan Tứ độc thoại nội tâm của nhân vật Thiêm thực chất chỉ là
phương cách cụ thể hóa tâm lí, tính cách cộng đồng. Còn nhân vật “tôi” trong các sáng
tác của Nguyễn Minh Châu như trong “Một lần đối chứng, chiếc thuyền ngoài xa, Bức
tranh”,…coi như đó là sự tiếp nối và sáng tạo, nó là một đóng góp quan trọng của

Nguyễn Minh Châu vào việc dùng độc thoại nội tâm để khắc họa nhân vật. Trong “Một
lần đối chứng”, nhân vật người kể chuyện được đặt trong vai trò một ông bố yêu con, một
nhà văn nhạy cảm, thông minh, có cách quan sát suy luận vừa logic, sắc sảo, vừa thấu đạt
nhân tình. Trong truyện ngắn “Bức tranh”, nhân vật được đặt vào một tình huống éo le
khiến anh ta không thể không tự ngẫm nghĩ, tự phán xét những hành động, những quan
niệm sống vốn có của mình trong những xung đột dữ dội. Nhân vật tôi được tác giả đặt
vào các mối quan hệ của hoàn cảnh “không ngờ”, hết sức “khó xử” đến mức trớ trêu: Lần
thứ nhất vừa lạnh lùng từ chối vẽ bức chân dung anh chiến sĩ giao liên trưa hôm trước thì
sáng hôm sau lại chính anh chiến sĩ đó nhận nhiệm vụ đến “thồ” tranh cho mình vượt qua
một chặng đường nguy hiểm.; lần thứ hai, từ chiến trường ra, sau khi tham dự triển lãm
tranh và trở thành người nổi tiếng, đã quên khuấy lời hứa đem bức tranh đến trao tận tay
người mẹ của anh chiến sĩ thì bất ngờ gặp lại không phải ai khác mà chính là người đang
cắt tóc cho mình. Đó là hai hoàn cảnh mà một người “xưa nay…vẫn cho mình là một kẻ
biết tự trọng, và cũng biết suy nghĩ” tất yếu sẻ không thể làm ngơ. Hai tình huống đặc
biệt ấy là điều kiện tương ứng với hai lần nhân vật “tôi” thức tỉnh. Lần thứ nhất nhân vật
“tôi” can đảm xin lỗi người chiến sĩ về việc từ chối vẽ bức chân dung, lần thứ hai: khi ở
trong hiệu cắt tóc, bằng linh cảm và trí nhớ họa sĩ đã nhận ra người chiến sĩ năm xưa và
lúc ấy “chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt
tóc”. Trước tình huống này của nhân vật, dường như nhà văn cảm thông đến ái ngại, nên
đã dùng một đoạn chuyển tiếp có tính chất trữ tình ngoài đề có giá trị như một lời biện
giải tinh tế và mềm mại, nhằm hợp lí hóa tình huống câu chuyện và cắt nghĩa hoàn cảnh:
“có bao giờ bạn dọn nhà không? Khi người ta phải thay đổi chổ ở, có những thứ đồ đạc
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Cao Xuân Đồng _ ĐHSP Văn Sử K50 25

tưởng mất biến đi từ lâu, lục lọi, tìm kiếm mãi không thấy, thì tự nhiên lòi ra mãi trong
tận góc tủ, dưới gậm giường” (3; 194). Khi độc qua ta có cảm giác như là hơi lạ một chút
nhưng thực ra đó là một cách biện giải khôn khéo của nhà văn trước tình huống ái ngại
của nhân vật “tôi” cũng tựa kỷ niệm về một lần khó xử và lời hứa khi xưa với người
chiến sĩ bây giờ hiện diện, như một đối chứng hùng hồn với người họa sĩ vậy.

Sự cất vấn trong nhân vật họa sĩ được diễn ra trên cái nền của ký ức xô lệch, mà
sức mạnh của ký ức hồi quang như một thứ thuốc hiện hình mậu nhiệm, khiến cái bối
cảnh của cái đêm chiến tranh đã sống lại nguyên vẹn trong ông. Bối cảnh ấy được xác
định gắn liền với tâm trạng cụ thể: ông chả từng “rưng rưng” xúc động khi nghe người
chiến sĩ kể chuyện về người mẹ khi nhầm tưởng anh đã hi sinh; …Tương ứng với hai lần
khó xử là hai lần cắt nghĩa hoàn cảnh của nhân vật, lần thứ nhất là do người họa sĩ bỗng
thấy tự ái ngại, lần thứ hai được cắt nghĩa bởi chính hoàn cảnh…Nếu như nhà văn tìm ra
một cách nào đó để làm thay đổi ý nghĩ của nhân vật “tôi” làm lí do biện giải cho sự thất
hứa thì câu chuyện chắc hẳn sẻ phát triển theo chiều hướng khác. Nhưng nhà văn đã từng
khẳng định: “không, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh” đặt nhân vật vào tình thế “không còn
chổ trú nấp”, tình thế buộc phải bộc lộ ra cảm giác “da mặt tôi cứ dày lên” và bỗng thấy
“có lẻ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một thế kỷ”. Theo dõi toàn bộ cuộc đối
thoại từ khi gặp, anh thợ cắt tóc không hề có biểu hiện gì nguy hại đến tính mạng của
mình, nhưng họa sĩ vẫn luôn dường như bất ổn. Đó là bối cảnh hợp lí cho một cuộc đối
chất của tòa án lương tâm, những cuộc truy đuổi rống riết và đơn phương, thực tế là
người họa sĩ tự truy đuổi chính mình, truy đuổi đến tận cùng nguồn lệch và góc khuất của
lối mòn công thức, sự cao ngạo, vô tâm, thói xấu và sự ngụy biện. Cuộc tự vấn lương tâm
bị đẩy lên đỉnh điểm thông qua đoạn đối thoại trong tưởng tượng: một bên là người họa
sĩ, một bên là người lính sau cuộc chiến tranh - nhưng cốt lõi là sự thể hiện quan điểm
nghệ thuật của tác giả về sự thể hiện vẻ đẹp của cuộc sống, về lòng tin đối với con người,
về tính nhân bản là đích cuối cùng mà nhà văn hướng tới.

×