Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

phát triển hệ thống bán lẻ của tổng công ty thương mại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 127 trang )

- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 01/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Cùng với những cơ hội mà quá trình hội nhập
mang lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đứng trước những khó khăn và thử
thách không nhỏ, đó là áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài và một
trong những lĩnh vực chịu áp lực cạnh tranh lớn nhất đó chính là dịch vụ phân phối
bán lẻ.
Tổng Công ty Thương mại Hà Nội là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Uỷ
ban nhân dân Thành phố Hà Nội hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kinh
doanh dịch vụ và phân phối bán lẻ, trong đó hoạt động phân phối bán lẻ đóng vai
trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Tổng Công ty. Toàn bộ hoạt động
phân phối bán lẻ của Tổng Công ty được thực hiện thông qua hệ thống bán lẻ. Tính
đến thời điểm này, hệ thống bán lẻ của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội có tới
trên 400 địa điểm kinh doanh tập trung hầu hết trên địa bàn nội thành Hà Nội. Tuy
nhiên, nhìn chung các địa điểm này đều nhỏ, lẻ, manh mún, kinh doanh không hiệu
quả hoặc bị sử dụng sai mục đích dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Vì vậy,
trước áp lực cạnh tranh từ chính các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng như sự
xuất hiện của các tập đoàn kinh doanh bán lẻ quốc tế khổng lồ tại Việt Nam như
Metro, Bourbon, Parkson và sắp tới là Walt-mart, Carefour, 7-Eleven… đã tạo ra
một áp lực lớn cho Tổng Công ty Thương mại Hà Nội trong việc phải sớm có
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống bán lẻ
Tổng Công ty. Chính vì lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển hệ thống bán lẻ
của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản về phát triển hệ thống bán lẻ
hàng hoá, luận văn tập trung vào việc phân tích thực trạng phát triển hệ thống bán lẻ
hàng hoá của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội nhằm hướng tới việc hoàn thiện hệ
thống, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bán lẻ của Tổng Công ty.
- 2 -


Với mục đích đó, luận văn sẽ tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Xác
định rõ những vấn đề cơ bản nhất đối với việc phát triển hệ thống bán lẻ hàng hoá;
Đánh giá thực trạng hệ thống bán lẻ hàng hoá của Tổng Công ty Thương mại Hà
Nội; Đưa ra những giải pháp cơ bản để phát triển hệ thống bán lẻ của Tổng Công ty
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống bán lẻ của Tổng Công ty
Thương mại Hà Nội gồm: Các Trung tâm thương mại, siêu thị và cửa hàng kinh
doanh bán lẻ của Tổng Công ty.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi toàn bộ hệ thống
bán lẻ của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội.
- Về thời gian: Từ năm 2003 đến năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp
tiếp cận hệ thống làm cơ sở phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp cụ thể để phân tích và
xử lý các thông tin như: phương pháp quan sát thực tế, phân tích so sánh và các
phương pháp thống kê để từ đó rút ra những đánh giá, nhận xét và kiến nghị giải
pháp.
6. Kết cầu của đề tài
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn bao gồm 3 chương với nội dung như sau:
* Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển hệ thống bán lẻ trong
hoạt động kinh doanh thương mại
* Chương 2: Thực trạng hệ thống bán lẻ của Tổng Công ty Thương mại
Hà Nội
* Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển hệ thống bán lẻ của
Tổng Công ty Thương mại Hà Nội trong quá trình hội nhập
- 3 -

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BÁN LẺ
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. HỆ THỐNG BÁN LẺ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1.1. Bán lẻ, hệ thống bán lẻ và phát triển hệ thống bán lẻ trong hoạt
động kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Bán lẻ và hệ thống bán lẻ
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá từ người sản xuất hoặc người sở hữu
hàng hoá (sau đây gọi chung là “người sản xuất”) đi đến người tiêu dùng hoặc
người sử dụng cuối cùng (sau đây gọi chung là “người tiêu dùng”) phải qua một
chuỗi các hoạt động mua và bán. Căn cứ vào các công đoạn chuyển quyền sở hữu
hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng, người ta chia quá trình lưu thông
hàng hoá thành các kênh khác nhau:
- Kênh trực tiếp (còn gọi là kênh cực ngắn): là kênh phân phối mà tại đó nhà
sản xuất trực tiếp bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng, không qua trung
gian thương mại nào cả.
- Kênh ngắn: là kênh phân phối mà tại đó nhà sản xuất đưa hàng hoá đến các
nhà bán lẻ và từ đó đưa hàng hoá đến với người tiêu dùng thông qua vai trò trung
gian thương mại của người bán lẻ.
- Kênh trung bình: là kênh phân phối mà tại đó hàng hoá phải qua hai cấp độ
trung gian thương mại là người bán buôn, người bán lẻ rồi mới đến tay người tiêu
dùng.
- Kênh dài: là kênh phân phối mà tại đó hàng hoá đi từ nhà sản xuất, qua các
đại lý môi giới, đến người bán buôn, người bán lẻ rồi mới đến người tiêu dùng cuối
cùng.
- 4 -
Sơ đồ 1.1: Các kênh lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế thị trường

Như vậy, căn cứ vào các công đoạn chuyển tiếp hàng hoá từ người sản xuất

đến người tiêu dùng có thể chia quá trình lưu thông hàng hoá thành hai công đoạn,
đó là: Bán buôn và bán lẻ.
Bán buôn (hay còn gọi là “bán sỉ”) được định nghĩa là hình thức “bán hàng
của người sở hữu hàng hoá cho người sản xuất để chế biến ra sản phẩm hoàn chỉnh
hoặc chế biến lại nhằm nâng cao phẩm chất, phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng, hoặc bán cho thương nhân khác để bán lẻ cho người tiêu dùng”
1
. Trong lĩnh
vực bán buôn, hàng hoá chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân mà còn nằm trong
lĩnh vực lưu thông hoặc đi vào một quá trình sản xuất mới để trở lại lưu thông dưới
hình thái hàng hoá khác. Hoạt động bán buôn là một công đoạn của quá trình lưu
thông hàng hoá và thường chi phối công đoạn bán lẻ. Bán buôn thường thực hiện
với số lượng hàng lớn và giá cả thấp hơn giá bán lẻ, tức là giá trị đầy đủ của hàng
hoá. Người bán buôn không phải là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hay sở hữu
sản phẩm. Người bán buôn đóng vai trò trung gian trong việc chuyển hàng hoá từ
người sản xuất đến người bán lẻ.
Ngược lại, bán lẻ là hình thức “bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm
thoả mãn nhu cầu cá nhân của họ, từ đây hàng hoá kết thúc quá trình lưu thông và
đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân; giá trị hàng hoá được thực hiện đầy đủ”
2
.
Ngoài ra còn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ:
1
Từ điển Kinh tế thị trường (tra cứu trực tuyến)
2
Từ điển Kinh tế thị trường (tra cứu trực tuyến)
Người
sản xuất
Người
tiêu dùng

Kênh trực
tiếp
Người
sản xuất
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người
sản xuất
Người
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người
sản xuất
Đại lý
môi giới
Người
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Kênh ngắn
Kênh trung
bình
Kênh dài

- 5 -
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt, bán lẻ là hình thức “bán từng cái, từng ít một
trực tiếp cho người tiêu dùng”
3
.
- Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của tài liệu số TN.GNS/W/120
(W/120) của vòng đám phán Uruguay của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và danh
mục sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên hợp quốc (CPC) định nghĩa: “Bán lẻ là hoạt
động bán các hàng hóa cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa điểm
cố định (cửa hàng, kiốt) hay một địa điểm khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ phụ
liên quan”.
- Trong cuốn sách “Quản trị Marketing” Philip Kotler đã định nghĩa bán lẻ
như sau: “Bán lẻ bao gồm tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán hàng
hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục
đích cá nhân, không kinh doanh”
4
.
- Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: “Bán lẻ
bao gồm việc bán hàng cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một
địa điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên
quan”
5
.
Như vậy, mặc dù có thể định nghĩa bán lẻ theo nhiều cách khác nhau nhưng
tất cả đều thể hiện một đặc điểm chung của án lẻ đó là việc đưa hàng hoá đến tay
người tiêu dùng cuối cùng nhằm phục vụ nhu cầu của cá nhân hay gia đình. Nghĩa
là, bán lẻ là công đoạn cuối cùng trong khâu lưu thông để sản phẩm đến với người
tiêu dùng.
Trong lĩnh vực bán lẻ, mỗi lần chỉ bán một số lượng nhỏ, nhưng cũng có
trường hợp bán lẻ những lô hàng lớn, chẳng hạn bán hàng cho những đơn vị tiêu

dùng tập thể (trường học, trại điều dưỡng, nhà máy, bệnh viện ). Doanh số bán lẻ
là tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội. Hoạt động bán lẻ thường được thực
hiện thông qua các địa điểm bán lẻ, như: Trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng,
quầy hàng, kiôt, quán hàng, nhà ăn, xe bán hàng rong v.v Cũng giống như người
3
Đại từ điển Tiếng Việt (trang 95)
4
Philip Kotler (2003), Quản trị Marketing, NXB Thống Kê, Hà Nội, trang 628
5
/>- 6 -
bán buôn, người bán lẻ không phải là người trực tiếp sản xuất hay sở hữu sản phẩm.
Người bán lẻ đóng vai trò là cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Chỉ
khi nào người bán lẻ thực hiện xong chức năng phân phối của mình thì quá trình lưu
thông hàng hoá mới kết thúc, giá trị hàng hoá mới được thực hiện đầy đủ
6
. Quá
trình lưu thông hàng hoá chịu ảnh hưởng rất lớn của việc phát triển hệ thống bán lẻ
hàng hoá.
Từ việc phân tích về quá trình lưu thông hàng hoá và khái niệm về bán lẻ, ta
có thể rút ra định nghĩa về hệ thống bán lẻ hàng hoá như sau: “Hệ thống bán lẻ
hàng hoá là tập hợp các nhân tố độc lập và phụ thuộc lẫn nhau tham gia vào quá
trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng”. Có thể mô tả chi tiết
hệ thống bán lẻ hàng hoá trong nền kinh tế thị trường như sau:
Sơ đồ 1.2: Hệ thống bán lẻ hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
6
Việc phân tích sẽ được trình bày kỹ ở phần sau của chương này.
Ghi chú: đường đi của dòng sản phẩm (1 chiều)
đường đi của dòng thông tin (2 chiều)
NGƯỜI
SẢN

XUẤT
Người
bán buôn
Người
nhập
khẩu
Người
phân
phối
Đại lý
CH
bán lẻ
Siêu thị
TTTM
Chợ
Xe bán
hàng
rong
Cá nhân
Doanh
nghiệp
Tổ chức
HỆ
THỐNG
BÁN
LẺ
NGƯỜI
TIÊU
DÙNG
- 7 -

1.1.1.2. Phát triển hệ thống bán lẻ trong hoạt động kinh doanh thương
mại
Phát triển hệ thống bán lẻ là việc tập trung các nguồn lực hiện có vào việc
thúc đẩy hệ thống bán lẻ tăng trưởng cả về chiều rộng (mở rộng mạng lưới kinh
doanh bán lẻ) và chiều sâu (nâng cao chất lượng hệ thống bán lẻ, tăng doanh thu
bán lẻ).
Trên thực tế, trong thời gian đầu khi triển khai hệ thống bán lẻ, các doanh
nghiệp thường có xu hướng tập trung đầu tư phát triển các điểm kinh doanh bán lẻ
mới, nhằm mục đích mở rộng quy mô, tăng khả năng bao phủ thị trường. Tuy
nhiên, khi hệ thống đã ổn định thì một trong các mục tiêu quan trọng của doanh
nghiệp là phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng của hệ thống bán lẻ, bao gồm
cả việc nâng cao chát lượng cung ứng hàng hoá và chất lượng dịch vụ, từ đó làm
tăng doanh thu bán lẻ của hệ thống, góp phần tăng tỷ trọng về doanh số bán lẻ của
doanh nghiệp so với tổng mức bán lẻ của toàn thị trường. Phát triển hệ thống bán lẻ
cũng là giải pháp quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, giúp các doanh
nghiệp kinh doanh bán lẻ tồn tại và ngày càng phát triển.
Vì vậy, đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước, để hình thành và
phát triển hệ thống bán lẻ đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp bán lẻ nước
ngoài, dự báo trong thời gian tới sẽ có một quá trình tích tụ và tập trung mạnh mẽ
giữa các nhà phân phối nội địa nhằm tạo thành các chuỗi liên kết với các nhà sản
xuất, các ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh. Đây là việc bắt buộc phải làm để
duy trì sự tồn tại và phát triển cho các nhà phân phối trong nước trong bối cảnh
cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt khi lộ trình mở cửa đã cận kề. Vấn đề quan
trọng là càng làm sớm thì càng giúp doanh nghiệp trong nước có nhiều thời gian để
thích nghi và tăng năng lực cạnh tranh của mình trước khi bước vào cuộc cạnh tranh
“nảy lửa” này.
1.1.2. Vai trò của hệ thống bán lẻ trong hoạt động kinh doanh thương
mại
- 8 -

1.1.2.1. Góp phần giải quyết các mâu thuẫn cơ bản về phân phối hàng hoá
của nền kinh tế thị trường
Hệ thống phân phối hàng hoá nói chung và hệ thống bán lẻ hàng hoá nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn cơ bản vốn có của
nền kinh tế thị trường, góp phần đảm bảo cho nền kinh tế thị trường của mỗi quốc
gia phát triển một cách bền vững. Các mâu thuẫn cơ bản về phân phối của nền kinh
tế thị trường được giải quyết đó là:
- Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa sản xuất khối lượng lớn, chuyên môn
hoá sâu với nhu cầu tiêu dùng theo khối lượng nhỏ nhưng đặc biệt và đa dạng. Mỗi
nhà sản xuất chuyên môn hoá sản xuất và bán ra thị trường một số lượng lớn một
hoặc một số hàng hoá và dịch vụ, nhưng mỗi người tiêu dùng chỉ mua số lượng nhỏ
trong số hàng hoá này. Sở dĩ có mâu thuẫn này là do thị trường là một tập hợp gồm
vô số những người tiêu dùng với nhiều nhu cầu và mong muốn khác nhau. Xã hội
càng phát triển, thu nhập của dân cư càng tăng lên, nhu cầu tiêu dùng càng đa dạng,
phong phú. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất lại phải sản xuất ra một khối
lượng lớn để đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô, giảm chi phí sản xuất. Sản xuất lớn,
hiệu quả cao không thể giải quyết vấn đề thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ
thống bán lẻ hàng hoá giúp giải quyết mâu thuẩn này thông qua việc thiết lập mạng
lưới bán lẻ để đưa sản phẩm đến người tiêu dùng.
- Mâu thuẫn thứ hai là sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Thông thường, việc sản xuất thường tập trung lại ở một địa điểm nhất định, còn tiêu
dùng lại phân bố rộng khắp hoặc ngược lại. Tạo sự ăn khớp về không gian giữa sản
xuất và tiêu dùng đòi hỏi phải tối thiểu hoá tổng số các trao đổi. Sự xuất hiện của
người trung gian bán lẻ chính là để giảm tổng số các trao đổi và tạo điều kiện vận
chuyển sản phẩm với khối lượng lớn ở cự ly dài, nhờ đó giảm chi phí vận chuyển.
Sơ đồ 1.3: Vai trò của người bán lẻ trong việc giảm số lần tiếp xúc
giữa người cung cấp và người tiêu dùng cuối cùng
- 9 -
(a) Khi chưa có người bán lẻ thì số lần tiếp xúc là 9 lần
(b) Khi có người bán lẻ thì số lần tiếp xúc chỉ còn 6 lần

- Mâu thuẫn thứ ba là sự khác biệt về thời gian do thời gian sản xuất và thời
gian tiêu dùng không trùng khớp. Hoạt động sản xuất và phân phối thường mang
tính ổn định và liên tục. Trong khi đó, tiêu dùng lại mang tính biến đổi và thời điểm.
Vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu tiêu dùng nên đã nảy
sinh nhu cầu dự trữ hàng hoá. Sự ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng
được giải quyết thông qua dòng chảy sản phẩm của các kênh lưu thông và dự trữ
Người cung
cấp 3
Người cung
cấp 2
Người cung
cấp 1
Người tiêu
dùng 3
Người tiêu
dùng 2
Người tiêu
dùng 1
Người cung
cấp 3
Người cung
cấp 2
Người cung
cấp 1
Người tiêu
dùng 3
Người tiêu
dùng 2
Người tiêu
dùng 1

Người
bán lẻ
- 10 -
hàng hoá trong Hệ thống bán lẻ hàng hoá đảm bảo đúng thời gian mong muốn của
khách hàng.
Ngoài ba vấn đề cơ bản trên, trong nền kinh tế thị trường còn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn khác như sự khác biệt về thông tin và giá trị, sự khác biệt về quyền
sở hữu… Các hệ thống bán lẻ hàng hoá có vai trò và chức năng giải quyết những sự
khác biệt và mâu thuẫn trên qua quá trình phân phối tổng thể. Hệ thống bán lẻ hàng
hoá hiệu quả là cần thiết để nối người cung cấp với người tiêu dùng, có nghĩa là
phân phối hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu mong muốn của khách hàng. Cung
cấp hàng hoá cho họ đúng thời gian, đúng địa điểm và với một mức giá phù hợp. Sơ
đồ dưới đây đã thể hiện khái quát vai trò của hệ thống bán lẻ hàng hoá giải quyết
các vấn đề khác biệt và mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Sơ đồ 1.4: Hệ thống bán lẻ hàng hoá nối cung cấp với tiêu dùng
* Sự khác biệt về số lượng
* Sự khác biệt về không gian
* Sự khác biệt về thời gian
* Sự khác biệt về chủng loại
* Sự khác biệt về thông tin
* Sự khác biệt về giá trị
* Sự khác biệt về sở hữu
1.1.2.2. Tạo lập và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các quyết định về hệ thống bán lẻ hàng hoá đã và đang trở thành những
chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, là một công cụ cực kỳ quan trọng và phức
Khu vực cung cấp: Chuyên môn hoá và phân
công lao động dẫn đến khả năng cung cấp đa dạng
HTBLHH
cần thiết để
giải quyết

những khác
biệt và mâu
thuẫn
Khu vực tiêu dùng: Nhu cầu và mong muốn đa dạng
về chủng loại, thời gian, địa điểm và quyền sở hữu
- 11 -
tạp trong chiến lược marketing hỗn hợp của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp
tạo lập được lợi thế cạnh tranh bền vững dài hạn trên thị trường và thành công trong
kinh doanh. Phát triển và quản lý được hệ thống bán lẻ hàng hoá hiệu quả sẽ giúp
doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm của mình.
Tổ chức và tham gia vào các hệ thống bán lẻ hàng hoá hiệu quả cũng có
nghĩa là doanh nghiệp chủ động xây dựng các liên kết đảm bảo thực hiện phân công
chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong dây chuyền tạo giá trị gia tăng của các ngành
kinh tế, điều đó giúp các doanh nghiệp tập trung được mọi nỗ lực vào những hoạt
động mà mình có lợi thế, vì vậy đảm bảo được năng suất cao hơn với chi phí thấp
hơn và nhờ vậy mà nâng cao hơn sức cạnh tranh của mình so với các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Nhờ tổ chức và tham gia vào liên kết như vậy, mỗi doanh
nghiệp đều được hưởng nhưng lợi ích kinh tế nhờ hoạt động phối hợp, nhờ sự giám
sát và phối hợp bên trong của Hệ thống bán lẻ hàng hoá, nhờ tránh các giao dịch thị
trường trong hệ thống, nhờ tiếp cận tốt hơn và rẻ hơn thông tin về thị trường, nhờ
các mối quan hệ ổn định , vì vậy mà đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Đồng thời, do
tham gia vào những liên kết như vậy sẽ còn giúp các doanh nghiệp tận dụng được
công nghệ lẫn nhau, bảo đảm nguồn cung ứng hoặc nhu cầu ổn định, nâng cao
quyền lực thương lượng đáng kể, tăng cường khả năng khác biệt hoá sản phẩm và
dịch vụ so với đối thủ cạnh tranh
Các doanh nghiệp của Việt Nam nếu tạo dựng được cho mình những hệ
thống bán lẻ hàng hoá hiệu quả cũng có nghĩa là tạo lập được lợi thế cạnh tranh đảm
bảo cho lợi ích của mình trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài khi nước ta thực
hiện các cam kết hội nhập kinh tế vào khu vực và thế giới, bởi họ phải mất nhiều
thời gian và tiền của mới có thể tạo lập cho hệ thống bán lẻ của mình. Mặt khác,

cùng với các cam kết tự do hoá thương mại và đầu tư để hội nhập kinh tế quốc tế,
nhà nước sẽ dần dần dỡ bỏ các rào cản thuế và phi thuế bảo hộ cho các ngành sản
xuất trong nước, khi đó các hệ thống bán lẻ hàng hoá hiệu quả sẽ chính là các rào
cản hiệu lực nhất của doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ mình trước các đối thủ
canh tranh từ bên ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa.
- 12 -
1.1.2.3. Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển
Hệ thống phân phối bán lẻ giữ vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình
sản xuất mở rộng xã hội, bởi nó đảm bảo một khâu quan trọng của quá trình tái sản
xuất là khâu tiêu thụ. Có thể nói, hệ thống phân phối hàng hoá nói chung và hệ
thống bán lẻ nói riêng, đang ngày càng củng cố vai trò là động lực thúc đẩy sản xuất
hàng hoá phát triển và đem lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ
cung cấp cho người tiêu dùng đúng chủng loại hàng hoá mà họ cần, đúng thời gian,
tại một địa điểm và ở một mức giá mà người tiêu dùng chấp nhận. Khi nhu cầu của
người tiêu dùng biến đổi không ngừng, hệ thống bán lẻ có những thông tin phản hồi
từ người tiêu dùng để đặt hàng đáp ứng những thay đổi đó. Hệ thống bán lẻ cũng có
thể tác động tới việc tạo nhu cầu mới cho người tiêu dùng để đặt hàng đáp ứng
những thay đổi đó, hệ thống bán lẻ cũng có thể tác động tới việc tạo nhu cầu mới
cho người tiêu dùng thông qua việc bổ sung và tập hợp hàng hoá của mình những
sản phẩm mới, tạo nhiều sự lựa chọn khác nhau Qua quá trình phân phối hàng hoá
hệ thống bán lẻ nắm bắt được nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời
gian và không gian nên có thể truyền tải những thông tin cần thiết về nhu cầu thị
trường cho những người sản xuất và cung ứng hàng hoá để điều chỉnh theo những
điều kiện của thị trường.
Hệ thống bán lẻ có thể dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu thị
trường, thúc đẩy phương thức kinh doanh theo nhu cầu của nền kinh tế thị trường,
trên cơ sở đó mà tăng cường thương mại hàng hoá và phát triển thị trường cho các
ngành kinh tế và sản phẩm có lợi thế, cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đất nước.
1.2. PHÂN LOẠI VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN

CỦA HỆ THỐNG BÁN LẺ
1.2.1. Phân loại hệ thống bán lẻ
1.2.1.1. Theo quy mô hoạt động
- 13 -
Theo quy mô hoạt động người ta có thể chia mạng lưới bán lẻ thành các loại
sau: Đại siêu thị, siêu thị, siêu thị mini, trung tâm thương mại. Ở Việt Nam, việc
phân chia các cửa hàng bán lẻ được thực hiện theo Quy chế về siêu thị, TTTM được
ban hành kèm theo quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/3/2004 của Bộ
trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương). Theo Quy chế này, siêu thị và
TTTM được định nghĩa như sau:
a) Siêu thị: Là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên
doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hoá phong phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp
ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ
chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thoả mãn
nhu cầu mua sắm hàng hoá của khác hàng
7
.
b) Trung tâm thương mại: Là loại hình tổ chức kinh doanh thương mại hiện
đại, đa chức năng, bao gồm tổ hợp các loại hình cửa hàng, cơ sở hoạt động dịch vụ:
hội trường, phòng họp, văn phòng cho thuê… được bố trí tập trung, liên hoàn trong
một hoặc một số công trình kiến trúc liền kề; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích
kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các
phương thức phụ vụ văn minh, thuận tiện đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động kinh
doanh của thương nhân và thoả mãn nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng
8
.
Việc phân hạng được căn cứ vào diện tích kinh doanh và số lượng mặt hàng
được bày bán tại siêu thị, trung tâm thương mại.
Bảng 1.1: Phân hạng Siêu thị, TTTM theo Quy chế về siêu thị, TTTM
của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương)

Loại
hình
Hạng Loại hình
Tiêu chuẩn tối thiểu
Diện tích KD
(m
2
)
Số lượng
mặt hàng
Siêu thị
Hạng I
Siêu thị kinh doanh tổng hợp 5.000 20.000
Siêu thị chuyên doanh 1.000 2.000
Hạng II
Siêu thị kinh doanh tổng hợp 2.000 10.000
Siêu thị chuyên doanh 500 1.000
7
Khoản 1, Điều 2, Quy chế về Siêu thị, Trung tâm thương mại - Bộ Thương mại
8
Khoản 2, Điều 2, Quy chế về Siêu thị, Trung tâm thương mại - Bộ Thương mại
- 14 -
Hạng III
Siêu thị kinh doanh tổng hợp 500 4.000
Siêu thị chuyên doanh 250 500
TTTM
Hạng I Hoạt động đa chức năng 50.000 Không quy định
Hạng II Hoạt động đa chức năng 30.000 Không quy định
Hạng III Hoạt động đa chức năng 10.000 Không quy định
c) Cửa hàng bán lẻ: Là những cửa hàng bán lẻ không được xếp hạng siêu thị

hay trung tâm thương mại.
1.2.1.2. Theo lĩnh vực kinh doanh
Theo lĩnh vực kinh doanh người ta chia hệ thống bán lẻ hàng hoá thành cửa
hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá, cửa hàng tiện dụng:
a) Các cửa hàng chuyên doanh: là cửa hàng bán những dòng sản phẩm hẹp
và chuyên sâu.
b) Cửa hàng bách hoá: là cửa hàng bán nhiều mặt hàng khác nhau, mỗi mặt
hàng là một quầy riêng.
c) Cửa hàng tiện dụng (hay còn gọi là cửa hàng tiện lợi, cửa hàng tiện ích):
là những cửa hàng bán lẻ nhỏ, chỉ bán một số mặt hàng phục vụ nhu cầu thiết yếu
hàng ngày của người tiêu dùng. Hàng hoá trong cửa hàng tiện ích chủ yếu tập trung
vào nhóm mặt hàng chính sau: Hoá mỹ phẩm; thực phẩm khô; đồ uống; thuốc lá;
bánh kẹo; văn hoá phẩm; văn phòng phẩm; đồ gia dụng, thiết bị cầm tay; đồ chơi,
quà lưu niệm Ngoài ra, các cửa hàng tiện dụng còn có thể cung cấp các dịch vụ tại
nhà như: tư vấn mua sắm, thông tin du lịch; sửa chữa đồ điện, thiết bị điện gia dụng;
sửa chữa nội thất, trang thiết bị gia đình, văn phòng; lau dọn nhà cửa, hút bụi, làm
sạch thảm
Tuy nhiên, trong thực tế việc phân chia này chỉ có tính chất tương đối. Ví dụ
một cửa hàng chuyên doanh về lĩnh vực thực phẩm thì cũng có thể coi là một dạng
cửa hàng tiện dụng vì cũng đáp ứng các nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người tiêu
dùng.
1.2.1.3. Theo phương thức phục vụ
- 15 -
Theo phương thức phục vụ, người ta có thể chia ra thành cửa hàng bán lẻ
truyền thống và cửa hàng hiện đại.
Trên thực tế, người ta thường dựa theo phương thức phục vụ để phân loại hệ
thống bán lẻ. Theo phương thức phục vụ, có thể chia hệ thống bán lẻ ra thành 2 loại
là hệ thống bán lẻ truyền thống và hệ thống bán lẻ hiện đại.
Sơ đồ 1.5: Phân loại hệ thống bán lẻ
a) Hệ thống bán lẻ truyền thống: Hệ thống bán lẻ truyền thống là hệ thống

bán lẻ trong đó chủ yếu sử dụng phương thức bán hàng thủ công, trực tiếp. Người
mua hàng thực hiện việc lựa chọn hàng hoá dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn của người
bán hàng
9
. Hệ thống bán lẻ truyền thống thường được tổ chức dưới dạng các cửa
hàng nhỏ, chợ, xe bán hàng rong
b) Hệ thống bán lẻ hiện đại: Hệ thống bán lẻ hiện đại là hệ thống bán lẻ
trong đó có sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại vào việc quản lý và
tổ chức hoạt động kinh doanh. Người mua hàng tự mình thực hiện việc toàn bộ
công đoạn lựa chọn và mua hàng mà không cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía người
bán hàng. Hệ thống bán lẻ hiện đại bao gồm các siêu thị và trung tâm thương mại.
9
“Siêu thị phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam” - Nguyễn Thị Nhiễu (trang 42).
Hệ thống
bán lẻ
hiện đại
Hệ thống
bán lẻ
truyền
thống
CH
bán lẻ
Siêu thị
TTTM
Chợ
Xe bán
hàng
rong
Hệ thống
bán lẻ

- 16 -
Đặc trưng của hệ thống bán lẻ hiện đại chính là phương thức bán hàng tự
chọn, sử dụng công nghệ quản lý, đảm bảo yếu tố văn minh, hiện đại và thường
được tổ chức với quy mô lớn, chủng loại hàng hoá phong phú, đa dạng có thể thoả
mãn nhiều nhu cầu của khách hàng. Việc tổ chức bán lẻ theo hình thức này sẽ giúp
cho người bán lẻ tập trung được nhiều chủng loại hàng hoá cũng như xây dựng
được hệ thống các phương tiện hỗ trợ hoạt động bán lẻ kèm theo, như: kho bãi, thiết
bị bảo quản, thiết bị bốc xếp hàng hoá, thiết bị bán hàng… Nhờ đó, người tiêu dùng
cùng một lúc có thể đồng thời lựa chọn nhiều loại sản phẩm hàng hoá khác nhau
đáp ứng các nhu cầu khác nhau của họ. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thói
quen mua sắm tại các địa điểm bán lẻ tập trung ngày càng tăng cả về số lượng và
chất lượng phục vụ, dẫn đến việc hình thành ngày càng nhiều các điểm bán lẻ có
quy mô lớn tới hàng nghìn m
2
, tập trung tới hàng trăm nghìn chủng loại sản phẩm
hàng hoá như: các đại siêu thị, các trung tâm mua sắm, các cửa hàng hạ giá…
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hệ thống bán lẻ
Sự phát triển của hệ thống bán lẻ được thể hiện thông qua sự mở rộng về quy
mô và sự của nâng cao về chất lượng, hiệu quả của hệ thống bán lẻ. Vì vậy, để đánh
giá sự phát triển của hệ thống bán lẻ, người ta thường dựa vào các tiêu chí sau: Số
lượng các địa điểm bán lẻ và tổng mức lưu chuyển bán lẻ (doanh thu bán lẻ).
1.2.2.1. Số lượng địa điểm bán lẻ
Số lượng địa điểm bán lẻ cho thấy quy mô của hệ thống bán lẻ, không gian
bao phủ và mật độ bao phủ của hệ thống bán lẻ trên thị trường. Số lượng địa điểm
bán lẻ càng tăng cao thì quy mô của hệ thống bán lẻ càng lớn, độ bao phủ thị trường
càng rộng qua đó thể hiện tiềm lực của doanh nghiệp, nhất là về tài chính, cũng như
về khả năng tổ chức, quản lý và vận hành hệ thống.
1.2.2.2. Doanh thu bán lẻ
Doanh thu bán lẻ cho thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống bán lẻ. Bên cạnh
đó, để đánh giá được chính xác mức độ phát triển của hệ thống bán lẻ so với tình

hình thực tế của thị trường, người ta còn phải dựa vào tốc độ tăng trưởng doanh thu
bán lẻ và tỷ trọng doanh thu bán lẻ của hệ thống so với tổng doanh thu bán lẻ của
toàn bộ thị trường để từ đó có đánh giá xác thực.
- 17 -
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chính sách mở cửa thị trường, kinh tế đã từng
bước phát triển một cách vững chắc. Sản xuất phát triển, thu nhập của người dân
ngày một tăng, nhu cầu cũng ngày một đa dạng. Hàng hóa trên thị trường luôn được
thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt
Nam cũng trên đà tăng trưởng. Trong vòng 10 năm từ 1996 tới 2006, doanh thu từ
kinh doanh bán lẻ đã tăng gần gấp 3 lần đạt 36,29 tỉ USD vào năm 2006. Tốc độ
tăng trưởng trong những năm qua khá cao, từ năm 2003 tới nay tốc độ tăng trưởng
luôn đạt trên 15%/năm.
Biểu đồ 1.1: Doanh thu và tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực bán lẻ của Việt
Nam giai đoạn từ năm 1996 - 2006
Với kết quả đó, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn được đánh giá là
một trong những thị trường bán lẻ có tốc độ phát triển nhanh trên thế giới. Tập đoàn
tư vấn AT. Kearney đã xếp hạng về độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
đứng vị trí thứ 3 thế giới năm 2006 và vị trí thứ 4 năm 2007 sau Ấn Độ, Nga và
(Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh)
- 18 -
Trung Quốc
10
. Đặc biệt, bước sang năm 2008, năm cuối cùng trước thời điểm chính
thức mở cửa thị trường bán lẻ, Việt Nam đã xuất sắc vượt qua Ấn Độ, Trung Quốc
và Nga để vươn lên chiếm vị trí số 1 trong danh sách thị trường đầu tư bán lẻ hấp
dẫn nhất do A.T. Kearney công bố. Đây là bước đột phá lớn có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ của Việt Nam, đặc biệt là với các
tập đoàn bán lẻ đang có kế hoạch mở rộng thị trường như Tổng Công ty Thương
mại Hà Nội. Tiềm năng đầy hứa hẹn đó kết hợp với việc mở cửa thị trường phân
phối sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của lĩnh vực phân phối bán lẻ của Tổng

Công ty.
Sơ đồ 1.6: Xếp hạng các thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới năm 2008
(Nguồn: ngày 06/06/2008)
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ
THỐNG BÁN LẺ NÓI CHUNG VÀ CỦA TỔNG CÔNG TY THƯƠNG MẠI
HÀ NỘI NÓI RIÊNG
Sự hình thành và vận động của các hệ thống bán lẻ hàng hoá chịu tác động
của rất nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Sự thay đổi của những yếu tố này có
thể làm mất đi những hình thức phân phối cũ và xuất hiện những hình thức phân
phối mới, một số trung gian thương mại cũ mất đi thay vào đó là các loại trung gian
10
A.T. Kearney, Global Retail Development Index, 2006, 2007
- 19 -
thương mại mới. Cấu trúc cạnh tranh trên thị trường thường xuyên thay đổi cũng
kéo theo những sự thay đổi trong các hệ thống bán lẻ hàng hoá. Sự thay đổi các yếu
tố hành vi mua của người tiêu dùng, những công nghệ buôn bán mới cũng làm tăng
thêm khả năng thay đổi của các hệ thống bán lẻ hàng hoá. Các hệ thống bán lẻ hàng
hoá phải được điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi đó. Để phát triển các hệ
thống bán lẻ hàng hoá hiệu quả, các doanh nghiệp và các cấp quản lý cần phân tích
đầy đủ các yếu tố này.
Sơ đồ 1.7: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống bán lẻ
1.3.1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Từ những cơ hội và thách thức chung đối với nền kinh tế mà quá trình hội
nhập mang lại, hệ thống bán lẻ cũng chịu những tác động hết sức mạnh mẽ trong đó
có cả những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực. Một mặt, quá trình hội
nhập đem lại cơ hội hợp tác to lớn trong lĩnh vực bán lẻ giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp nước ngoài, mở rộng thị trường bán lẻ cho các doanh
nghiệp, cũng như tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho hệ thống bán lẻ trong nước.
HỆ
THÔNG

BÁN LẺ
Công nghệ
Hội nhập
Hội nhập Hội nhập
Hội nhập
Văn hoá,
xã hội
Chính trị,
pháp luật
Kinh tế
- 20 -
Mặt khác, quá trình hội nhập cũng tạo ra sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt giữa hệ
thống bán lẻ của các doanh nghiệp Việt Nam còn “non trẻ” với các doanh nghiệp
nước ngoài đã có rất nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ.
Thực hiện các cam kết để gia nhập WTO, Việt Nam sẽ từng bước mở cửa thị
trường dịch vụ phân phối cho các nước, trước hết là Hoa Kỳ và Nhật Bản, sau đó là
các thành viên WTO. Việt Nam cam kết sẽ tự do hoá lĩnh vực bán buôn, bán lẻ và
nhượng quyền kinh doanh. Sau thời điểm gia nhập, các doanh nghiệp Hoa Kỳ trong
lĩnh vực này được phép thành lập liên doanh với phía Việt Nam và từ 1/1/2009, các
doanh nghiệp Hoa Kỳ được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Các
doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được cung cấp cả các hàng
hoá nhập khẩu và sản xuất trong nước. Điều này sẽ tạo ra một áp lực cạnh tranh cực
kỳ lớn đối với hệ thống bán lẻ của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội trước những
ưu thế nổi trội của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, đặc biệt là về tài chính, hậu
cần, kinh nghiệm quản lý và thương hiệu. Mốc thời điểm 1/1/2009 không còn xa
nữa và Tổng Công ty Thương mại Hà Nội cần phải tập trung đánh giá và phân tích
đầy đủ thế mạnh cũng như hạn chế mình cũng như của các doanh nghiệp bán lẻ
nước ngoài để từ đó có chiến lược phát triển hệ thống bán lẻ cho phù hợp với năng
lực của mình.
Bên cạnh đó, mặc dù lĩnh vực bán lẻ của Việt Nam mới thực sự sôi động và

được các doanh nghiệp quan tâm trong mấy năm gần đây nhưng đến nay mức độ
cạnh tranh trong lĩnh vực này đã vô cùng quyết liệt. Điều này thể hiện ngay ở trong
nội bộ từng doanh nghiệp cũng như là giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau
và giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Nếu như
vài năm trước đây người tiêu dùng chỉ biết đến tên tuổi của một vài doanh nghiệp
bán lẻ như Công ty Cổ phần Nhất Nam với chuỗi siêu thị Fivi Mart, Công ty XNK
Intimex với chuỗi siêu thị Intimex, Công ty Cổ phần Đông Hưng với chuỗi siêu thị
Citimax thì đến nay chúng ta đã rất quen thuộc với những thương hiệu mới trong
lĩnh vực phân phối bán lẻ như Tổng Công ty Thương mại Hà Nội với chuỗi siêu thị
Hapro Mart, Công ty TNHH Thiên Giang với chuỗi siêu thị Sao Hà Nội, Công ty
- 21 -
Cổ phần Bài Thơ với chuỗi siêu thị Bài Thơ (Rosa) Bên cạnh đó, ngay bản thân
các doanh nghiệp bán lẻ hiện có cũng đang không ngừng gia tăng số lượng các siêu
thị mới khai trương để bổ sung thêm vào chuỗi siêu thị hiện có nhằm không ngừng
củng cố thị phần và thương hiệu của doanh nghiệp. Điều này càng cho thấy mức độ
cạnh tranh khá gay gắt giữa chính các doanh nghiệp bán lẻ trong nước với nhau
trước thời điểm mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài chính thức gia nhập thị
trường bán lẻ của Việt Nam.
1.3.2. Chính trị, pháp luật
Tất cả các loại hình, các lĩnh vực kinh doanh đều chịu sự điều tiết từ các cơ
chế, chính sách của nhà nước. Hệ thống bán lẻ hàng hoá cũng không phải là một
ngoại lệ. Những ảnh hưởng của cơ chế chính sách sẽ tác động rất mạnh đến sự phát
triển của hệ thống này. Những quy định và ràng buộc pháp lý cũng ảnh hưởng đến
quy mô của hệ thống bán lẻ, các quy định về điều kiện nhượng quyền thương mại
có thể làm hạn chế sự gia tăng các nhà bán lẻ chuyên nghiệp. Luật pháp ngăn cản
việc phát triển các hệ thống bán lẻ có xu hướng triệt tiêu cạnh tranh và tạo độc
quyền. Sự phân bố lại dân cư cũng kéo theo sự thay đổi của hệ thống bán lẻ hàng
hoá.
Sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong
nước thể hiện qua việc Chính phủ và các bộ ngành liên quan ban hành hàng loạt các

văn bản liên quan đến việc khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong
nước phát triển hệ thống bán lẻ cũng như hạn chế tốc độ gia nhập thị trường bán lẻ
Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài.
Đặc biệt, với việc ban hành quyết định số 27/2007/QĐ-TTg ngày 15/02/2007
của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt Đề án phát triển thị trường thương
mại trong nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp bán lẻ trong nước nói chung và Tổng Công ty Thương mại Hà
Nội nói riêng những điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống bán lẻ trong nước.
Đề án đã xác định rõ những mục tiêu cơ bản sau:
- 22 -
- Tăng tỷ trọng mức bán lẻ hàng hoá theo loại hình thương mại hiện đại
(trung tâm thương mại, siêu thị, mạng lưới cửa hàng tiện lợi…) đạt 20% (khoảng
160.000 tỷ đồng) vào năm 2010, đến năm 2020 đạt 40% (khoảng 800.000 tỷ đồng),
trong đó khu vực kinh tế trong nước (bao gồm khu vực kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế ngoài nhà nước) chiếm khoảng 93%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm khoảng 7%; đến năm 2020 tỷ lệ tương ứng là 80% và 20%”;
- Hiện đại hoá kết cấu hạ tầng thương mại; chú trọng xây dựng và phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại hiện đại;
- Phát triển đa dạng các loại hình và phương thức kinh doanh thương mại
hiện đại khác, như: Sàn giao dịch hàng hoá, trung tâm đấu giá, nhượng quyền kinh
doanh, thương mại điện tử…;
- Hình thành và phát triển một số tập đoàn thương mại mạnh, kinh doanh
hàng hoá chuyên ngành hoặc tổng hợp, có đủ sức cạnh tranh và điều kiện để hợp tá
hiệu quả với các tập đoàn phân phối nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường
dịch vụ phân phối;
- Phát triển nguồn nhân lực thương mại có kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ
kinh doanh hiện đại và chuyên nghiệp, theo kịp yêu cầu phát triển của thương mại
trong nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
- Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về thương mại, bảo đảm hoạt động
thương mại phát triển lành mạnh và bền vững, nâng cao khả năng tự điều chỉnh của

thị trường trong nước khi thị trường thế giới biến động.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thương mại cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ
cơ chế, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước tại địa bàn mà doanh nghiệp
hoạt động. Đối với Tổng Công ty Thương mại Hà Nội, việc Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hà Nội ban hành Quyết định số 146/2006/QĐ-UB về việc ban hành “Cơ chế
khuyến khích đầu tư xây dựng trung tâm thương mại và siêu thị trên địa bàn Thành
phố Hà Nội” với những chính sách cụ thể cũng đã mang lại cho Tổng Công ty
những điều kiện rất thuận lợi để phát triển hệ thống bán lẻ của mình.
1.3.3. Văn hoá, xã hội
Hiện Việt Nam đang thuộc nhóm các nước có quy mô, mật độ và tốc độ tăng
dân số ở mức cao với mức tăng khoảng 1 triệu người/năm. Với dân số trên 84 triệu
- 23 -
người, trong đó có 65% là dân số trẻ, thu nhập ngày càng cao, tốc độ tiêu dùng tăng
mạnh mẽ và là cửa ngõ dẫn tới các thị trường như Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia
và Lào… Không những thế, chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam cũng ở
mức cao kỷ lục là 118 điểm và đứng thứ 5 thế giới trong khi mức trung bình của thế
giới chỉ là 97 điểm đã đưa nước ta đang trở thành một trong những nước có thị
trường bán lẻ hấp dẫn nhất của thế giới. Thủ đô Hà Nội, một trong những trung tâm
kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội lớn nhất của cả nước có quy mô dân số đến nay
là trên 6 triệu dân và tốc độ tăng dân số bình quân trên 2,2%/năm (tính đến
31/12/2007).
Biểu đồ 1.2: Tốc độ tăng dân số của Hà Nội giai đoạn từ năm 2003 – 2007
(Nguồn: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007)
Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH ngày 20/05/2008 của Quốc hội về
việc “Điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô” trên cơ sở hợp nhất Thủ đô Hà Nội,
Tỉnh Hà Tây, Huyện Mê Linh - Tỉnh Vĩnh phúc và 4 xã của Huyện Lương Sơn -
Tỉnh Hoà Bình, kể từ ngày 01/08/2008, Thủ đô Hà Nội “mới” sẽ có tổng diện tích là
3.300 km
2
(tăng thêm 2.100 km

2
), gấp 3,6 lần diện tích cũ với dân số hơn 6,2 triệu
người và Hà Nội trở thành 1 trong 17 quốc gia có diện tích thủ đô lớn nhất thế giới.
Như vậy, với quy mô dân số tăng lên gần gấp đôi thì Hà Nội đã trở thành một thị
trường tiêu dùng rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nói chung và Tổng
- 24 -
Công ty Thương mại Hà Nội nói riêng. Đây là những nhân tố có tác động tích cực
đến phát triển kinh doanh bán lẻ của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội.
1.3.4. Kinh tế
Thu nhập của người tiêu dùng và thói quen mua sắm tại các hệ thống bán lẻ
hiện đại của người tiêu dùng tại Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng
ngày càng tăng. Về mức sống của người tiêu dùng, thu nhập bình quân đầu người là
yếu tố rất quan trọng để nhà đầu tư quyết định có kinh doanh bán lẻ hiện đại ở khu
vực đó hay không. Về điểm này, có thể nói thu nhập bình quân đầu người Việt Nam
không ngừng tăng lên trong 10 năm qua là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế
liên tục và ổn định, đặc biệt trong 5 năm từ 2003 – 2007, thu nhập bình quân đầu
người đã tăng từ mức 480 USD năm 2003 lên gần 800 USD năm 2007 (tăng gần
66,7%).
Biểu dồ 1.3: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 2003 – 2007
(Nguồn: Số liệu công bố của Tổng cục Thống kê n 2007)
Bên cạnh đó, tỷ lệ quỹ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam cũng
được xem là một chỉ tiêu có tác động rất lớn đến hệ thống bán lẻ. Theo số liệu thống
kê trong năm 2006, tỷ lệ quỹ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam là 70%
cao nhất so với một số nước trong khu vực như Singapore 55,9%, Malaixia 58,2%
và Thái Lan 67,7%.
Biểu đồ 1.4: Tỷ lệ quỹ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam
- 25 -
so với các nước trong khu vực
(Nguồn: Số liệu Niên giám thống kê 2007)
Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng bán lẻ hàng năm cũng là một chỉ tiêu quan trọng

tác động đến sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh bán lẻ. Khi xem xét tiêu chí này
có thể hiểu tại sao hệ thống bán lẻ của Việt Nam có thể có sự phát triển tương đối
mạnh mẽ trong thời gian qua. Đặc biệt, trong 5 năm từ 2003 – 2007, tốc độ tăng
tổng mức lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ cao mức kỷ lục với tốc độ tăng trưởng
trên 16%.
Biểu đồ 1.5: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá của VN giai đoạn 2003 – 2007
(Nguồn: Số liệu Niên giám thống kê 2007)
Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai hệ thống bán lẻ hiện đại của Tổng
Công ty cũng gặp không ít những đối thủ cạnh tranh quyết liệt, trong đó phải kể đến

×