Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Thiết kế hệ điều khiển tháp chưng cất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.26 KB, 29 trang )

Thiết kế hệ điều khiển
Tháp chưng cất
Chương I : Khái quát công nghệ chưng cất dầu thô
1.1. Ổn định dầu nguyên khai
Ổn định dầu nguyên khai thực chất là việc tách bớt phần nhẹ. Dầu nguyên khai còn chứa các
khí đồng hành và các khí phi Hydrocacbon. Đại bộ phận chúng được tách do áp suất giảm khi
phun ra khỏi giếng khoan. Tuy nhiên vẫn còn một phần nhỏ lẫn vào trong dầu và phải tách chúng
ra.
1.2. Tách tạp chất, nước, muối
Dầu thô vừa khai thác còn lẫn nhiều tạp chất cơ học, đất đá, nước và cả muối khoáng. Chúng
lẫn vào dầu khí và chủ yếu ở dạng nhũ tương nên khó tách ở điều kiện bình thường. Trước khi
đưa vào chưng cất, người ta thường tiến hành tách các tạp chất cơ học, nước, muối theo các
phương pháp sau:
a. Phương pháp cơ học:
- Lắng: Dựa vào sự khác nhau về tỷ trọng của dầu và các tạp chất như đất đá, nước và muối để
lắng lâu ngày tạo thành các lớp có thể tách dễ dàng. Để tăng tốc độ lắng người ta dung biện pháp
gia nhiệt để giảm bớt độ nhớt, nhiệt độ thường trong khoảng 50-60
o
C để tránh mất mát dầu do
bay hơi. Nếu duy trì quá trình ở áp suất cao, ta có thể nâng cao nhiệt độ để tăng tốc độ lắng mà
không sợ mất mát.
- Ly tâm: Dùng để tách nước và tạp chất đá.Lực ly tâm càng lớn, càng có khả năng phân chia các
hạt có tỷ trọng khác nhau của dầu. Lực ly tâm tỉ lệ với bình phương số vòng quay ly tâm của
Roto nên số vòng quay càng lớn thì hiệu quả phân tách càng cao. Trong công nghiệp thường
dung máy ly tâm có vòng quay 3500-5000 vòng/phút.
- Lọc: Để tách nước và tạp chất đá ra khỏi dầu, ta có thể dùng phương pháp lọc khi chúng ta cho
them vào dầu một chất dễ thấm nước,dễ giữ nước và tách chúng ra,các chất này thuộc loại “ chất
trợ lọc”.
b. Phương pháp hóa học:
Bản chất của phương pháp này là cho thêm một chất hoạt động bề mặt để phá nhũ tương.
Khi các điều kiện thao tác như nhiệt độ, áp suất, rung động… được lựa chọn ở chế độ thích hợp


thì hiệu quả của phương pháp cũng rất cao. Song khó khăn là phải chọn được chất hoạt động bề
mặt thích hợp, không ảnh hưởng đến quá trình chế biến sau này.
c. Phương pháp dùng điện trường:
Dùng điện trường để phá nhũ, tách muối khỏi dầu là một phương pháp hiện đại, công suất
lớn, quy mô công nghiệp và dễ tự động hóa. Vì bản thân các tạp chất đã là các hạt dễ nhiễm điện
tích, do đó dùng điện trường xoay chiều mạnh sẽ làm các hạt nước và muối nhỏ sẽ tích điện và
chuyển động về phía các bản cực.
1.3. Chưng cất:
a. Nguyên lý chưng cất:
Sau khi tách nước và muối, dầu thô được đưa vào chưng cất. Chưng cất chính là quá trình
thực hiện việc phân tách các chất lỏng và khí bị trộn lẫn thành các thành phần riêng biệt nhờ vào
các ứng dụng của nhiệt năng mà không làm phân hủy chúng.
Về nguyên lý, sự chưng cất dựa trên nhiệt độ sôi nhất định của từng cấu tử trong hỗn hợp.
Sau đó thực hiện thu hồi lại trạng thái ban đầu của chất thông qua bình ngưng.
b. Nguyên lý hoạt động của tháp chưng cất:
Hình bên là hệ thống một tháp chưng cất thông dụng đơn giản nhất gồm một nguồn cấp và
hai sản phẩm ra
Nguyên lý hoạt động:
Nguyên liệu cần phân tách (FEED) được đưa vào khay tiếp liệu và được tích tụ tại nồi hơi.
Reboiler cung cấp nhiệt năng biến nguyên liệu ban đầu thành hơi. Hơi đi từ dưới lên trên qua các
lỗ của đĩa, chất lỏng chảy từ trên xuống theo các cạnh của đĩa hay theo ống chảy chuyển tùy
thuộc vào loại đĩa. Nồng độ các cấu tử thay đổi thoe chiều cao của tháp, nhiệt độ sôi cũng thau
đổi theo sự thay đổi của nồng độ. Trên mỗi đĩa diễn ra quá trình chuyển khối giữa pha lỏng và
pha hơi. Do đó, một phần cấu dễ bay hơi chuyển từ lỏng vào pha hơi và một ít hơn chuyển từ pha
hơi vào pha lỏng. Cuối cùng, ở trên đỉnh tháp, ta thu được cấu tử dễ bay hơi gần như ở dạng
nguyên chất. Phần hơi này được làm lạnh và ngưng tụ qua trao đổi nhiệt với chất làm lạnh trong
Condenser (bình ngưng). Chất lỏng thu được đưa vào thùng chưa đệm. Sản phẩm lấy ra từ thùng
chứa đệm gọi là Distillate. Sản phẩm lấy ra từ đáy tháp gọi là Bottom.
Hoạt động của các khay:
Về cơ bản, hoạt động của khay giống như một tháp thu nhỏ. Nó có nhiệm vụ hoàn thành từng

phần nhỏ của quá trình phân chia. Các khay được thiết kế sao cho sự tiếp xúc giữa pha lỏng và
hơi có được là lớn nhất. Do đó, mỗi khay đều được cấu tạo như sau : có một cạnh cho phép chất
lỏng chảy tràn qua. Trên khay tồn tại một gờ để đảm bảo luôn có một lượng chất lỏng tồn tại trên
bề mặt. Hơi đi từ dưới lên trên qua các lỗ. Bề mặt xảy ra quá trình tiếp xúc giữa hai pha lỏng-hơi
gọi là bề mặt hoạt động của khay.
c. Một số phương pháp chưng cất thông dụng:
Trong sản xuất, tùy theo bản chất của nguyên liệu và mục đích của quá trình mà có thể áp
dụng các phương pháp chưng cất sau:
- Chưng cất đơn giản:
Chưng cất đơn giản là quá trình chưng cất được tiến hành bằng cách bay hơi dần dần, một lần
hay nhiều lần không có hồi lưu. Phương pháp này áp dụng để tách các hỗn hợp gồm các cấu tử
có độ bay hơi rất khác nhau, tách sơ bộ và làm sạch các cấu tử khỏi tạp chất.
Chưng cất bay hơi một lần : Còn gọi là bay hơi cân bằng. Nguyên liệu được gia nhiệt đến
nhiệt độ và áp suất nhất định. Pha lỏng-hơi được tạo thành và đạt đến trạng thái cân bằng thì cho
vào tháp. Pha hơi qua thiết bị ngưng tụ sau đó lấy sản phẩm hơi đem ngưng tụ ta được chất có
nhiệt độ sôi thấp nhất
Chưng cất bay hơi nhiều lần: là quá trình gồm nhiều quá trình bay hơi một lần nối tiếp nhau
ở nhiệt độ tăng cao dần lên ( hay áp suất thấp hơn). Sản phẩm đáy của chưng lần một là nguyên
liệu chưng lần 2…
- Chưng cất phức tạp:
Chưng cất có hồi lưu: Là quá trình chưng khi lấy một phần chất lỏng ngưng tụ từ hơi tách ra
cho quay lại tưới vào dòng hơi bay lên. Nhờ có sự tiếp xúc đồng đều và thêm một lần nữa pha
lỏng và pha hơi mà pha hơi khi tách ra khỏi hệ thống lại được làm giàu thêm cấu tử nhẹ ( có
nhiệt độ sôi thấp hơn) so với khi không có hồi lưu, nhờ vậy có độ phân chia cao hơn.
Chưng cất có tinh luyện: Đây là phương pháp phổ biến dùng để tách hoàn toàn hỗn hợp các
cấu tử dễ bay hơi có tính chất hòa tan một phần và hòa tan hoàn toàn với nhau. Chưng cất có tinh
luyện được thực hiện trong tháp chưng luyện. Ngoài đỉnh và đáy, nếu cần ta còn có thể thiết kế
hồi lưu trung gian bằng cách lấy sản phẩm lỏng ở cạnh sườn của tháp cho trao đổi nhiệt và làm
lạnh rồi quay lại tưới vào tháp. Ta cũng có thể lấy sản phẩm cạnh sườn của tháp, trang bị thêm
các bộ phận tách trung gian. Mỗi bộ phận như vậy thực chất là một tháp riêng mà nguyên liệu

đầu vào lấy từ tháp chính. Sản phẩm đáy của tháp này được lấy ra còn sản phẩm đỉnh cho quay
lại tháp chính.Chưng luyện ở áp suất thấp dùng cho các hỗn hợp dễ bị phân hủy ở nhiệt độ cao.
Chưng luyện ở áp suất cao dùng cho các hỗn hợp không hóa lỏng ở áp suất thường.
1.4. Chưng cất dầu thô ở áp suất khí quyển
Trong chưng cất sôi dần hơi tạo thành thoát ra khỏi thiết bị chưng cất ngay lập tức, ngưng
tụ trong thiết bị làm lạnh - ngưng tụ và được thu hồi dưới dạng distillat. Ngược lại, trong
sôi một lần hơi tạo thành trong quá trình nung nóng không thoát ra khỏi thiết bị cất cho đến khi
đạt đến nhiệt độ nào đó, khi đó có một lượng pha hơi tách ra chất lỏng. Nhưng cả hai phương
pháp chưng cất này đều không thể phân tách dầu và sản phẩm dầu thành các phân đoạn hẹp vì có
một lượng thành phần có nhiệt sôi cao rơi vào ohần cất (distillat) và một phần phân đoạn nhiệt
độ sôi thấp ở lại trong pha lỏng. Do đó phải tiến hành ngưng tụ hồi lưu hoặc tinh cất. Với quá
trình này, dầu và sản phẩm dầu được nung nóng trong bình cầu. Hơi tạo thành khi chưng cất hầu
như không chứa thành phần sôi cao, được làm lạnh trong thiết bị ngưng tụ hồi lưu và chuyển
sang thể lỏng - phần hồi lưu. Chất hồi lưu chảy xuống dưới, lại gặp hơi tạo thành. Nhờ trao đổi
nhiệt thành phần sôi thấp của phần hồi lưu hóa hơi, còn phần có nhiệt độ sôi cao trong hơi sẽ
ngưng tụ. Trong quá trình tiếp xúc này sự phân tách sẽ tốt hơn.
Tinh cất là sự tiếp xúc giữa dòng hơi bay lên và dòng lỏng chảy xuống - phần hồi lưu. Để
tinh cất tốt phải tạo điều kiện tiếp xúc giữa pha hơi và pha lỏng. Sự tiếp xúc này thực hiện được
nhờ vào thiết bị tiếp xúc phân bố trong tháp (đệm, mâm ). Mức phân tách của các thành phần
phụ thuộc nhiều vào số bậc tiếp xúc và lượng hồi lưu chảy xuống gặp hơi.
Sơ đồ nguyên tắc chưng cất dầu ở áp suất khí quyển.
1- Lò nung dạng ống, 2- tháp chưng cất, 3- thiết bị làm lạnh, 4- bộ trao đổi nhiệt.
I- Dầu thô; II- sản phẩm trên (xăng); III- Kerosel; IV- dầu diesel; V- cặn chưng cất khí quyển
(mazut); VI- hồi lưu; VII- chất cấp nhiệt ( hơi nước).
Hình trên là sơ đồ nguyên tắc cụm chưng cất dầu ở áp suất khí quyển. Dầu thô được bơm
vào bộ trao đổi nhiệt 4, trong đó nó được gia nhiệt, sau đó đưa vào lò nung (1) và dầu được nung
nóng đến nhiệt độ cần thiết và được dẫn vào khoang bay hơi (vùng cấp) của tháp chưng cất (2).
Trong quá trình nung nóng, một phần dầu chuyển sang pha hơi. Dầu ở thể hai pha lỏng - hơi
được đưa vào tháp cất, trong đó do giảm áp một phần hơi nước được tạo thành, pha hơi tách ra
khỏi pha lỏng và bay lên trên dọc theo tháp, còn pha lỏng chảy xuống dưới. Trong tháp chưng

cất có các mâm chưng cất, trên đó có sự tiếp xúc giữa pha hơi bay từ dưới lên và pha lỏng chảy
từ trên xuống. Để cất phần lỏng của nguyên liệu ở dưới tháp người ta đưa nhiệt vào mâm cuối
cùng. Nhờ đó phần nhẹ của sản phẩm đáy chuyển sang pha hơi và do đó tạo hồi lưu hơi. Hơi hồi
lưu này bay lên từ mâm cuối cùng và tiếp xúc với pha lỏng chảy xuống và khiến cho pha lỏng
giàu các chất có nhiệt độ sôi cao.
1.5. Chưng cất dầu thô ở áp suất chân không
Sau khi chưng cất dầu dưới áp suất khí quyển ở nhiệt độ 350 ÷ 370
o
C, để chưng cất tiếp cặn
còn lại cần chọn điều kiện để loại trừ khả năng cracking và tạo điều kiện thu được nhiều phần cất
nhất. Phụ thuộc vào nguyên liệu từ cặn chưng cất khí quyển (mazut) có thể thu được distilat dầu
nhờn cho cụm sản xuất dầu nhờn, hoặc gasoil chân không - là nguyên liệu cho cracking xúc tác.
Phương pháp phổ biến nhất để tách các phân đoạn ra khỏi mazut là chưng cất trong chân không.
Chân không hạ nhiệt độ sôi của hydrocarbon và cho phép lấy được distilat có nhiệt độ sôi 500
o
C
ở nhiệt độ 410 ÷ 420
o
C. Tất nhiên khi gia nhiệt cặn dầu đến 420
o
C thì sẽ diễn ra cracking
một số hydrocarbon, nhưng nếu distilat nhận được sau đó được chế biến thứ cấp thì sự hiện
diện của các hydrocarbon không no không có ảnh hưởng đáng kể. Để điều chế distilat dầu nhờn
thì phân hủy cặn phải ít nhất bằng cách tăng hơi nước, giảm chênh lệch áp suất trong tháp chân
không. Nhiệt độ sôi của hydrocarbon giảm mạnh nhất khi áp suất dư thấp hơn 50
mmHg. Do đó cần ứng dụng chân không sâu nhất mà phương pháp cho phép. Ngoài ra, để
tăng hiệu suất distilat từ mazut đưa vào tháp chân không hơi nước quá nhiệt hoặc chưng cất cặn
chân không (gudron) với tác nhân bay hơi (phân đoạn ligroin- kerosen). Chân không tạo thành
nhờ thiết bị ngưng tụ khí áp hoặc máy bơm chân không (bơm piston, bơm rotary, bơm phun hoặc
bơm tia) mắc nối tiếp với nhau.

Chương II : Thiết bị công nghệ
2.1. Đĩa chưng cất (Tray)
Trong công nghệ dầu khí, để chưng cất những lượng khổng lồ (hàng triệu tấn/năm). Người ta
dùng những thiết bị chưng cất khổng lồ, hoạt động liên tục. Hơi nguyên liệu sẽ bay lên đỉnh tháp
và phần lỏng sẽ chảy xuống phần dưới tháp. Sự tiếp xúc giữa hai dòng này được thực hiện một
cách đặc biệt nhờ các đĩa.Tại các đĩa xảy ra quá trình trao đổi nhiệt giữa dòng hơi và dòng lỏng.
Đồng thời tại đây cũng xảy ra quá trình trao đổi chất, phần nhẹ trong pha lỏng bay hơi theo pha
hơi, phần nặng trong pha hơi ngưng tụ theo dòng lỏng. Như vậy, khi dòng hơi lên đến đỉnh thì rất
giàu cấu tử nhẹ, còn dòng lỏng đi xuống đáy lại giàu cấu tử nặng hơn. Có rất nhiều dạng đĩa khác
nhau được sử dụng tuỳ vào loại nguyên liệu. Nhưng mục đích chung nhằm đảm bảo sự tiếp xúc
giữa pha lỏng và pha hơi phải lớn để quá trình phân tách hiệu quả.
Hiện nay, sử dụng chủ yếu các dạng đĩa sau:
− Đĩa nhiều lỗ (Sieve Trays)
− Đĩa chụp (Bubble–Cap Trays)
− Đĩa ống khói (Chimmey Trays)
− Đĩa Van (Valve Trays)
2.2. Hệ thiết bị ngưng tụ khí áp - bơm phun.
Trong hệ này hơi thoát ra từ đỉnh tháp chân không, ngưng tụ ngay lập tức trong thiết bị
ngưng tụ khí áp và sau đó được hút bằng máy bơm chân không (thường bơm phun hơi). Áp suất
dư trong thiết bị ngưng tụ khí áp phụ thuộc vào nhiệt độ nước thải, nhưng không thấp hơn áp
suất hơi nước bão hòa ở nhiệt độ nào đó. Nước từ thiết bị ngưng tụ khí áp bị nhiễm sản phẩm dầu
và hợp chất lưu huỳnh (thường 5,5% so với mazut). Vì vậy để giảm dòng nước nhiễm bẩn trong
nhà máy nước thải được sử dụng lại. Tuy nhiên, khi đó nhiệt độ nước đổ vào thiết bị ngưng tụ
khí áp sẽ tăng đôi chút và phải trang bị thêm phụ kiện cho hệ cấp nước.
Trong sơ đồ tạo chân không bằng hệ thiết bị ngưng tụ khí áp - bơm phun. Sản phẩm dầu
ngưng tụ trong thiết bị ngưng tụ không hòa loãng bằng nước lạnh, nhờ đó nó dễ dàng tách ra
khỏi condensat, được thu gom vào bể lắng và giếng khí áp.
2.3. Hệ bơm phun - thiết bị ngưng tụ khí áp.
Trong sơ đồ này hơi từ trên tháp chân không đưa trực tiếp vào bơm phun, còn độ sâu của
chân không không phụ thuộc vào nhiệt độ của nước thoát ra từ thiết bị ngưng tụ khí áp. Nhờ đó

có thể tạo chân không sâu hơn (áp suất dư đạt 5 ÷ 10 mmHg). Độ sâu chân không phụ thuộc vào
đối áp tại cửa ra của bơm phun, vì vậy để tạo chân không sâu cần mắc nối tiếp vài bơm phun.
2.4. Các loại tháp chưng cất sử dụng trong công nghiệp.
- Tháp mâm xuyên lỗ
Ưu điểm : chế tạo đơn giản , vệ sinh dễ dàng , trở lực thấp hơn tháp chóp , ít tốn kim loại
hơn tháp chóp
Nhược điểm : yêu cầu lắp đặt cao : mâm lắp phải rất phẳng , đối với những tháp có đường
kính quá lớn (>2.4m) ít dùng mâm xuyên lỗ vì khi đó chất lỏng phân phối không đều trên mâm
- Tháp chóp
Ưu điểm : hiệu suất truyền khối cao , ổn định , ít tiêu hao năng lượng hơn nên có số mâm ít
hơn
Nhược điểm : chế tạo phức tạp , trở lực lớn
- Tháp đệm :
Ưu điểm : chế tạo đơn giản , trở lực thấp
Nhược điểm : hiệu suất thấp , kém ổn định do sự phân bố các pha theo tiết diện tháp không
đều , sử dụng tháp chêm không cho phép ta kiểm soát quá trình chưng cất theo không gian tháp
trong khi đó ở tháp mâm thì quá trình thể hiện qua từng mâm một cách rõ ràng , tháp chêm khó
chế tạo được kích thước lớn ở qui mô công nghiệp.
Chương III : Phân tích về điều khiển
Xét mô hình tháp chưng cất như sau:
Trong đó :
L condens : Lưu lượng ngưng tụ
D : Lưu lượng sản phẩm đỉnh
R
*
= : hệ số hồi lưu.
B : Lưu lượng sản phẩm đáy.
M : Khối lượng mol
X : Nồng độ mol của dung dịch
T : Nhiệt độ.

Các biến điều khiển quan trọng nhất là năng lượng thiết bị đun sôi Q
heating
, năng lượng thiết bị
ngưng tụ Q
cooling
, và hệ số hồi lưu R (ảnh hưởng đến áp suất làm việc của tháp), tuy nhiên ta sẽ
thay bằng hệ số hồi lưu R
*
. Xét các đầu ra của hệ thống có thể phân biệt được 2 loại là biến số
có điều khiển và biến số không điều khiển - ở đây ta quan tâm đên biến điều khiển. Ở mỗi khay
của tháp, ta đo nhiệt độ lien tục để xác định được điều kiện, trạng thái làm việc của tháp.
Một số giả thiết đơn giản hóa mô hình động học mà không ảnh hưởng đến khả năng khảo sát
thực tế tháp chưng cất :
- Các thuộc tính vật lý, các mối quan hệ được xác định thông qua thực nghiệm.
- Từng pha hơi và pha lỏng trong các khay là đồng nhất, tồn tại ở cùng nhiệt độ, áp suất và có
tương tác với nhau trong hỗn hợp.
- Khối lượng chất hơi coi là rất nhỏ so với khối lượng chất lỏng và có thể bỏ qua.
- Năng lượng của khối chất khí trong một khay có thể bỏ qua.
- Nhiệt độ của khay thay đổi theo nhiệt độ cân bằng tức thời. Nhiệt độ cân bằng tức thời được giả
thiết là biến phụ thuộc và được quyết định bởi nồng độ và áp suất của khay.
- Tỷ lệ hơi và lỏng trong khay không bị ảnh hưởng bởi sự truyền nhiệt ra môi trường.
- Bỏ qua động học khâu Reboiler và Condenser.
- Thành phần của dòng nước hồi lưu (refux consist) từ thiết bị ngưng tụ coi xấp xỉ tại điểm sôi.
Từ các giả thiết trên ta có các phương trình cân bằng thành phần và cân bằng khối lượng như
sau:
3.1. Phương trình cân bằng thành phần và khối lượng trong khay.
Các phương trình cân bằng được biểu diễn tới đơn vị là Mol/s. Phương trình cân bằng khối
lượng tổng quát :
= L
i+1

– L
i
+ V
i+1
– V
i
Trong đó L là lưu lượng chất lỏng, V là lưu lượng chất khí, M là lượng chất lỏng trong khay.
Phương trình cân bằng khối lượng khối lượng khi xét đến thành phần mol của cấu tử:
= L
i+1
.x
i+1
- Li.x
i
+ V
i+1
y
y-1
– V
i
y
i
Trong đó : x là phần mol của chất lỏng, y là phần mol của chất hơi.
Khai triển phương trình cân bằng khối lượng ta có:
= L
i+1
(x
i+1
-x
i

) + V
i+1
(y
-1
– y
i
) – V
i
(y
i
+ x
i
)

3.2. Phương trình cân bằng khối lượng và thành phần đối với khay cấp, khay đỉnh, và
khay đáy .
Ta có :
= L
f+1
+F – L
f
+ V
f+1
– V
f
= L
1
– V
o
– B

= L
condens
– L
n+1
– D
Trong đó các ký hiệu “f”, “o” , “n+1” tượng trung cho khay cấp, khay đáy và khay đỉnh.
Suy ra:
= L
f+1
(x
f+1
–x
f
) +F
L
(x
F
– x
f
) +F
V
(y
F
– x
f
)+ V
f+1
(y
f-1
– x

f
) – V
f
(y
f
+ x
f
)

M
o
= L
1
(x
1
– x
0
)

– V
o
(y
o
-x
o
)


M
n+1

= L
condens
(y
n
– x
n+1
)
Khi ta thay lưu lượng dòng hồi lưu L
n+1
bằng tỉ lệ hồi lưu thì lưu lượng dòng hồi lưu có thể
tính trực tiếp từ lưu lượng hơi ngừng tụ. Khối lượng mol riêng (mol/l) sẽ được điều chỉnh theo sự
sai khác giữa lưu lượng theo mol và lưu lượng theo thể tích.
L
n+1
= R
*
.L
condens
~R
*
L
condens
Trong đó
m
(y
n
) là khối lượng mol riêng của chất lỏng ở nồng độ mol y
n
(mol/m
3

), R
*
là hệ số
tỷ lệ hồi lưu.
3.3 Phương trình cân bằng pha.
Ở trạng thái cân bằng, nhiệt độ của chất lỏng, thành phần và áp suất có mối lien hệ với nhau,
tức là có thể biểu diễn một hàm lien hệ của một biến bất kỳ với hai biến còn lại. Trong phần
miêu tả tháp chưng cất, để xây dựng các mối quan hệ ở trạng thái cân bằng và phương trình cân
bằng năng lượng thì ta coi thành phần và áp suất là hao biến độc lập, nhiệt độ sẽ là biến phụ
thuộc.
Nồng độ của chất lỏng và áp suất được coi là các biến trạng thái nhiệt động học độc lập của
khay i. Dựa vào phương trình Daiton, Raoult và Antoine ta sẽ xác định được nhiệt độ và thành
phần hơi. Đối với hỗn hợp không lý tưởng có thể sự dụng phương trình Raoult thích nghi để tính
toán áp suất từng phần của thành phần thứ j (P
j
) từ áp suất thành phần hơi chỉ phụ thuộc vào
nhiệt độ ( P
j
0
). Hệ số tỷ lệ hơi ở trạng thái cân bằng y
j
e
là tỉ số giữa áp suất từng phần và áp suất
tổng. Như đã đề cập trước đó, áp suất và nhiệt độ của pha lỏng và pha hơi được giả thiết là bằng
nhau:
P
j
= x
j
β

j
P
j
o
, y
j
e
= , j = A,B
Tổng tỷ lệ hơi các thành phần sẽ bằng một:
y
A
e
+ y
B
e
= 1
Theo phương trình Antoine ta có áp suất hơi nguyên chất P
j
0

của thành phần j được tính:
P
j
0
= exp(A - ) j = A,B
Hệ số hoạt động của chất lỏng β
j
được quyết định từ các phương trình cân bằng theo lý
thuyết. Thông thường thì áp dụng phương trình Wilson sẽ cho kết quả tốt nhất:
lnβ

A
= - ln(x
A
+
AB
x
B
) + x
B
D
lnβ
B
= - ln(x
B
+
BA
x
A
) + x
A
D
D = =
Hệ số tương tác
AB

BA
giữa hai thành phần A và B trong hỗn hợp hai cấu tử có thể suy ra
từ công thức với hai biến số là thể tích mol tự do và nhiệt độ tuyệt đối. Nếu nồng độ chất lỏng x
và áp suất P được biết, thì nông độ hơi y
e

ở trạng thái cân bằng và nhiệt độ T có thể được tính
theo công thức :
y
j
=
Trong đó hệ số là hệ số bay hơi, là hàm của biến áp suất thành phần P
i
, khi áp suất từng phần
hạ xuống thấp hơn rất nhiều so với áp suất tuyệt đối, ta có thể coi như hệ số bằng hằng số.
Chương IV: Điều khiển tháp chưng cất
4.1 Cấu trúc điều khiển tháp chưng cất.
4.1.1 Quá trình chưng cất.
Thấp chưng cất sử dụng phương pháp phân tách nhiều trong ngành hóa chất. Quá trình phân tách
thường diễn ra trong các tháp chưng cất liên tục với một đầu vào (F), một sản phẩm đỉnh (D), và
một sản phẩm đáy (B) .
Quá trình phân tách được thực hiện nhờ sự tiếp xúc các dòng ngược nhau giữa hơi và chất lỏng
trong các đĩa. Lực dẫn động chính là do sự chênh lệch vận tốc của các cấu tử. Lưu lượng hơi
được sinh ra từ lò hơi được cấp nhiệt bằng hơi hoặc nước nóng hoặc khí thải (H). Nếu liệu vào
được hóa hơi một phần thì lưu lượng hơi sẽ tăng thêm phần hơi của liệu vào tại chỗ mà nó được
đưa vào tháp.
Lưu lượng hơi từ đỉnh tháp được ngưng tụ tại giàn ngưng nhờ nước hoặc không khí. Cũng có thể
truyền nhiệt từ giàn ngưng sang các quá trình khác để tận dụng năng lượng.
Sản phẩm chưng cất được đưa vào bình tích, từ đó, một phần chất lỏng quay trở lại tháp và gọi là
dòng hồi lưu. Phần còn lại là sản phẩm đỉnh (D). Dòng hồi lưu bên trong có thể lớn hơn dòng hồi
lưu ngoài nếu nó được làm mát không nhiều, do làm ngưng một lượng hơi.
Lưu lượng chất lỏng trong tháp tăng tại các đĩa cấp (khay cấp) là do phần chất lỏng được cấp
vào. Ở phần đáy tháp, chất lỏng được hóa hơi lại tại nồi hơi, phần còn lại chính là sản phẩm đáy
(B).
4.1.2 Mục tiêu của quá trình.
Mục tiêu đầu tiên của quá trình chưng cất là tách một hoặc nhiều thành phần dễ bay hơi ra khỏi

liệu cấp.Thường thì có một yêu cầu chất lượng cho sản phẩm đỉnh hoặc đáy. Nếu độ tinh khiết
của sản phẩm nhỏ hơn chỉ tiêu kĩ thuật thì giá trị của sản phẩm thấp hơn nhiều so với sản phẩm
đạt tiêu chuẩn. Hay độ tinh khiết càng cao thì giá trị sản phẩm càng cao. Độ tinh khiết đôi khi
được thể hiện trong nồng độ của thành phần chính trong dung môi. Các thành phần khác sẽ dễ
hoặc khó bay hơi hơn sản phẩm chính. Trong tháp chưng cất, các sản phẩm nhẹ sẽ đi lên đỉnh,
các sản phẩm nặng sẽ đi xuống đáy.
Độ tinh khiết được biểu diễn thông qua nồng độ của thành phần nặng trong sản phẩm đinh và
nồng độ của thành phần nhẹ trong sản phầm đáy. Chúng ta sẽ giả thiết rằng yêu cầu về độ tinh
khiết của sản phẩm đỉnh là rất chặt chẽ, không cần quan tâm đến yêu cầu về độ tinh khiết của sản
phẩm đáy, từ đó đưa ra các nguyên lý hoạt động phù hợp cho tháp chưng cất.
Cũng có một số tháp chưng cất yêu cầu chặt chẽ về chất lượng của cả sản phẩm đỉnh và sản
phẩm đáy. Trong thực tế ít khi cài đặt cấu hình điều khiển chất lượng cho cả hai sản phẩm đỉnh
và đáy, khi chúng ta điều khiển để cải thiện chất lượng cho một sản phẩm thì thường cũng cải
thiện đáng kể chất lượng cho các sản phẩm khác.
4.1.3 Biên hệ thống và nhiễu bên ngoài.
Giả sử tháp chứng cất không đa dụng. Nguyên liệu đi trực tiếp vào tháp từ các bộ phận trước mà
không có bộ đệm. Trong trường hợp đó, các nguồn nhiễu là:
1. Lưu lượng liệu cấp
2. Hỗn hợp liệu cấp
3. Enthanlpy liệu cấp ( nhiệt độ và tỉ lệ hơi-lỏng)
4. Các thành phần khác: Áp suất hơi, nhiệt độ nước làm lạnh
4.1.4 Lựa chọn biến điều khiển.
a) Điều kiện quá trình
Sự phân tách trong tháp được xác định bằng hệ hai bậc tự do: lưu lượng hơi và lưu lương lỏng.
Hơn nữa, áp suất sẽ ảnh hưởng đến quá trình hoạt động. Giả sử rằng áp suất được đặt ở áp suất
theo thiết kế. Đối với một tháp chưng cất hoạt động tốt, việc điều chỉnh hợp lý tỉ lệ liệu vào với
sản phẩm đỉnh và đáy theo cân bằng khối lượng và thành phần ở là rất quan trọng.
Ví dụ
Lưu lượng liệu gồm 40 tấn thành phần nhẹ/ ngày, 60 tấn thành phần nặng / ngày và phải tách ra
để sản phầm đạt độ nguyên chất 99%. Nếu lưu lượng sản phẩm đỉnh là 41 tấn/ngày thì nó chứa ít

nhất 1 tấn thành phần nặng do chỉ có 40 tấn thành phần nhẹ. Điều này có nghĩa là độ tinh khiết
đạt 97,6%. Tương tự có thể áp dụng cho sản phẩm đáy. Việc cài đặt tỉ lệ D/B ( hoặc D/F, B/F
hoặc tỉ lệ giữa các biến như thế) rất quan trọng và nên được điều chỉnh trong các trường hợp
khác nhau, chẳng hạn như thay đổi thành phần liệu cấp.
b) Bình tích chất lỏng.
Mức chất lỏng trong các đĩa của tháp chưng cất sẽ tự điều chỉnh. Mức của bình tích sản phẩm
đỉnh, mức bình chứa chất lỏng của bình ngưng và mức đáy phải được điều khiển và giữ chúng
trong vùng làm việc.
c) Chất lượng
Tháp chưng cất hoạt động tốt có thể điều chỉnh tự động các sản phẩm có giá trị nhất. Bởi vì các
bộ điều chỉnh chất lượng đảm bảo độ tinh khiết cho một sản phẩm, các sản phẩm khác có thể
thay đổi trong một vùng nhất định. Nếu muốn, biến hiệu chỉnh thứ 5 có thể dược dùng để thực
hiện quá trình tối ưu.
Trên thực tế, bộ điều khiển nhiệt độ thường được sử dụng như một dạng đơn giản của điều khiển
chất lượng. Theo định luật pha của Gibbs, đối với hỗn hợp 2 cấu tử thì nồng độ được xác định
khí áp suất và nhiệt độ là hằng số. Rõ ràng điều này không còn đúng với hỗn hợp nhiều hơn 2
cấu tử. Có thể ước lượng được chất lượng của sản phẩm dựa vào đo nhiệt độ của một vài khay và
các đại lượng có thể thuận tiện để đo. Phương pháp này gọi là đo lường suy diễn.
Trong phần tiếp theo, điều khiển chất lượng sản phẩm đỉnh sẽ được nghiên cứu, trong khi điều
khiển chất lượng sản phẩm đáy sẽ được thực hiện nhờ điều khiển nhiệt độ đáy tháp (T), nhiệt độ
này giống như đo suy diễn chất lượng sản phẩm đáy.
Đối với một đáp ứng động học tốt, vị trí đo nên đặt ở giàn ngưng và trước nồi hơi.
4.1.5 Lưu lượng cấp
Trong ví dụ về tháp chưng cất này, chúng ta giả thiết rằng liệu cấp được đưa vào bằng bộ phận ở
quá trình trước. Điều này nghĩa là tải là cố định.
4.1.6 Lựa chọn biến hiệu chỉnh
Nếu liệu được đưa vào trong tháp mà không có bộ đệm thì nó không thể điều khiển lưu lượng
hơi trong cả hai phần của tháp độc lập nhau. Điều này cũng đúng cho lưu lượng lỏng. Vì vậy số
biến điều khiển ở đây là 2: H hoặc C và R ( Hình dưới). Về pha hơi, hệ sẽ sử dụng thêm một bậc
tự do ( cho C hoặc H tương ứng), nếu điều khiển áp suất. Trong dòng hơi đến giàn ngưng và nồi

hơi bên trong, không có van nào được cho phép. Những lưu lượng này được xác định bởi C và
H.
Về phía pha lỏng, nồng độ tại các đĩa là tự chỉnh, vì vậy không cần thêm bậc tự do.
Ở chế độ tĩnh, không có biến điều chỉnh độc lập nào được thêm vào ở cả đỉnh và đáy. Ở chế độ
động, cần điều khiển mức cho bình tích ở đỉnh và đáy, vì vậy D và B có thể được sử dụng như
các biến điều khiển bổ sung.
Tổng cộng có 5 biến hiệu chỉnh ( D, B, H, C, R) và năm biến điều khiển L
D,
L
B
, P, x
D
, T.
4.1.7 Tốc độ và công suất điều khiển.
Đối với mọi cặp biến điều khiển và hiệu chỉnh, tốc độ và công suất điều khiển đều được nghiên
cữu kĩ. Kết quả thu được sẽ hướng dẫn ta phát triển các sơ đồ điều khiển cơ bản.
a) Điều khiển áp suất
B và D không nên dùng để điều khiển áp suất do thiếu công suất điều khiển. R cũng không thể
dùng nếu độ quá lạnh không đủ lớn. C và H có công suất điều khiển lớn, do đó, chúng ảnh hưởng
ngay lập tức đến dòng hơi đến và đi.
Đáp ứng động học của áp suất tới sự thay đổi C và H có thể được phân tích nhờ hình dưới đây
( Hình dưới cho thấy các tương tác trong tháp chưng cất). Đáp ứng của dòng hơi đỉnh (V
c
) trong
giàn ngưng thường tương đối nhanh; hằng số thời gian được xác định bởi năng suất tỏa nhiệt
đường ống (J/K), là tỉ số giữa tổng hệ số truyền nhiệt và diện tích tương ứng bên trong và ngoài
đường ống. Bộ hóa hơi ( dòng hơi V
H
) cũng thường có đáp ứng động học nhanh. Sự khác nhau
giữa dòng hơi từ nồi hơi và dòng hơi tới giàn ngưng là do sau khi đồng nhất đáp ứng áp suất (bỏ

qua chênh lệch áp suất chạy trong tháp để đơn giản hóa vấn đề). Tốc độ thay đổi áp suất bị giới
hạn bởi tổng công suất nhiệt của đĩa, đáy và đỉnh.
Giá trị tĩnh của đáp ứng áp suất được xác định nhờ hệ tự điều chỉnh trong nồi hơi và giàn ngưng:
nhiệt độ đỉnh và đáy cao hơn nên áp suất cao hơn để tăng cường truyền nhiệt trong giàn ngưng
và giảm truyền nhiệt trong nồi hơi. Cuối cùng, cân bằng giữa V
C
và V
H
được lập lại.
Tuy nhiên, sự tự chỉnh cũng bị ảnh hưởng bởi đáp ứng thành phần ( còn gọi là tự điều chỉnh
thành phần): thay đổi bước nhảy H, thông qua áp suất cao hơn và nhiệt độ đỉnh cao hơn, lưu
lượng hơi đỉnh sẽ tăng lên. Điều này sẽ làm tăng các thành phần khó bay hơi hơn trong sản phẩm
đỉnh, kết quả là nhiệt độ đỉnh tăng nhiều hơn và lưu lượng hơi ở đỉnh cũng tăng nhiều hơn. Đó là
kết quả của phản hồi dương, cuối cùng, áp suất dừng ở giá trị thấp hơn. ( Hình dưới)
Đáp ứng của áp suất khi H thay đổi bước nhảy
Rõ ràng do đáp ứng động học này, H không thích hợp cho điều khiển áp suất. Tuy nhiên hệ tự
chỉnh đáp ứng thành phần ở đáy tạo ra phản hồi âm, kết quả là đáp ứng áp suất khi thay đổi C
không bị xấu đi.
Kết luận, C và H đều phù hợp cho việc điều khiển áp suất ( tốc độ điều khiển được xác định bằng
bằng số thời gian nhỏ trừ trường hợp của H, hệ tự chỉnh thành phần trong giàn ngưng là quá
mạnh.
b) Điều khiển mức đỉnh
B không phù hợp với điều khiển mức đỉnh do công suất điều chỉnh bằng không. D ít phù hợp khi
tỉ số hồi lưu (R/D) lớn. C và R có công suất điều khiển lớn. Đáp ứng của mức khi thay đổi D, R
và C thuận lợi cho việc điều khiển: thành phần động học quan trọng là bộ tích phân. Đáp ứng khi
thay đổi H là không thuận lợi; lưu lượng chất ngưng từ giàn ngưng chỉ tăng khi áp suất tăng.Vì
vậy, đáp ứng có thể xấp xỉ bởi động học áp suất kiểu cascade ( hằng số thời gian lớn ) và động
học mức ( tích phân ). Kết luận, C, R và D có thể là biến hiệu chỉnh cho điều khiển mức đỉnh trừ
trường hợp D, tỉ số hồi lưu lớn.
c) Điều khiển mức đáy

D không phù hợp cho điều khiển mức đáy do công suất điều khiển bằng không. B ít phù hợp khi
tỉ số hóa hơi (V
H
/B) lớn. H, C và R thường có công suất điều khiển lớn. Đáp ứng lưu lượng lỏng
ở đĩa đầu tiên (L1) từ sự thay đổi R là một đáp ứng bậc nhất cascade:
Trong đó, τ
L
= hằng số thời gian thủy lực học cho mỗi đĩa ( bao gồm phần xả) và N= số đĩa.
Cho dù τ
L
nhỏ (2s) thì lượng lớn đĩa (40) sẽ ảnh hưởng đáng kể đến thời gian chết (80s), điều này
cùng với động học thủy lực của nồi hơi và tích phân của mức đáy sẽ dẫn đến điều khiển mức
chậm ( thời gian dao động lớn hơn 480s)
Đáp ứng của mức đáy khi thay đổi H không thuận lợi về động học khi độ nhạy của lưu lượng
lỏng trong tháp do sự thay đổi của lưu lượng hơi có giá trị không thích hợp. Điều này đúng khi
tham sô λ lớn hơn 0.5 ( xem bảng). Với λ là:
Trong đó, L= lưu lượng chất lỏng, V= lưu lượng chất khí, M
L
= lượng chất lỏng trên một đĩa
( gồm cả phần thải)
Tuy nhiên, không có nhiều thông tin về giá trị của λ khi hàm tải của đĩa cho các tháp khác nhau
đã có. Các dữ liệu đã có chỉ ra rằng λ
L
cón thể lớn ở tải đĩa thấp ( thậm chí >1), giá trị ở các tải
đĩa cao có xu hướng nhỏ hơn hoặc bằng 0 thậm chí có thể âm.
Kết luận, B là một biến hiệu chỉnh thuận lợi, trừ khi giá trị của V
H
/B lớn và H là biến hiệu chỉnh
thích hợp trừ khi λ>0.5.
d) Điều khiển chất lượng

Đáp ứng của các thành phần chính có thể được xấp xỉ bởi đáp ứng của tổng đại số của các thay
đổi lưu lượng cục bộ tương đối, tuân theo hàm bậc nhất với hằng số thời gian lớn:
Trong đó, L
i+1
= lưu lượng lỏng đến đĩa, V
i-1
= lưu lượng hơi đến đĩa i và τ
i
= hằng số thời gian
lớn ( tỉ lệ với bình phương số đĩa )
Vì vậy, đáp ứng của chất lượng sản phẩm đáy khi thay đổi dòng hồi lưu không phù hợp cho điều
khiển tự động với lý do như đã trình bày ở phần mức đáy. Điều này không đúng cho điều khiển
chất lượng đỉnh hoặc chất lượng tại một đĩa gần đỉnh bởi vì trong trường hợp này số đĩa nhỏ.
Tương tự, lưu lượng lỏng ( với điều khiển áp suất theo C hoặc H tương ứng) ít phù hợp cho điều
khiển chất lượng đáy khi tham số λ
*
lớn hơn 0.5.
B và D không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, có thể nói rằng, R, C và H
phù hợp cho điều khiển chất lượng đỉnh. C và H phù hợp với điều khiển chất lượng đáy nếu
λ
*
<0.5. Không có biến thay thế ở đây.
Lựa chọn sơ đồ điều khiển cơ bản
Bảng dưới đây mô tả kết luận và các nghiên cứu ở các phần trước, chúng ta có thể tìm ra các sơ
đồ điều khiển cơ bản khác nhau. Dấu ++ chỉ sự kết hợp không thích hợp, dấu - - chỉ sự kết hợp
thích hợp
Sơ đồ điều khiển phải có khả năng điều chỉnh sự thay đổi lưu lượng và thành phần liệu cấp.
Chẳng hạn, tăng liệu và thành phần liệu cùng một lúc thì sản phẩm đỉnh và đáy tăng.
Liệu cấp dễ bay hơi hơn với cùng lưu lượng thì phải cho nhiều sản phẩm đỉnh hơn và ít sản phẩm
đáy hơn… Vì vậy, D và B không được bỏ qua trong sơ đồ điều khiển. Cả hai đều phải được điều

chỉnh thông qua bộ điều chỉnh để phù hợp với thay đổi của tình huống.
4.2 Điều khiển cân bằng năng lượng và vật chất.
Mục đích điều khiển cho thấp chưng cất là chất lượng của sản phẩm đỉnh dựa trên kỹ thuật cân
bằng vật chất. Điều khiển cân bằng vật chất và cân bằng năng lượng là 2 sơ đồ điều khiển có thể
thực hiện ở đây. Dựa vào những tiêu chuẩn khác nhau để xem xét lựa chọn sơ đồ điều khiển phù
hợp.
Hình 5.1 Sơ đồ điều khiển cơ bản
Trong điều khiển cân bằng năng lượng, tỷ số hồi lưu vào / lưu lượng hơi để điều khiển chất
lượng sản phẩm ở đỉnh.
Trong khi đó lưu lượng đáy được sử dụng cân bằng để duy trì cân bằng khối lượng. Trong
trường hợp cân bằng vật chất, một lưu lượng sản phẩm được sử dụng để điều khiển chất lượng
sản phẩm, trong khi đó lưu lượng sản phẩm khác duy trì cân bằng vật chất.
Hình 5-2 Điều khiển cân bằng năng lượng
Hình 5-3 Điều khiển cân bằng vật chất
Sơ đồ điều khiển cân bằng năng lượng và vật chất được phát triển cho trường hợp điều khiển vị
trí kép, cũng có các sơ đồ điều khiển cân bằng năng lượng và vật chất khác. Sự khác biệt chính
trong các sơ đồ điều khiển này là trường hợp điều khiển cân bằng năng lượng sự hồi lưu và lưu
lượng hơi ảnh hưởng tới điểm cắt (chưng cất – đáy – tỉ lệ) giống như phân đoạn, ở trường hợp
điều khiển cân bằng vật chất điều khiển điểm cắt và sự phân đoạn được tách biệt.Hoặc tỉ lệ hồi
lưu hoặc lưu lượng hơi được thao tác để điều khiển phân đoạn.
4.3 Tính toán điều khiển.
Điều khiển tính toán mức nước trong tháp thường được sử dụng bởi cách điều khiển mức ống
hồi lưu và mức đáy. Mức ở trong ống hồi lưu có thể được điều khiển bởi lưu lượng hồi lưu (R),
trong trường hợp này sơ đồ điều khiển được gọi là sơ đồ điều khiển cân bằng vật chất. Nếu
miệng xả sản phẩm đỉnh trong trường hợp này người ta gọi là điều khiển cân bằng năng lượng.
Để điều khiển đúng mức trong ống hồi lưu, các hệ số dưới đây phải được xem xét.
- Mục đích điều khiển mức
Công suất điều khiển của các bộ điều khiển mức, cùng đáp ứng thay đổi trên D và R.
Ảnh hưởng của các hoạt động điều khiển trên các khối xử lý ống xả.
Để điều khiển công suất đầu ra dễ dàng hơn, thì việc điều khiển D bị giới hạn. Nếu lưu lượng hồi

lưu được đặt không đổi, khi thay đổi lưu lượng hơi thì làm thay đổi lớn lưu lượng sản phẩm đỉnh
để duy trì ổn định mức trên ống hồi lưu. Điều này vi phạm đến giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất
của lưu lượng ống xả. Do đó để dễ dang điều khiển được độ nhạy của mức trên ống hồi lưu ta
chọn tỉ số hồi lưu cao (>5).
- Nếu điều khiển cân bằng năng lượng sử dụng trường hợp R/D > 5 thì có thể tăng công
suất điều khiển bằng cachs duy trì tỷ số R/D không đổi theo thời gian. Lưu lượng sản
phẩm D vẫn sử dụng giống biến hiệu chỉnh để duy trì mức ở ống hồi lưu không đổi.
Lưu lượng sản phẩm đáy của tháp chưng cất được điều khiển bởi sơ đồ cân bằng năng lượng
có biến động, khi đó nó được điều khiển bởi 1 bộ điều khiển mức, thông thường nó sẽ ảnh
hưởng đến quá trình điều khiển ống xả. Do đó , khi lưu lượng sản phẩm không được cho phép
biến động hoặc nếu một lưu lượng sản phẩm được làm lớn hơn nhưng cái khác thì sơ đồ điều
khiển cân bằng vật chất được lựa chọn.
Trong trường hợp điều khiển cân bằng vật chất , hoạt động hiệu chỉnh của bộ điều khiển chất
lượng trên dòng sản phẩm không ảnh hưởng tới tháp chưng cất, nghĩa là lượng sản phẩm ở
đỉnh. Chỉ có bộ điều khiển mức điều khiển được tỷ số hồi lưu. Do đó phải tổng hợp bộ điều
khiển cẩn thận, làm cho quá trình động học của vòng điều khiển mức giảm đến mức nhỏ nhất.
Nếu trong sơ đồ điều khiển cân bằng vật chất được sử dụng và ống hồi lưu lớn thì công suất
điều khiển có thể tăng bằng cách giữ cho tỷ số R\D không đổi cùng với bộ điều khiển tỷ lệ lưu
lượng. Trong trường hợp này lưu lượng hồ lưu được điều chỉnh để thay đổi.

×