Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ĐỔI mới, cải CÁCH ở VIỆT NAM và TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.92 KB, 27 trang )

ĐỔI MỚI, CẢI CÁCH Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
1. Đổi mới và thành công ở Trung Quốc.
* Chủ nghĩa xã hội đặc sắc trung Quốc.
Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, giàu về tài nguyên và dân số
cũng rất đông. Do hoàn cảnh lịch sử mà trong đó có một số điều kiện không
thuận lợi khi Trung Quốc bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - cơ bản là điểm
xuất phát thấp so với nhiều nước trên thế giới cùng thời, nhất là với các nước
phương Tây đã có bước dài, hàng trăm năm trải qua tiến trình công nghiệp hóa
và cả hiện đại hóa. Hơn thế nữa trong vài thập kỷ trở lại đây, những biến đổi
toàn cầu vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI diễn ra vô cùng nhanh chóng,
thậm chí không thể lường trước được - nhân loại đã tiến bộ vượt bậc, tạo ra
những kỳ tích khoa học công nghệ với tốc độ chưa từng thấy, rút ngắn thời
gian và khoảng cách phát triển hàng trăm năm so với trước; đồng thời trên cơ
sở đó, không gian trở nên được thu hẹp, hình thành thế giới phẳngggg; và các
mối quan hệ tăng lên, gần lại, có sức tác động, lan tỏa nhiều hơn, mạnh hơn.
Trong bối cảnh đó, tụt hậu là một khái niệm không thể không nhận
thức, đặc biệt đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Ta, chúng
ta đang ở đâu và phải làm gì để phát triển, tiến lên cùng thời đại và tham vọng
trở thành nhân tố tiên phong của thời đại? Đó là một câu hỏi lớn và hoàn toàn
tích cực đối với Đảng cộng sản và nhân dân trung Quốc
Bề dày lịch sử với nền văn hóa lâu đời, rực rỡ của dân tộc Trung Hoa đã
có câu trả lời cho riêng mình trước yêu cầu mới của đất nước và thời đại mà
nhân tố quan trọng hàng đầu là tìm ra cách thức và lời giải, đó chính là Đảng
Cộng sản Trung Quốc với sứ mệnh tiền phong của mình: phải tiến hành cải
cách, cải tổ nền kinh tế và đất nước.
Quá trình hơn 30 năm tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa của Trung
Quốc, vấn đề luôn được Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt ra mang tính cơ sở
1
nhằm hình thành đường lối tổng thể và phát triển đường lối trong từng giai
đoạn là trước hết phải giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, tất cả phải xuất
phát từ thực tế. Đây là phương pháp không mới, song Đảng Cộng sản Trung


Quốc đã sáng tạo và có tính đột phá khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào
tình hình cụ thể, xác lập sự định hướng về cách làm trên cơ sở phát huy nội
lực trí tuệ; cũng là phương thức lãnh đạo của Đảng với phương châm: tôn
trọng quy luật khách quan, tránh rập khuôn, giáo điều, duy ý chí.
Cuộc thảo luận lớn về vấn đề Tiêu chuẩn chân lý năm 1978, do đồng
chí Đặng Tiểu Bình lãnh đạo, chủ trì là một biểu hiện rõ nét, chính nó là cơ sở
để Hội nghị Trung ương 3, khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ
chức vào 12/1978 đi đến kết luận là phải tạo ra một bước ngoặt lịch sử: Thực
hiện bước chuyển vĩ đại trong lịch sử phát triển kể từ khi thành lập nước, mở
ra thời kỳ lịch sử mới cải cách, mở cửa.
Tiến trình lịch sử cải cách, mở cửa của Trung Quốc không chỉ dừng lại
ở việc xác lập đường lối đúng đắn mà còn đòi hỏi ý chí thực hiện với sự nhất
trí cao về chính trị và tinh thần, trước hết là trong nội bộ Đảng và đến toàn xã
hội. Đây là một điểm nổi trội trong lãnh đạo về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Ngay từ đầu, đồng chí Đặng Tiểu Bình đã thể hiện hết
sức quyết liệt: Nếu như bây giờ không thực hiện cải cách, thì sự nghiệp hiện
đại hóa và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của chúng ta sẽ bị chôn vùi.
Càng cải cách mở cửa, Đảng Cộng sản Trung Quốc càng không ngừng
nghiên cứu, khảo sát để tổng kết thực tiễn, nâng thành lý luận, phổ biến lý
luận và nâng tầm lý luận. Nhờ đó, trên hầu hết các lĩnh vực cơ bản đều xác lập
quan điểm, hình thành hệ thống lý luận với tên gọi đã trở nên phổ biến là Chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Hệ thống lý luận này có cơ sở tư tưởng và
được kế thừa, phát triển ở Trung Quốc là Chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao
Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng Ba đại diện Giang
2
Trạch Dân, quan điểm phát triển khoa học Hồ Cẩm Đào; nhưng điều quan
trọng hơn cả là nó không thoát ly mục tiêu của lý luận Mác xít, phù hợp với ý
chí, nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc đã được xác định ngay từ đầu
trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa: Thực hiện đất nước phồn vinh
giàu mạnh và nhân dân cùng giàu có. Tất cả điều đó, đã toát lên tinh thần

nhân văn, tính nhân bản, có ý nghĩa bản chất của hệ thống lý luận là lấy con
người làm gốc.
Thực tiễn đã kiểm nghiệm chân lý, đã khẳng định tính khả thi, sức
sống mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực của hệ thống lý luận CNXH đặc sắc Trung
Quốc của đất nước bạn trong quá trình thực hiện cải cách mở cửa. Đó là:
- Kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng vượt bậc, vươn lên trở thành nền
kinh tế đứng hàng thứ ba trên thế giới. Gắn liền với thành tựu ấy, đời sống của
nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, diện mạo đất nước thay đổi chưa từng có.
Tôi thật sự ấn tượng với thành phố Bắc Kinh hiện đại, trong lành và thoáng
đãng, hệ thống vận tải hành khách công cộng nườm nượp nhiều tầng với tốc
độ cao; nhiều khu vực nông thôn ven đô trở nên khang trang khá giả; hàng hóa
phong phú, dồi dào và có vẻ như dư thừa
- Thực tế có những điều Trung Quốc mong muốn những chưa đạt được,
như muốn xoá bỏ: tình trạng phân hóa giàu nghèo; chênh lệch mức sống giữa
thành thị - nông thôn; chênh lệch giữa các vùng; vấn đề sử dụng tài nguyên và
xử lý môi trường sinh thái Tuy nhiên qua trao đổi với giảng viên, chúng tôi
được biết, các vấn đề, nhất là mặt chưa được đều đã được nhìn nhận thật rõ
ràng và đang đề ra cách thức giải quyết; điều này thể hiện tinh thần quyết tâm,
sự kiên trì làm theo các đường lối, quan điểm mà hệ thống lý luận đã đề ra.
Một trong những vấn đề mới rất chú trọng như:
+ Xây dựng kinh tế làm trung tâm, phát triển toàn diện, nhịp nhàng, bền
vững, đi theo con đường công nghiệp hóa kiểu mới, xây dựng nông thôn mới
3
XHCN; xây dựng xã hội với mô hình tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi
trường;
+Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình
thức sở hữu, trong đó lấy chế độ công hữu làm chủ đạo; thực hiện chế độ phân
phối kết hợp giữa phân phối theo lao động và nhiều loại hình thức phân phối
khác;
+ Thực hiện bồi dưỡng con người mới bốn có (có đạo đức, có trình độ,

có sức khoẻ, có tinh thần dân tộc) làm mục tiêu xây dựng hệ thống giá trị hạt
nhân xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng xã hội lấy dân sinh làm trọng điểm, kiện toàn cơ chế an
sinh xã hội phủ khắp thành thị và nông thôn, hoàn thiện sự nghiệp phúc lợi xã
hội và sự nghiệp từ thiện, làm tốt việc quản lý xã hội, giữ gìn ổn định xã hội,
thúc đẩy xã hội công bằng chính nghĩa;
+ Đi theo con đường phát triển hòa bình, thuận theo trào lưu thời đại
hòa bình, phát triển hợp tác, thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình độc lập
tự chủ, cùng với nhân dân các nước trên thế giới thúc đẩy xây dựng thế giới
hài hòa, hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh;
+ Dựa vào công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc, các tầng lớp xã hội mới hình thành trong cải cách mở cửa
cũng là người xây dựng sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, tôn
trọng người lao động, tôn trọng tri thức, trọng người tài nhằm huy động rộng rãi
nhất, đầy đủ nhất mọi nhân tố tích cực tham gia vào cuộc cải cách mở cửa;
+ Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tinh thần cải cách sáng
tạo, tăng cường ý thức cầm quyền, cải cách phương thức cầm quyền, nâng cao
năng lực cầm quyền, thúc đẩy cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm
quyền theo pháp luật, cầm quyền tốt, nắm quyền vì nhân dân;
4
Nhờ có hệ thống quan điểm toàn diện đối với các vấn đề cơ bản và kể
cả nhiều vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện, theo đó mà công cuộc
cải cách mở cửa đã đạt được những thành tựu và hiệu quả. Việc kiên trì các
quan điểm chủ yếu của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trong thực tiễn đã có ý nghĩa đích thực trong xây dựng và phát triển đất
nước Trung Quốc đương đại.
- Nội hàm của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
chứa đựng tính chất phát triển, vì nó mang tính kế thừa và là hệ thống mở,
được định vị bằng cụm từ quan điểm phát triển khoa học trong nội dung khái
quát. Trong Báo cáo Đại hội XVII, Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định:

Quan điểm phát triển khoa học, ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phát triển,
hạt nhân là lấy con người làm gốc, yêu cầu cơ bản là toàn diện, nhịp nhàng,
bền vững, phương pháp căn bản là tính toán tổng thể chiếu cố các bên. Lý
luận này có cội nguồn từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, nay được thể
hiện sát thực hơn trước hiện thực phong phú của đất nước Trung Quốc. Theo
đó, lĩnh vực trước tiên và căn bản là phát triển kinh tế, bởi lực lượng sản xuất
là lực lượng quyết định cuối cùng đối với sự phát triển của xã hội loài người,
sản xuất vật chất là cơ sở để xã hội loài người tồn tại và phát triển. Do vậy,
việc nắm chắc tư tưởng xây dựng kinh tế là trung tâm, không ngừng giải
phóng và phát triển sức sản xuất của xã hội, đồng thời thực hiện tốt chiến
luợc: khoa học giáo dục chấn hưng đất nước, chiến lược nhân tài làm lớn
mạnh đất nước, chiến lược phát triển bền vững, tập trung nắm bắt quy luật
phát triển, chuyển biến phương thức phát triểnnnnđã phá bỏ những khó khăn,
trở ngại trong phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển, thực hiện
phát triển vừa tốt vừa nhanh, đặt nền tảng vững chắc cho phát triển chủ nghĩa
xã hội đặc sắc Trung Quốc.
* Trung Quốc - 30 năm với những thành tựu cải cách
5
Kiến trúc sư của chính sách cải cách táo bạo này là nhà lãnh đạo Trung
Quốc Đặng Tiểu Bình. Ông đã mạnh dạn quay lưng lại với chế độ bao cấp,
thay những khẩu hiệu cũ bằng những khẩu hiệu mới: “bất chấp mèo trắng hay
mèo đen, chỉ cần nó biết bắt chuột”, “làm giàu là vinh quang”, hoặc “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kết quả là, từ một nước nghèo,
Trung Quốc dần trở thành một quốc gia hiện đại và có ảnh hưởng toàn cầu.
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc luôn duy trì tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức cao, trung bình 9,8%/năm, gấp ba lần so với
mức tăng trưởng trung bình của thế giới, và gần 240 triệu người ở nông thôn
đã thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Năm 1986, Trung Quốc triển khai chính sách cải cách mở cửa, cải cách
các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế

nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Nhiều đặc khu
kinh tế được mở ra như Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải để thu hút đầu tư
nước ngoài, giúp tạo ra động lực phát triển cho toàn bộ đất nước. Tháng
9/1995, Trung Quốc đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch sang cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuối năm 2001, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), chính thức trở thành một thành viên trong hệ thống thương mại đa
phương toàn cầu. Tháng 8/2008, Trung Quốc đã tổ chức thành công Đại hội
Olimpics, được đánh giá là đại hội quy mô hoành tráng và thành công nhất
trong lịch sử các kỳ đại hội. Trung Quốc dần khẳng định vị trí trong top 4
nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Lễ kỷ niệm 30 năm thực hiện chính sách cải cách và mở cửa đất nước
được Trung Quốc tổ chức trọng thể hôm qua chính là sự ghi nhận của toàn
thể nhân dân Trung Quốc về tầm quan trọng và những thành tựu to lớn mà
công cuộc cải cách đã mang lại, đúc kết các kinh nghiệm và củng cố lập
6
trường tiếp tục đưa đất nước đi tiếp con đường chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc.
Vẫn còn những thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt trong tương lai,
như khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, tốc độ mở rộng sản xuất và đô thị
hóa tăng nhanh kéo theo những vấn đề về môi trường và xã hội khác. Làn
sóng lao động từ nông thôn đổ về thành thị Trung Quốc đang tăng mạnh và
các nhà phân tích dự đoán là sẽ kéo theo những hệ quả như sự bùng nổ phát
triển về giao thông lớn nhất trong lịch sử.
Trong khi đó, báo chí Trung Quốc gần đây nói có tới hơn 10 triệu lao
động di cư đã mất việc tại nước này, trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng
của cơn bão khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh
báo tăng trưởng Trung Quốc trong năm 2010 có thể chỉ còn khoảng từ 5%
đến 6% thay vì 8,5% như dự kiến trước đây, nhưng Ngân hàng Thế giới
(WB) vẫn ca ngợi Trung Quốc cho tới lúc này đã thực hiện những bước đúng

đắn để ổn định nền kinh tế của chính mình.
* Thành tựu của Trung Quốc qua những con số
Kinh tế: Hiện Trung Quốc đang trên đường vượt Đức để trở thành nền
kinh tế lớn thứ ba thế giới. Năm 1978, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
Trung Quốc ở mức 364,5 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 52 tỷ USD). Đến năm
2007, con số này đã gấp 68 lần, lên 25,1 nghìn tỷ Nhân dân tệ (khoảng 3.540
tỷ USD).
Cơ quan tình báo quốc gia Mỹ đã dự đoán đến năm 2025, Trung Quốc
có khả năng vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Thậm
chí, nhiều nhà phân tích trong nước còn cho rằng đến năm 2038, Trung Quốc
có thể sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Ngoại thương: Năm 1978, tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc
với bên ngoài là 20,6 tỷ USD và thâm hụt thương mại là 1,1 tỷ USD. Năm
7
2007, kim ngạch thương mại đã tăng lên 105 lần, đến 2,17 nghìn tỷ USD, và
thâm hụt đã biến thành khoản thặng dư khổng lồ là 262 tỷ USD.
Giáo dục: Năm 1978, có 9 người tốt nghiệp đại học có chứng chỉ cao
học. Năm 2007, con số này đã tăng lên 311.839.
Dân số: Khi cải cách bắt đầu, Trung Quốc có số dân lớn nhất thế giới,
963 triệu người. Hiện dù vẫn là một nước đông dân nhất thế giới (1,32 tỷ năm
2007), nhưng có khả năng trong vài thập kỷ nữa Ấn Độ sẽ qua mặt. Chính
sách một con đã giúp nước này kiểm soát được tỷ lệ tăng dân số ở mức 0,5%
hiện nay từ 1,2% năm 1978.
Thu nhập: Người dân ở cả thành thị và nông thôn đều được hưởng lợi từ
cải cách. Năm 1978, thu nhập trung bình hàng năm của mỗi hộ dân thành
phố là 343,4 Nhân dân tệ (khoảng 45 USD), đến năm 2007 đã gấp 40 lần -
lên 13.786 nhân dân tệ (khoảng 1.810 USD). Đối với hộ nông thôn, mức tăng
là 31 lần, từ 133,6 Nhân dân tệ lên 4.140 Nhân dân tệ.
Tuổi thọ: Năm 1981, tuổi thọ trung bình của nữ giới Trung Quốc là 69,3
và đến năm 2000 là 73,3. Với nam giới, con số này là 66,3 trong năm 1981 và

69,6 năm 2000.
* VÌ SAO CẢI TỔ Ở LIÊN XÔ THẤT BẠI CÒN CẢI CÁCH Ở TRUNG
QUỐC LẠI THÀNH CÔNG?
vì sao Liên Xô sụp đổ?
Trước hết, cần thấy mặt hạn chế cùng những khuyết tật của mô hình
chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị khủng hoảng, thường được gọi là "mô hình
cổ điển" hay "mô hình Xô Viết"; khái quát lại là:
- Về cơ sở kinh tế của xã hội: Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa với hai
hình thức sở hữu : sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, chưa tìm được những
hình thức kinh tế đa dạng để tạo nên sự gắn bó mật thiết sở hữu xã hội với sở
8
hữu cá nhân của người lao động. Đã thế lại xem những hình thức cụ thể của
chế độ công hữu theo mô hình Xô Viết mới là "đích thực xã hội chủ nghĩa",
nếu làm khác đi là đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội! Vì thế, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trở nên cứng nhắc và trở thành cản trở đối với sự
phát triển kinh tế khi lực lượng sản xuất đạt bước phát triển cao hơn; điều đó
càng tai hại trong điều kiện kỷ nguyên cách mạng khoa học và công nghệ.
Việc đối lập tuyệt đối kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa với kinh tế
thị trường khiến cho kế hoạch hóa trở thành tập trung quan liêu. Từ đó đã hình
thành cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu. Hậu quả của cơ chế đó là nhiều
động lực phát triển kinh tế và xã hội bị triệt tiêu.
Sự trì trệ trong sự phát triển kinh tế làm cho tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội dần dần bị lu mờ và đặt Liên Xô vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh
với siêu cường Mỹ.
- Về lĩnh vực chính trị, tinh thần: Hệ thống chính trị của xã hội càng
thích ứng với cơ chế kinh tế tập trung, càng trở nên xơ cứng.
Quan liêu hóa vốn là nguy cơ của mọi nhà nước; điều này đã được các
nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hết sức quan tâm. Nhưng trên thực tế
cho đến cuối đời của V.I.Lênin vẫn còn là vấn đề nan giải. V.I.Lênin cảnh báo:
Nếu có cái gì đó làm nguy ngập chế độ Xô Viết thì đó là anh chàng quan liêu!

Sự lãnh đạo của đảng cộng sản là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của
nền chính trị vô sản, nhưng lý luận về xây dựng đảng đã không đáp ứng yêu
cầu thực tiễn về tổ chức và phương thức lãnh đạo trong điều kiện đảng cầm
quyền. Tình trạng "nhà nước hóa" đảng (thiên về mệnh lệnh hành chính) và
"đảng hóa" nhà nước (đảng bao biện làm thay) đã xảy ra. Vì vậy, khi bệnh
quan liêu của nhà nước càng nặng thì nguy cơ thoái hóa của đảng càng tăng;
9
bởi vì, việc giành các chức vụ trong tổ chức đảng biến thành điều kiện để nắm
quyền lực nhà nước.
- Về nhân tố con người: V.I.Lênin đã từng chỉ rõ sự quan tâm lợi ích vật
chất thiết thân của người lao động là cơ sở bảo đảm thành công của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong trạng thái xã hội có những khiếm khuyết nêu
trên, quyền làm chủ của nhân dân đã thiếu bảo đảm vững chắc về cơ sở kinh tế
(sở hữu cá nhân đối với tư liệu sản xuất), lại bị hạn chế bởi cơ chế quản lý kinh
tế và xã hội của nhà nước quan liêu. Cái nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã ngày một bị xói mòn.
Như vậy, sau một thời gian xây dựng và trưởng thành, yêu cầu cải tổ
đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trở nên tất yếu và cấp bách. Song, chủ
nghĩa chủ quan và duy ý chí đã cản trở quá trình đó. Trong tình hình đó, quy
luật khách quan phải "tự mở đường đi cho mình", như Ph.Ăngghen đã cảnh
báo, đó là khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội không phải hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực;
nó buộc con người phải nhận thức và tôn trọng quy luật khách quan. Việc
nhận ra và sửa chữa sai lầm lại mở đường cho sự phát triển.
Thành công hay thất bại trong việc sửa chữa sai lầm tùy thuộc vào nhân
tố chủ quan, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng sự suy yếu
về tư tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô khiến cho khuynh hướng
cơ hội tiểu tư sản thắng thế, nắm được quyền lãnh đạo cao nhất rồi đưa công
cuộc cải tổ đi theo đường lối sai lầm và thảm bại. Như vậy, trong sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nếu như sự trì trệ của kinh tế là

nguyên nhân sâu xa, sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc là nguyên nhân bên
ngoài, thì sự suy thoái của Đảng Cộng sản là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu
nhất.
10
Sức mạnh của đảng bắt nguồn từ sự liên hệ máu thịt với quần chúng và
được duy trì bằng những nguyên tắc xây dựng đảng. Mối liên hệ đó có những
thay đổi quan trọng trong điều kiện đảng cầm quyền. Điều đó đòi hỏi những
nguyên tắc xây dựng đảng, trong đó có nguyên tắc tập trung dân chủ, phải
được phát triển cho phù hợp với tình hình mới. Song, ở đây cũng xuất hiện
nguy cơ sử dụng yêu cầu tập trung phục vụ mục tiêu quyền lực, dân chủ trong
đảng bị vi phạm. Từ đó, không chỉ sức chiến đấu của đảng bị suy yếu mà tổn
thất lo lớn nhất là niềm tin của quần chúng đối với đảng và với chế độ ngày
một giảm sút.
Vì vậy, quá trình đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong khi lấy đổi mới kinh
lễ làm nhiệm vụ trung tâm phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng và chỉnh
đốn đảng, xem đó là khâu then chốt không chỉ của công cuộc dối mới mà còn
là của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
TẠI SAO TRUNG QUỐC CẢI CÁCH THÀNH CÔNG?
Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế, xoá
bỏ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được nhiều
thành công khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ.Viện sỹ Ô.Bôgômôlôp
(Nga) đã nhận xét, có nhiều người cho rằng các nước chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường "nhất định sẽ kéo theo các xung đột đổ máu hay ít ra là mất
mát và thiếu thốn vật chất. Kinh nghiệm của các nước Trung và Đông Âu, của
Nga và các nước SNG khác dường như khẳng định điều đó. Thế nhưng cải
cách thị trường của Trung Quốc đã chứng minh điều ngược lại. Ngay từ
những ngày đầu, cải cách của Trung Quốc đã cải thiện về kinh tế và cuộc sống
cho nhân dân, và cho đến nay vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao". Vì sao lại
như vậy, và có thể rút ra được những bài học gì từ "cuộc cách mạng thứ hai"
vĩ đại này của người Trung Quốc.

1. Cải cách toàn diện, song phải coi trọng cải cách kinh tế là trọng điểm.
11
Ngay từ đầu, Trung Quốc đã chủ trương cải cách toàn diện. Lãnh tụ Trung
Quốc Đặng Tiểu Bình người được coi là kiến trúc sư của công cuộc cải cách
của Trung Quốc nói : " Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể chế kinh
tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách các lĩnh vực tương ứng khác". Trung
Quốc tuy chủ trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện phải có trọng điểm
tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải cách thể chế kinh tế. Sở dĩ Trung
Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất cả các lĩnh vực, họ đã kiên
trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số quốc gia khác cải cách thất bại,
bởi vì cải cách kinh tế chưa có kết quả gì rõ rệt, đã vội vã chuyển trọng điểm
sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị không ổn định, mà cải cách kinh tế cũng
bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn chính trị đều bị rối loạn.
Kiên trì lựa chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thay thế cho
thể chế kinh tế II/kế hoạch truyền thống.
Thực hiện cải cách - mở cửa, những người lãnh đạo Trung Quốc đã lựa
chọn thể chế kinh tế thị trường, nền kinh tế được thúc đẩy và phồn vinh, được
nhan dân tiếp nhận. Quá trình lựa chọn và tiếp nhận thế chế kinh tế thị trường
ở Trung Quốc có thể chia làm 4 giai đoạn :
- Từ năm 1979 đến năm 1984 là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng
quy luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải
cách áp dụng đầu tiên ở nông thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục
hồi và phát triển , tạo ra sức thuyết phục để đông đảo người dân tiếp nhận
cuộc cải cách theo hướng thị trường.
- Năm 1984, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII xác nhận kinh tế XHCN là
kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu
rõ hơn về vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.
- Năm 1987, Đại hội Đảng CSTQ lần thứ 13 đưa ra mô hình "nhà nước
điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp" đã làm nổi bật tác dụng của
12

thị trường và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá
XHCN sang thuyết kinh tế thị trường XHCN
- Đầu năm 1992, trong bài nói chuyện khi đi thăm các tỉnh phía Nam,
Đặng Tiểu Bình đã nêu ra ý kiến " Kinh tế kế hoạch không phải là chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không phải là
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường". ý kiến đó một lần nữa
giải phóng tư tưởng cho cán bộ và nhân dân Trung Quốc. Đại hội Đảng CSTQ
lần thứ XIV lại đề ra "lấy xây dựng kinh tế thị trường XHCN làm mục tiêu
của cải cách thể chế kinh tế", cuộc cải cách theo hướng thị trường hoá càng
được thúc đẩy nhanh chóng. Thể chế kinh tế mới đã có vai trò ưu thế trong
vận hành kinh tế.
2. Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước.
- Ngay từ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dùng
phương án cải cách kiểu "bùng nổ" , mà đã kiên trì phương án "đò đã qua
sông", áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước , giảm bớt
rủi ro. Thực hiện chứng minh cách làm này là phù hợp với Trung Quốc, mang
lại kết quả rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hoá hai cực
quá nhanh như đã xảy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực hiện
"liệu pháp sốc". Cải cách kiểu tiến dần phải trả giá nhất định như thời gian cải
cách tương đối dài, tác dụng tiêu cực của thể chế cũ kéo dai dẳng, song cuộc
cải cách được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối ổn định, tuyệt đại đa
số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách
Cải cách theo phương thức tiến dần của Trung Quốc thể hiện ở mấy
phương diện quan trọng sau :
- Sau khi cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở rộng
ra thành phố, đến năm 1984 cuộc cải cách mới lấy thành phố làm trung tâm.
13
- Ra sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước,
biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế 20 năm qua;
sau đó thực hiện có trọng điểm cải tổ chiến lược khu vực kinh tế nhà nước và

cải cách các xí nghiệp nhà nước.
- Trong việc xây dựng hệ thống thị trường, thì trước hết phát triển thị
trường hàng hoá tiêu dùng rồi đến hàng hoá tư liệu sản xuất, sau đó mới chú ý
phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, sức lao động, kỹ
thuật , thông tin v.v…
- Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ đến sự thành bại của
toàn bộ cải cách thể chế kinh tế, vì vậy đã được tiến hành rất thận trọng, kết
hợp giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh trước, thả lỏng sau, sau đó mới
gắn với giá cả của thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế kế hoạch , mọi sản
phẩm đều không được thể hiện chính xác giá cả của nó; cuộc cải cách giá
trước hết thực hiện thị trường hoá giá cả các hàng hoá hiện vật và các dịch vụ,
rồi dần dần thực hiện thị trường hoá giá các yếu tố sản xuất.
- Về kế hoạch hoá các khâu sản xuất, lưu thông, giá cả… thì trước hết
cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra; phần theo
kế hoạch thì thu hẹp lại dần. Khi điều kiện đã chín muồi thì thực hiện sự điều
tiết của thị trường. Việc từng bước hợp nhất chế độ hai giá của tư liệu sản xuất
là ví dụ nổi bật về sự quá độ yên ổn từ thể chế cũ sang thể chế mới một cách
tiên tiến.
- Trong mở cửa đối ngoại, mở đầu là xây dựng các đặc khu kinh tế, các
thành phố ven biển, sau đó dần dần mở cửa sâu vào nội địa, và đến nay mới
hình thành cục diện mở cửa ra mọi hướng, mọi cấp độ.
3. Xử lý đúng dắn quan hệ biện chứng giữa cải cách, phát triển và ổn
định.
14
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cải cách của Trung Quốc
tương đối thành công là trong tiến trình cải cách đã coi trọng và xử lý đúng
đắn quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Kinh nghiệm 20 năm phát
triển kinh tế của Trung Quốc cho thấy, muốn xử lý đúng đắn ba mặt trên,
người Trung Quốc đã chú trọng mấy điểm sau :
Trước hết, phải duy trì được tốc độ phát triển kinh tế thích hợp. Nhiều

học giả cho rằng kinh tế Trung Quốc hiện đang ở giai đoạn cất cánh, cần tăng
trưởng với tốc độ cao, nhưng không thể quá cao. Bởi vì hiện nay nền kinh tế
của Trung Quốc vẫn theo phương thức tăng trưởng theo chiều rộng là chính,
vẫn phải dựa vào đầu tư; nếu đòi hỏi tăng trưởng cao, sẽ xuất hiện cơn sốt đầu
tư, lạm phát tăng, vật giá leo thang, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế. Điều đó
diễn ra vào các năm 1992, 1993. Để hạ sốt, giảm lạm phát, ắt sẽ phải xiết chặt
tiền tệ, hạ nhanh ốc độ tăng trưởng, làm cho nền kinh tế bị giao động lớn, gây
mất ổn định. Cũng không thể duy trì tốc độ phát triển quá thấp, vì sẽ không có
lợi cho vấn đề việc làm, vấn đề thua lỗ của các xí nghiệp nhà nước, vấn đề thu
nhập tài chính. Các học giả Trung Quốc cho rằng tốc độ phát triển kinh tế
hàng năm 8 - 9% là thích hợp với đất nước này.
Thứ hai, phải giữ cho mức độ tăng hàng năm của vật giá bán lẻ ở mức
dưới 10%. Tình hình Trung Quốc một số năm cho thấy, một khi giá cả tăng
trên 10% là nhân dân kêu cao, bất bình, là có tới 20% cư dân thành phố bị hạ
thấp thu nhập, do đó ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
nếu giá cả xuống thấp quá cũng không phải là điều lành, nó chứng tỏ nền kinh
tế đã bị ép giảm quá mức độ, hàng hoá dư thừa, sản xuất kém, không có lợi
cho sự hoạt động bình thường của nền kinh tế và sự linh hoạt của thị trường.
Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp cải cách cần tính toán đầy đủ đến sự
ổn định về tiêu dùng của người dân. Có rất nhiều lĩnh vực cần cải cách có liên
quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân như vấn đề nhà ở, chữa bệnh, bảo
15
hiểm, dưỡng lão, giáo dục, lao động tiền lương… Thực hiện những cải cách
này, đặc biệt là thực hiện dồn dập rất dễ vượt quá sức chịu đựng của người
dân, làm cho họ không dám tiêu dùng hoặc tiêu dùng ít, dẫn đến chỗ thị
trường tiêu điều, ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Thứ tư, giữ vững chủ trương cùng giầu có, đề phòng và giảm bớt mức
chênh lệch quá lớn giữa các cá nhân, các đơn vị, các địa phương . Từ khi cải
cách, giữa các tầng lớp dân cư và các địa phương, giữa thành thị và nông thôn
đều có hiện tượng chênh lệch thu nhập tăng lên, vấn đề phân phối không công

bằng ngày càng bộc lộ và nổi cộm. Chính sách của chính phủ Trung Quốc
luôn luôn theo hướng thu nhỏ khoảng cách chênh lệch.Biện pháp đánh thuế
thu nhập , kết nghĩa giữa tỉnh giàu với tỉnh nghèo, trích ngân sách để xoá đói
giảm nghèo… đã có tác dụng tốt trong việc giữ gìn ổn định và xã hội.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước và mở cửa ra thế giới
bên ngoài.
Trung Quốc coi cải cách và mở cửa là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết
hợp giữa hai mặt này là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của
cải cách.
Một thời kỳ dài trước đây, Trung Quốc đã thực hiện bế quan toả quốc,
hậu quả là không thành công trong việc hiện đại hoá kinh tế, trì trệ lạc hậu kéo
dài, không tiếp thu được thành quả văn minh của loài người, không tận dụng
được nguồn vốn bên ngoài, không tham gia được vào sự hợp tác và cạnh tranh
quốc tế. Rút bài học cay đắng đó, từ thập kỷ 80 Trung Quốc thay đổi cách
nghĩ, nhận thức lại là chủ nghĩa xã hội phải tiếp thu mọi thành quả văn minh
của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương Tây; chủ nghĩa tư
bản là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển lịch
sử của loại người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng tạo
ra trong mấy trăm năm vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra trước
16
đó. Trung Quốc xây dựng CNCH trên cơ sở kinh tế văn hoá lạc hậu, càng phải
thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới, do đó không
những phải cải tạo thể chế cũ xây dựng thể chế mới, mà còn phải tiếp thu khoa
học kỹ thuật tiên tiến và phương pháp quản lý kinh doanh của các nước tư bản
phát triển. Trong quá trình đó, Trung Quốc đã có chọn lọc để không tiếp thu
những mặt không tốt của các nước này.
Ba mươi năm cải cách - mở cửa, Trung Quốc đã thực hiện thành công
bước chuyển từ lấy đấu tranh giai cấp làm trung tâm sang lấy xây dựng kinh tế
làm trung tâm. Công nông nghiệp đã phát triển nhanh chóng, tổng sản lượng
một số sản phẩm đã đạt mức hàng đầu thế giới, sức mạnh tổng hợp của đất

nước được nâng cao, mức sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nền chính trị
ổn định, vững vàng. Nhiệm vụ tăng giá trị sản xuất quốc dân lên gấp bốn lần
vốn quy định cho 20 năm 1980 - 2000 đã hoàn thành vào năm 1995, trước thời
hạn 5 năm. Cuộc cải cách của Trung Quốc hiện nay tuy còn không ít khó khăn
và thách thức, song những thành tựu đã giành được trong hai thập kỷ qua vừa
qua là cực kỳ to lớn, khiến nhiều quốc gia phải hâm mộ. Những bài học rút ra
từ quá trình cải cách không chỉ giúp ích cho sự phát triển tiếp theo của Trung
Quốc trên con đường tiến vào thế kỷ mới mà còn có giá trị tham khảo bổ ích
cho các quốc gia đang có hướng phát triển tương tự.
2. Đổi mới và thành công ở Việt Nam.
* Đặc điểm, nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới ở việt Nam.
Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
So với công cuộc cải tổ, cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung
sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở nước ta có những nét
đặc thù riêng. Đổi mới ở nước ta diễn ra từ hai chiều: "từ dưới lên", tức là ở
các hợp tác xã, doanh nghiệp và "từ trên xuống", tức là các quyết định của
Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở
17
nước ta diễn ra không có sự xung đột giữa "phía trên" và "phía dưới", cũng như
không có các "cú sốc" được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ
mô quá cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh đạo "phía trên" như ở một số
nước khác. Đó là đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam. Nói một
cách khái quát, đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam là, vừa có sự
sáng tạo của nhân dân ở cơ sở, vừa có sự lãnh đạo từ trên xuống. Do vậy, đổi
mới ở nước ta đã dẫn đến những thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam, nhu cầu đổi mới
các chính sách trước hết xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là
hệ quả của những biến động chính trị. Đổi mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản
Việt Nam đề xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Ngay từ đầu, Đảng ta đã
xác định, đổi mới không phải là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà chính là để có chủ

nghĩa xã hội nhiều hơn, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phù
hợp với điều kiện lịch sử, xã hội nước ta trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Đổi mới ở nước ta không phải là chuyển từ mô hình cũ sang một mô hình
đã có sẵn lấy từ một nước nào đó, mà là quá trình xóa bỏ các yếu tố của mô
hình cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể
của nước ta.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam không phân chia thành các giai đoạn - giai
đoạn chuẩn bị lý luận về đổi mới và giai đoạn áp dụng lý luận đó vào thực tế,
mà là quá trình vừa khái quát lý luận từ thực tiễn đổi mới, vừa áp dụng lý luận
ấy vào cuộc sống.
Đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn
lao, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những
kinh nghiệm cải tổ, cải cách của các nước cũng là sự gợi mở cho Việt Nam
trong sự tìm tòi con đường đổi mới. Vì vậy, tư duy lý luận đổi mới của nước
18
ta được hình thành không chỉ từ việc đúc kết kinh nghiệm của bản thân nước
ta, mà còn được đúc kết từ những kinh nghiệm thành công và không thành
công của các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đổi mới ở Việt Nam là một quá trình kết hợp biện chứng giữa đổi mới tư
duy lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đó, cái mới và cái
cũ xen kẽ nhau; cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần và có nơi, có lúc còn
chiếm ưu thế so với cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được
khẳng định và đưa tới thành công. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở nước
ta là luôn luôn lấy sự ổn định chính trị – xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên
quyết cho sự nghiệp đổi mới phát triển và chính sự phát triển lại tạo ra sự ổn
định mới. ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình đổi mới: Ổn
định để phát triển và có phát triển mới có ổn định vững chắc hơn.
Văn kiện Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: "Đối với nước ta, đổi mới
đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống

còn Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy"
(7)
. Để đổi mới tư duy,
Đại hội VI của Đảng nêu rõ: "Tính bảo thủ, sức ỳ của những quan niệm cũ là
trở ngại không nhỏ, nhất là những quan niệm ấy lại gắn chặt với những người
mang nặng chủ nghĩa cá nhân và đầu óc thủ cựu. Cần tạo những điều kiện xã
hội thuận lợi cho quá trình đổi mới tư duy: bầu không khí dân chủ trong xã
hội, nhất là trong sinh hoạt đảng, trong nghiên cứu khoa học, tinh thần tôn
trọng sự thật, tôn trọng chân lý, hệ thống thông tin chính xác; tự phê bình và
phê bình được tiến hành một cách thường xuyên và nghiêm túc, v.v. Điều
quan trọng là phải coi trọng công tác lý luận nhằm cung cấp nội dung khoa
học cho việc đổi mới tư duy"
(8)
.
* Thành tựu công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời
kỳ quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng
19
phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa
phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực
hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-
1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện
đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc
đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận
thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận

dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan,
duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách
quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội
của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”(9). Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm
đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ”(10). Trong hàng loạt các quy luật khách quan,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai
20
lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực
lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các
quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy
luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn.
Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra
rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái
quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi
mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của
Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có

nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở
nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước
pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các
thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực
tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành
phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm
qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng
cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
21
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản
lý dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển
sang hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục
đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò,
chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị.
Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính
trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và
năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế,

sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội.
Từ HNTW3 khoá VII (6-1992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-
1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm
theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế - xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp
luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ
sau Đại hội VII, đặc biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII
(6-1997) đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
22
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là
thống nhất, song có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá
VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và khoá XI (2002) hoạt động của
Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có hiệu quả các chức năng lập pháp,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao.
Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức
năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ
máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội
dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến
toàn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận
động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại
hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi

mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải
có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương
8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn mạnh các quan điểm: Cách
mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào
quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các
23
lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp
nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận
và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng
với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên
đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác
vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các
giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng
lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt
Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa
dạng hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế
giới trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây
dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI
(12-1986), Đảng ta đã nêu rõ chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào
nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ
thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp

tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp
tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật sớm nhất của thời kỳ đổi mới,
được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29-12-1987 và có hiệu lực từ 1-1-
1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều
24
mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích cực
đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn
xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng
với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và
dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn,
thách thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới theo con đường của chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước,
cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, như các văn kiện trình Đại hội X của
Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức
lý luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996,

kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%,
1991-1995 là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá,
hiện đại hóa được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng
25

×