Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở việt nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.57 KB, 17 trang )


Lời giới thiệu

Quá trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá kinh tế diễn ra sôi động với quy mô,
phạm vi và tốc độ ngày càng lớn. Tính liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trên toàn cầu ngày càng chặt chẽ. Do đó cân bằng ngoại tệ của nền
kinh tế, trạng thái cán cân thanh toán, mức tỷ giá là một trong những mục tiêu u
tiên của các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia. Tỷ giá hối đoái là một
trong những yếu tố quan trọng , đóng vai trò quyết định trong chính sách kinh tế
đối ngoại của mỗi quốc gia. Nó là công cụ để các nhà kinh tế và các doanh nhân
phân tích và xác định cho mình đối sách thích hợp trong buôn bán quốc tế.
Việt Nam là nớc có nền kinh tế mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
chuyển sang kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trờng không lâu nên cần
mở rộng kinh tế đối ngoại tăng thu hút đầu t từ nớc ngoài, tăng nguồn thu ngoại
tệ. Từ đó tạo nên khả năng dự trữ ngoại tệ cũng nh mở rộng mua bán ngoại tệ,
hình thành giá cả của các đồng tiền.
Tuỳ điều kiện xuất phát và đặc điểm phát triển kinh tế của mỗi nớc mà
xác định cho mình một chính sách tiền tệ khác nhau nhằm ổn định và nâng cao
sức mua của đồng tiền. Mỗi nớc muốn ổn định đồng tiền thì không thể cùng một
lúc lu hành nhiều đồng tiền của nớc ngoài . Muốn vậy , phải hình thành một thị
trờng có tổ chức , đợc kiểm soát và sử dụng nh một công cụ của chính sách tiền
tệ. Đó là thị trờng ngoại hối với công cụ tỷ giá hối đoái hình thành nên giá cả
của các đồng tiền so với nhau. Thông qua hoạt động của thị trờng hối đoái, Ngân
hàng Trung ơng thực hiện chính sách tiền tệ để đạt đợc mục tiêu cuối cùng đó là
ổn định giá trị đồng tiền, tăng trởng kinh tê và tạo công ăn viêc làm.
Bài viêt này em đa ra chủ yếu nhằm hiểu rõ hơn vai trò tỷ giá hối đoái, tầm
quan trọng của nó trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế
của một quốc gia. Qua đó thấy đợc thực trạng kinh tế Việt Nam để có những ph-
ơng hớng, biện pháp khắc phục.
Vì khả năng còn hạn chế nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót, khiếm khuyết. Mong cô cho ý kiến để em rút kinh nghiệm cho những bài


viết sau.
Nội dung
Phần l
Những vấn đề chung về tỷ giá hối đoái, chính sách tiên tệ
và mối quan hệ giữa chúng

l. Tỷ giá hối đoái:
1.1.Khái niệm
Có thể hiêu một cách đơn giản tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền nớc
này biểu hiện bàng các đơn vị tiền tệ nớc khác.
Tỷ giá hối đoái là mức giá tại đó hai đồng tiền có thể chuyển đổi cho nhau
(đồng tiền trong nớc và ngoại tệ). Nh vây, tỷ giá hối đoái chính là sự so sánh giá

1

trị giữa các đồng tiền của các nớc với nhau. Hiện nay có hai phơng pháp biểu
hiện tỷ giá :
Phơng pháp gián tiếp : là phơng pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ
trong nớc thành các đơn vị tiền tệ nớc ngoài .
Phơng pháp trực tiếp : là phơng pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ nớc
ngoài bằng các đơn vị tiền tệ trong nớc.
1.2 Vai trò của tỷ giá hối đoái :
Quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao, giữa các nớc trên thế giới đã phát
sinh quan hệ thanh toán quốc tế. Mỗi quốc gia đều có một đồng tiền riêng nên
trong giao dịch quốc tế phải chuyển đổi đồng tiền nớc này sang đồng tiền nớc
khác theo một tỷ lệ nhất định . Nh vậy, mọi hoạt động quan hệ quốc tế đều phải
thông qua tiền tệ và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong việc xác định giá
cả đồng tiền. Điều đó đợc thể hiện ở những tác dụng sau:
1. Tỷ giá hối đoái có tác động lớn tới quan hệ ngoại thơng , xuất nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ của nớc đó với các nớc khác. Chẳng hạn, VND mất giá

so với USD , tức là phải bỏ ra nhiều VND mới mua đợc một USD thì hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam sẽ đắt hơn và hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang
Mỹ rẻ hơn. Ngợc lại, nếu VND lên giá, hàng hoá nớc ngoài nhập vào Việt Nam
sẽ rẻ hơn và hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam ra nớc ngoài sẽ đắt hơn.
2. Tỷ giá hối đoái tác động lớn tới kinh tế trong nớc và trực tiếp nhất là tới
tỷ lệ lạm phát. Ví dụ khi USD lên giá, hàng hoá nhập khẩu từ bên ngoài vào Mỹ
trở nên rẻ hơn làm lạm phát trong nớc giảm bớt vì những hàng hoá đó đều đợc
tính vào chỉ số giá cả trong nớc, hay có thể nói là đồng tiền trong nớc đợc lu
thông ít hơn, mức cung tiền giảm. Ngợc lại, đồng tiền một nớc càng mất giá so
với USD bao nhiêu thì giá cả hàng hoá nhập khẩu bằng đồng tiền nớc đó càng
lên cao, giá thành sản phẩm trong nớc cũng tăng lên, gây sức ép lạm phát mạnh
mẽ hơn.
3. Tỷ giá hối đoái là một công cụ quản lý vĩ mô hết sức lợi hại. Vì vậy nên
Chính phủ các nớc luôn quan tâm tìm cách điều chỉnh việc xác định tỷ giá trên
thị trờng hối đoái với ý đồ sử dụng nó làm công cụ để quản lý và điều tiết những
mất cân đối lớn trong hoạt động kinh tế trong nớc cũng nh những mất cân đối
trong kinh tế đối ngoại.
1.3. Các cơ chế tỷ giá hối đoái :
Cơ chế hoặc hệ thống tỷ giá hối đoái là một tổng hoà những điều kiện
trong đó chính phủ các quốc gia cho phép ấn định các tỷ giá hối đoái. Lịch sử
tiền tệ thế giới đã trải qua các chế độ tỷ giá sau :
Chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị : là chế độ tiền tệ trong đó
vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung để xác định tỷ giá giữa các đồng tiền .
Trong chế độ này , tỷ giá đợc hình thành trên cơ sở so sánh hàm lợng vàng giữa
hai đồng tiền . Do vậy , nó mang tính chất cố định, chỉ dao động trong một biên
độ nhỏ . Chế độ này bị sụp đổ trong và sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-
1933.
Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Sau chiến tranh thế giới thứ II , chế độ tỷ giá này ra đời với quan diểm cho
rằng muốn phục hồi và phát triển kinh tế, trớc hết phải phục hồi và phát triển th-

ơng mại quốc tế. Muốn thơng mại quốc tế phát triển phải có một chế độ tỷ giá cố
định . Nội dung của chế độ này là :
Mỗi nớc hội viên phải xác định một nội dung vàng cho đồng tiền của mình .
Nội dung vàng của đồng tiền có thể trực tiếp biểu hiện bằng vàng hoặc biểu
hiện gián tiếp bằng Dolar Mỹ.
Mỗi nớc hội viên không đợc tự động thay đổi nội dung vàng đồng tiền của
mình , không đợc tăng hoặc giảm quá 10% nếu không đợc quỹ tiền tệ cho
phép

2

Ngân hàng Trung ơng của các nớc hội viên phải can thiệp vào thị trờng để giữ
tỷ giá hối đoái không biến động quá so với giá vàng .
Chế độ tỷ giá này sụp đổ vào tháng 8/1971.
Chế độ tỷ giá thả nổi : Sau khi hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods bị
sụp đổ , các nớc trên thế giới bắt đầu chuyển sang hình thức thả nổi tỷ giá. Chế
độ tỷ giá thả nổi đợc hình thành do quan hệ cung cầu tự do quyết định . Có hai
loại tỷ giá thả nổi :
Chế độ tỷ giá hoàn toàn thả nổi(tỷ giá linh hoạt) : hoàn toàn do quan hệ
cung cầu trên thị trờng hối đoái quyết định , không có sự can thiệp của Chính
phủ. Một số nớc có đồng tiền mạnh áp dụng chế độ này nh Mỹ, Nhật. Tuy nhiên,
thỉnh thoảng Ngân hàng Trung ơng có can thiệp thông qua sức mua bán
nhằm hớng tỷ giá đi theo huớng mong muốn. Việc can thiệp này không thờng
xuyên và chỉ mang tính chất tác động, điều chỉnh tạm thời.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý : tuy vẫn do quan hệ cung cầu trên thị tr-
ờng quyết định nhng chính phủ có biện pháp can thiệp lúc cần thiết để giữ cho
đồng nội tệ không bị lên giá hoặc mất giá quá mức so với ngoại tệ. Hiện nay hầu
hết các nớc áp dụng chế độ này nhng với mức độ khác nhau .Một số nớc trong hệ
thống tiền tệ Châu Âu xây dựng khối tiền tệ để ổn định tỷ giá giữa các nớc trong
khối. Hệ thống này cho phép đồng tiền của họ linh hoạt một cách tơng đối so với

các nớc ngoài khối, nhng giữa các nớc trong khối các đồng tiền đợc giữ ổn định
trong mối quan hệ với nhau.
Nhiều nớc, đặc biệt là các nớc nhỏ, gắn đồng tiền của mình vào một rổ các
đồng tiền chính, mỗi khi các đồng tiền trong rổ thay đổi thì đồng tiền của họ
cũng thay đổi theo. Tuy nhiên mức độ thay đổi cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố
trong nớc và quốc tế và tỷ trọng quy định giữa các đồng tiền trong rổ. Việt Nam
hiện nay cũng theo chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý với xu hớng ngày càng tự do
hoá để cho tỷ giá phù hợp với quan hệ cung cầu . Tỷ giá chính thức đợc xác định
căn cứ vào kết quả giao dịch hối đoái trên thị trờng tiền tệ liên ngân hàng.
1.4 Các nhân tố ảnh h ởng đến tỷ giá:
Lạm phát : Theo thuyết ngang sức mua thì tỷ giá hối đoái giũa hai đồng
tiền sẽ đợc điều chỉnh phù hợp với mức giá cả hai nớc. Chẳng hạn, khi mức lạm
phát trong nớc cao hơn mức lạm phát ở nớc ngoài thì nhu cầu về hàng nội địa
giảm khiến đồng nội tệ có xu hớng giảm giá để cho hàng nội địa có thể bán đợc
trên thị trờng.
Lãi suất : tác động đến tỷ giá theo thuyết ngang bằng lãi suất. Thuyết này
nói lên rằng lãi suất thực giữa các nớc là bằng nhau, sự khác nhau tạm thời của
lãi suất thực giữa các nớc đợc bù đắp bởi sự thay đổi trong tỷ giá. Khi lãi suất
trong nớc tăng so với lãi suất nớc ngoài sẽ dẫn đến nhu cầu đầu t bằng đồng bản
tệ tăng, ngoại tệ giảm, đồng bản tệ có xu hớng tăng giá và ngợc lại.
Năng suất lao động : Nếu năng suất lao động của một nớc cao hơn các n-
ớc khác sẽ làm cho giá cả hàng nội địa rẻ hơn so với hàng ngoại. Do vậy, nhu
cầu hàng nội địa tăng, đồng nội tệ có xu hớng tăng giá.
Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nớc ảnh hởng trực tiếp
đến tỷ giá thông qua quan hệ cung cầu. Khi cán cân thanh toán quốc tế thặng d
làm cho dự trữ ngoại tệ tăng, cung ngoại tệ tăng. Do đó đồng ngoại tệ có xu hớng
giảm giá. Ngợc lại, cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt , nhu cầu ngoại tệ
tăng làm cho ngoại tệ có xu hớng tăng giá.
Thay đổi mức cung tiền tệ: Nếu lợng cung tiền tăng, về mặt dài hạn giá
cả trong nớc sẽ tăng, do đó tỷ giá có xu hớng tăng lên, đồng bản tệ mất giá và

ngợc lại.1
Thuế quan và Quota : Khi chính phủ đa ra hàng rào thuế quan, sẽ làm
cho nhu cầu nhập khẩu giảm, dẫn đến cầu ngoại tệ giảm và ngoại tệ có xu hớng
giảm giá.
Sự can thiệp của chính phủ trên thị trờng hối đoái : Trong chế độ tỷ giá
thả nổi có quản lý, Ngân hàng Trung ơng sẽ can thiệp trên thị trờng ngoại hối khi

3

tỷ giá biến động quá mức để làm thay đổi cung cầu ngoại tệ. Khi Ngân hàng
Trung ơng bán ngoại tệ làm cho cung ngoại tệ trên thị trờng tăng, tỷ giá giảm.
Ngợc lại, khi mua ngoại tệ cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá tăng lên.
Những sự can thiệp khác của chính phủ nh chính sách đầu t nớc ngoài,
chính sách quản lý ngoại hối cũng tác động đến tỷ giá.
Yếu tố tâm lý cũng ảnh hởng đến sự biến động của tỷ giá. Yếu tố này phụ
thuộc vào việc dự đoán sự biến động của tỷ giá trong tơng lai. Chẳng hạn, dự
đoán USD tăng giá, mọi ngời muốn đầu t USD làm cầu về USD tăng, dẫn đến sự
tăng giá của USD thực sự.
2. Chính sách tiền tệ :
Khái niệm : Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nớc do Ngân hàng Trung ơng chịu trách nhiệm khởi thảo và thực
thi , thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lợng
tiền cung ứng nhằm đạt đợc các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền , tạo công ăn
việc làm , thúc đẩy phát triển Kinh tế Xã hội.
Chính sách tiền tệ trong một quãng thời gian nào đó của một quốc gia có
thể đợc xác định theo một trong hai hớng :
+ Chính sách tiền tệ mở rộng : Trong trờng hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu
suy thoái, Ngân hàng Trung ơng sẽ hoạch định chính sách tiền tệ theo hớng áp
dụng chính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu t, mở rộng sản xuất, tạo
thêm công ăn viậc làm cho ngời lao động.

+ Chính sách tiền tệ thắt chặt : Trong trờng hợp nền kinh tế có những dấu
hiệu lạm phát gia tăng thì việc hoạch định chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ơng theo hớng áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hạn chế đầu t
kìm hãm sự tăng trởng quá mức của nền kinh tế.

3. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với chính sách tiền tệ :
Trong quan hệ thơng mại xuất hiện tỷ giá. Để thực hiện đợc quan hệ này và
tỷ giá đợc ấn định phải thông qua thị trờng ngoại hối và phù hợp với chính sách
phát triển kinh tế của đất nớc mà đặc biệt Nhà nớc thông qua chính sách tiền tệ
để quản lý.
Giữa chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái có quan hệ biện chứng với nhau.
Tỷ giá vừa phản ánh sức mua nội tệ , vừa biểu thị quan hệ cung cầu ngoại
tệ. Không những thế, tỷ giá còn là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động
mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nớc. Tỷ
giá có ảnh hởng trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tỷ giá thể hiện
sức mua của đồng nội tệ, qua đó tác động đến sự ổn định của giá trị đồng tiền
bản tệ. Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến cán
cân thanh toán quốc tế. Nếu tỷ giá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu, nhng lại khuyến
khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ
cạnh tranh trên thị trờng quốc tế, dễ tìm thị trờng tiêu thụ, kích thích chuyển dịch
ngoại tệ vào trong nớc, làm thặng d cán cân thanh toán quốc tế, thúc đẩy phát
triển tăng trởng kinh tế. Hơn nữa tạo công ăn việc làm cho ngời lao động nhiều
hơn. Ngợc lại, nếu tỷ giá thấp sẽ thuận lợi cho nhập khẩu, khó khăn trong xuất
khẩu vì hàng xuất khẩu tơng đối đắt, khó bán ra nớc ngoài, gây trở ngại cho
ngành sản xuất hàng xuất khẩu, qua đó thất nghiệp tăng, thâm hụt cán cân thơng
mại, dự trữ ngoại tệ bị xói mòn.
Đến lợt chính sách tiền tệ tác động trở lại với chế độ tỷ giá, điều tiết tỷ giá
bằng cách Ngân hàng Trung ơng tác động lên thị trờng ngoại hối làm thay đổi l-
ợng tiền cung ứng trên thị trờng. Khi Ngân hàng Trung ơng mua ngoại tệ trên thị
trờng ngoại hối sẽ làm tăng lợng tiền cung ứng dẫn đến tỷ giá tăng. Ngợc lại, khi

Ngân hàng Trung ơng bán ngoại tệ, thu nội tệ về thì lợng tiền cung ứng trên thị
trờng sẽ giảm làm cho tỷ giá giảm xuống.
Ngân hàng Trung ơng thông qua việc tác động vảo tỷ giá để thực hiện các
mục tiêu của chính sách tiền tệ và cả mục tiêu của chính sách kinh tế đối ngoại .

4

Do trình độ phát triển kinh tế mỗi nớc khác nhau, do cách thức tổ chức
quản lý khác nhau nên có những cơ chế tỷ giá khác nhau. Và vì thế, sự tác động
của chính sách tiền tệ với mỗi chế độ tỷ giá cũng khác nhau .

+ Đối với hệ thống tỷ giá cố định
Tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ơng quy định và giữ ở một mức cố
định đã công bố. Khi có sức ép nâng hoặc giảm tỷ giá, Ngân hàng trung ơng sẽ
dùng dự trữ ngoại tệ để can thiệp cho tỷ giá giữ nguyên mức. Tuy nhiên vì t bản
chuyển động hoàn toàn tự do, Ngân hàng Trung ơng sẽ không thể cùng một lúc
theo đuổi cả hai mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái và ổn định mức cung tiền.
Thực vậy, khi vì một lý do nào đó , lãi suất trong nớc tăng lên , t bản nớc
ngoài đổ dồn vào trong nớc gây sức ép giá đồng nội tệ , tỷ giá tăng. Ngân hàng
Trung ơng phải đứng ra mua ngoại tệ , tăng dự trữ ngoại tệ vào để tăng cung nội
tệ trên thị trờng ngoại hối nhằm giữ cho tỷ giá không đổi . Mặt khác, dân chúng
trong nớc sẽ bán ngoại tệ để đổi lấy nội tệ mua tài sản trong nớc. Cả hai trờng
hợp đều dẫn đến cung nội tệ tăng lên làm cho cung tiền tuột khỏi sự kiểm soát
của Ngân hàng trung ơng, mục tiêu ổn định giá cả khó thực hiện trong ngắn hạn.
Chúng ta sẽ xem xét sự tác động của chính sách tiền tệ đối với cơ chế tỷ
giá thả nổi theo mô hình sau:
Giả sử, nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng E, Ngân hàng Trung ơng quyết
định thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng với việc tăng cung tiền danh nghĩa.
Với mức giá đã cho, cung tiền thực tế tăng lên, đờng LM dịch chuyển đến LM,
lãi suất giảm bằng mức lãi suất thế giới, các nhà đầu t trong nớc sẽ tìm kiếm cơ

hội đầu t ở nớc ngoài. Một luồng vốn sẽ chạy ra nớc ngoài, Ngân hàng Trung -
ơng phải bán dự trữ ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái không đổi.
Quá trình này
kéo dài cho đến khi mức cung i LM
tiền và lãi suất trở lại ban đầu . LM
Nh vậy, chính sách tiền tệ tỏ
ra kém hiệu quả hơn trong nền E E
kinh tế đóng; ở đây sự tác động i = i
của sự mở rộng tiền tệ đã bị triệt E
tiêu bởi luồng vận động của t IS
bản ra nớc ngoài do lãi suất giảm
đi, mặc dù đầu t cá nhân có tăng lên. Y + + +
Đối với hệ thống tỷ giá thả nổi i: Lãi suất trong nớc
hoàn toàn với sự vận động của tu bản là tự do : i: Lãi suất thế giới
Trờng hợp này tỷ giá linh hoạt đợc E, E, E: Tỷ giá cân bằng
xác định trên thị trờng ngoại hối và thay trong từng thời điểm
đổi theo cung cầu trên thị trờng. Khi 1 LM : Cân bằng thị trờng
luồng vốn từ nớc ngoài đổ vào trong tiền tệ
nớc , cầu về ngoại tệ tăng , đồng nội tệ IS: Cân bằng thị trờng
tăng giá, tỷ giá giảm . Sự tăng giá của hàng hoá
đồng nội tệ ảnh hởng trực tiếp đến cán
cân thơng mại : xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng, cán cân thơng mại bị thâm hụt. Nếu chính sách tiền tệ
làm tăng cung tiền , đờng LM dịch chuyển đến LM , lãi suất giảm làm
đồng tiền mất giá . Tỷ giá giảm làm tăng khả năng cạnh tranh , xuất khẩu
ròng tăng lên, đờng IS dịch chuyển đến IS; lãi suất trở về mức cân bằng
với thế giới. Chính sách tiền tệ mở rộng
làm tăng sản lợng. Tuy nhiên, về mặt i LM
dài hạn, sản lợng tăng làm giá cả tăng.
Cân bằng tiền tệ thực tế giảm. LM dịch LM

chuyển về vị trí ban đầu, lãi suất tăng E
dần , đồng nội địa tăng giá, tỷ giá tăng i=i E
IS dần trở về IS. Cân bằng đợc thiết lập ở IS

5

vị trí cũ. Nh vậy, chính sách tiền tệ có E
tác động lớn trong nền kinh tế mở, tỷ giá IS
linh hoạt, t bản vận động tự do nhng tác
động đó bị hạn chế về mặt dài hạn.
+ Đối với hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý:
Đây là cách quản lý tỷ giá phổ biến nhất hiện nay, nó khắc phục hạn chế của
cả hai loại cơ chế tỷ giá trên.
Nó cho phép tỷ giá dao động trong i
một khoảng tuỳ theo yêu cầu của chính LM
sách quản lý kinh tế sao cho phù hợp với i E
thực trạng. Nếu tỷ giá vợt quá khoảng E
giới hạn cho phép thì chính sách tiền tệ E
mới tác động để đẩy tỷ giá về khoảng IS
giới hạn đó. i E

Y


6


Phần II
Thực trạng tỷ giá trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam và một số giải pháp

điều chỉnh cơ chế tỷ giá


1. Nhìn nhận về cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới :
Phải thừa nhận rằng trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam đã
đa ra những bớc đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái đợc những
thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trờng ngoại tệ, góp
phần tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế.
Kể từ sau lần lạm phát phi mã ở Việt Nam năm 1986, cùng với việc thay
đổi quan điểm nhìn nhận nền kinh tế nớc ta. Đảng và Nhà nớc đã đa nền kinh
tế đi đúng hớng phù hợp với thực tế khách quan, đa ra những chính sách kinh tế
vĩ mô thích hợp qua từng thời kỳ. Trong đó phải kể đến chính sách tiền tệ về
quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá.
Đầu tiên phải nói đến chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Trung -
ơng luôn theo sát và phù hợp với thực tế biến đoọng của tỷ giá. Thực thi theo cơ
chế mới, tỷ giá đợc hình thành trên quan hệ cung cầu, rõ ràng là mềm dẻo hơn,
linh hoạt hơn, vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cờng sự hoà
nhập của nền kinh tế nớc ta vào cộng đồng kinh tế thế giới. Cơ chế này khác hẳn
với cơ chế tỷ giá trớc kia, khi mà tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì
mỗi lần Nhà nớc điều chỉnh tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nề, nhất là khi tỷ
giá không đợc điều chỉnh thờng xuyên, đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bớc
nhảy đột ngột; lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế mà dao động, tình trạng đầu
cơ, găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển.
Điều hành theo cơ chế mới, những năm đầu của thời kỳ đổi mới Ngân
hàng Trung ơng vẫn kiểm soát, điều hành tỷ giá theo tỷ giá chính thức nên vẫn
không sát với tỷ giá thị trờng. Chính vì vậy, qua quyết định số 64-65/1999/QĐ-
NHNN7 đã bỏ việc công bố tỷ giá chính thức, thay bằng tỷ giá giao dịch bình
quân trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng của VND so với USD và đợc công bố
trên các phơng tiện thông tin đại chúng thay cho việc công bố trực tiếp trên thị

trờng ngoại tệ LNH nh trớc đây. Tỷ giá này do Ngân hàng Nhà nớc công bố hàng
ngày đợc xác định trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trờng ngoại tệ liên
ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trớc đó; các tổ chức tín dụng đợc phép
kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán giao ngay của VNĐ so với USD
không vợt quá 0,1% so với tỷ giá này. Đây là một bớc thay đổi cơ bản về chất
trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá , phản ánh một cách khách quan sức
mua của VND so với ngoại tệ, đồng thời NHNN vẫn thể hiện đợc vai trò kiểm
soát thị trờng thông qua biên độ giao dịch. Tại Việt Nam, tỷ giá hối đoái cũng đã
từng rơi vào tình trạng mất cân bằng, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng tài chính
tiền tệ ở Châu á vừa qua. Sự mất cân bằng này càng trầm trọng thêm do những
biến động quá lớn từ bên ngoài và những thay đôỉ nội tại nền kinh tế Việt Nam.
Chủ trơng điều hành tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt theo tình hình quốc tế và
trong nớc với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự
trữ ngoại hối là một chủ trơng đúng đắn và hợp lý của Nhà nớc trong tình hình
thị trờng tài chính quốc tế còn biến động phức tạp và bất ổn. Trong thời kỳ khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực, trớc sức ép phá giá tiền tệ của nhiều nớc, Việt
nam đã thận trọng và nhiều lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so
với các loại ngoại tệ
, bằng nhiều hình thức, giá trị danh nghĩa của đồng Việt Nam đã giảm 20%. Ph-
ơng thức xử lý linh hoạt này đã khắc phục tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối
đoái của VNĐ so với các đồng tiền trong khu vực và thế giới vốn đã tồn tại trong

7

một thời kỳ khá dài, đặc biệt trong điều kiện thị trờng quốc tế và trong nớc đã
thay đổi lớn. Kết quả là đã giảm nhanh cơn sốt về tỷ giá ,giảm sức ép lên dự trữ
ngoại hối, không gây đột biến trên thị trờng tiền tệ và đảm bảo ổn định kinh tế
-chính trị -xã hội nói chung.
Thứ hai phải kể đến là sau khi khắc phục đợc hậu quả suy thoái kinh tế
1986 , kinh tế Việt Nam tăng trởng nhanh chóng mọi mặt, giữ vững ổn định tỷ

giá trong nhiều năm ; cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và làm tăng dự trữ
ngoại tệ. Có thể nói, qua các năm tỷ lệ xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng :
1995 tăng 5,4% , 1996 tăng 7,2% ; 1997 tăng 9,1% ; 1998 tăng 19,3% ; 1999
tăng 11,5% ; 2000 tăng 14,3%. Tỷ lệ hàng nhập khẩu ngày càng giảm ,do đó tỷ
lệ nhập siêu cũng giảm qua các năm : 1995 là 49,7% ; 1996 = 53,6% ; 1997 =
26,2% ; 1998 = 23,1% ; 1999 = 0,7% ; 2000 = 6,3%.
Nhìn qua số liệu các năm, ta thấy tỷ lệ xuất khẩu vẫn tăng lên những vẫn
xảy ra nhập siêu(cao nhất từ trớc tới nay vào năm 1995, 1996). Điều này thực tế
thấy đợc, vì nớc ta đang trong thời kỳ CNH, HĐH nền kinh tế cần phải có cơ sở
hạ tầng hiện đại. Vì thế chúng ta đã nhập chủ yếu là nguyên liệu và công nghệ
(90%), nên xảy ra nhập siêu lớn hơn. Song tỷ lệ này đang ngày càng giảm dần.
Một yếu tố nữa cũng góp phần quan trọng vào việc ổn định tỷ giá hối đoái
là sự mở cửa hội nhập quốc tế về ngân hàng, nó làm nâng cao uy tín, danh tiếng
cho hệ thống ngân hàng trên trờng quốc tế.
Sau nữa, phải nói rằng chiến lợc trong chinh sách kinh tế mô của Việt
Nam hiện nay đối với cơ chế tỷ giá. Nhà nớc liên tục tăng giá qua các phiên giao
dịch trong năm 2000( tính trung bình mỗi phiên tăng 7 VNĐ. Tuy không gây ảnh
hởng lớn lắm nhng phần nào đã kích thích đợc xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế, tăng nguồn dự trữ ngoại tệ và đã làm cho đầu t nớc ngoài tăng lên
so với mấy năm trớc. Đặc biệt là sự tăng giá liên tục này không gây khủng
hoảng tiền tệ, lạm phát, thậm chí còn đang ở tình trạng thiểu phát.
Cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nớc, chính sách này phù hợp
với Việt Nam, nó đã bắt đầu dựa trên cung cầu thông qua thị trờng liên ngân
hàng. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi để đồng tiền Việt Nam có thể trở
thành đồng tiền chuyển đổi.
Sau cùng là việc tăng tỷ giá khá cao trong năm 2000 làm cho đồng tiền Việt
Nam bị mất giá đã chuyển dịch đợc một lợng lớn ngoại tệ vào Việt Nam, ngoại
tệ vào bằng con đờng kiều hối cũng khá nhiều.
Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nớc ta, có nhiều yêu cầu phải
giải quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tểtong nớc, vừa mở

rộng giao lu thơng mại quốc tế, thu hút vốn đầu t nớc ngoài Nhu cầu mở rộng
lợng tiền cung ứng ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung cầu mới về
tiền tệ, bắt đầu có tác động mạnh hơn đến sự vận động của tỷ giá hối đoái, trong
khi đó vẫn tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập
nền tảng cho phát triển chung. Tình hình tỷ giá biến chuyển không kém phần
phức tạp kể từ sau năm 1992, một thời kỳ mà lạm phát đã nằm trong vòng kiểm
toả của NHNN .Tuy thời kỳ này ta đã đạt đợc không ít hành tựu trong việc ổn
định tỷ giá nhng nó vẫn có những nhợc điểm tồn tại .
Thứ nhất, sự ổn định tỷ giá hối đoái là xu hớng cố định hoá tỷ giá hối đoái.
Do vẫn bị tác động bởi nỗi ám ảnh về sự bùng nổ lạm phát trở lại, chính sách của
NHNN là chú trọng duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái; mọi yêu cầu
điều hành tiền tệ lúc này chủ yếu hớng vào sự ổn định sức mua đồng tiền là
chính, bảo toàn tích luỹ, khuyến khích cho đầu t phát triển. Tỷ giá đợc hình
thành trên cơ sở thiên về cố định hơn là thả nổi , mặc dù có sự điều tiết không th-
ờng xuyên của NHNN nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát hợp lý nhập
khẩu. Nói chung chính sách tỷ giá hối đoái (thời kỳ 1992-1996) đã đóng góp
đáng kể vào việc thực hiện những mục tiêu trên, nhng chủ yếu mới thiên về h-
ớng nội, nổi bật là khuyến khích tích luỹ giá trị dới dngj nội tệ hơn là ngoại tệ.
Bên cạnh đó, xu hớng cố định hoá tỷ giá hối đoái từ năm 1992 đến nửa cuối năm
1997 (trớc khủng hoảng tiền tệ ĐNA) cũng góp phần thúc đẩy làn sóng Dollars

8

hoá, khuyến khích đầu cơ ngoại tệ qua ngân hàng, tăng rủi ro tỷ giá hối đoái và
khả năng thanh toán quốc tế.
Ta thấy chính sách tỷ giá trên chỉ có tác dụng trớc mắt sau đó nó lại đem
hậu quả tới. Khi chính phủ duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định, đồng tiền
ổn định, lãi suất trong nớc lớn hơn lãi suất quốc tế đã kích thích đầu t làm cho
luồng vốn đầu t vào nớc ta tăng lên khiến thay đổi tơng quan về cung cầu tiền tệ
cũng nh ngoại tệ. Nếu Chính phủ vẫn cố gắng duy trì tỷ giá hối đoái cố định, mà

không có biện pháp đẩu nhu cầu ngoại tệ lên thì đồng tiền trong nớc dễ dàng trở
nên bị đánh giá quá cao và kết quả sẽ là hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập
khẩu. Khi đó, Nhà nớc sẽ phải áp dụng chính sách kìm chế nhập khẩu, thực hiện
nhiều biện pháp bảo hộ hơn nữa, gây méo mó trong việc phân bổ nguồn lực của
xã hội nh mở rộng mặt hàng nhập khẩu theo hạn ngạch, tăng thuế nhập
khẩu Nếu tình trạng đánh giá cao đồng tiền trong nớc keo dài mà vốn nớc ngoài
tiếp tục đổ vào, đến một lúc nào đó Chính phủ phải phá giá danh nghĩa đồng tiền
trong nớc, làm cho những ngời vay nợ nớc ngoài bị thiệt hại rất lớn, đồng thời
gây tác động mạnh đến lạm phát; lúc đó việc ổn định kinh tế càng trở nên khó
khăn hơn.
Phù hợp với lý thuyết, thực tế Việt Nam cho thấy, từ sau năm 1990 luồng
vốn FDI tăng liên tục đã ảnh hởng đến tỷ giá giữa VNĐ và ngoại tệ giao dịch
chủ yếu là USD: từ 6650đ/USD năm 1990 tăng lên 12720đ/USD năm 1991, sau
đó giảm xuống 10720đ/USD năm 1992 và trở nên ổn định liên tục đến 1996.
Đặc biệt trong 3 năm 1994-1996 khi luồng vốn FDI vào Việt Nam tăng khá
nhanh thì tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND hầu nh không tăng trên thị trờng, tức
là VNĐ bị đánh giá cao một cách giả tạo so với USD, trong khi USD cùng thời
gian đã lên giá khoảng 20% trên thị trờng tiền tệ thế giới . Kết quả ngoài nh đã
phân tích còn đa đến giảm ý nghĩa mọi sự khuyền khích xuất khẩu, tăng tỷ lệ
nhập siêu, gây thâm hụt cán cân vãng lai (khoảng 13-14% GDP năm 1995,1996)
nợ nớc ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trởng xuất
khẩu, sự đổ vỡ cán cân thanh toán luôn rình rập.
Trớc xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thị trờng tài chính , tiền tệ thế giới dấy lên
hết sức mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 đến nay, ngày càng cho thấy những mặt trái
không thể xem thờng của nó. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng bắt đầu bộc
lộ những yếu kém từ cuối năm 1996, rõ rệt hơn là từ năm 1997 đến nay (nợ quá
hạn chung ngân hàng gia tăng, đầu t nớc ngoài bắt đầu giảm tốc độ tăng tởng
GDP tụt dần cùng thời gian ). Tất cả cho thấy chính sách tỷ giá lúc đó hết
sức bất lợi cho nền kinh tế, cần phải có sự thay đổi căn bản, hoàn thiện không
ngừng để thích ứng tình hình và yêu cầu mới của nền kinh tế.

Thứ hai, việc xác định tỷ giá hối đoái tỏ ra cứng nhắc và bị neo giữ, quy đổi
VNĐ theo USD qua một tổ ngoại tệ hẹp( USD, DEM, FRF, GPP, JPY), trong đó
chuyển đổi qua USD là chính. Do đó, nó không phản ánh đúng quan hệ kinh tế
của các đồng tiền các nớc với VNĐ. Sự chuyển đổi VNĐ ra ngoại tệ khác qua
trung gian là USD sẽ làm sai lệch tỷ giá hối đoái. Vì thế mà ý nghĩa của tỷ giá
hối đoái trong phân tích hoạt động kinh tế cũng bị giảm bớt.
Mặc dù vẫn biết USD là đồng tiền mạnh nhất trong rổ ngoại tệ mạnh của
thị trờng tiền tệ thế giới, nó đợc làm phơng tiện thanh toán cho phần đông các n-
ớc. Nhng do VNĐ của ta gắn chặt với sự chuyển đổi qua USD là chính nên bất
cứ một biến động giá nhỏ của đồng USD cũng ảnh hởng tới VNĐ.
Trong năm qua, các ngân hàng thơng mại Việt Nam phải đồng loạt điều
chỉnh tăng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ là do từ tháng 6/1999 đến
nay, Cục dự trữ liên bang Mỹ liên tục 6 lần tăng lãi suất chủ dạo khiến thị trờng
tiền tệ thế giới biến động mạnh; NHTƯ Châu Âu cùng lúc cũng tăng mức lãi
suất chủ đạo lên 0,5%, đa lãi suất tái cấp vốn lên 4,25%; gần đây NHTƯ Trung
Quốc cũng đã nâng lãi suất tiền gửi từ 4,4375% lên 5%. Trong khi đó lãi suất
huy động ngoại tệ ở nớc ta lại thấp hơn đáng kể so với lãi suất thị trờng thế giới ,
mức chênh lệch lãi suất khoảng 1,5%-2%/năm. Điều này đã gây sức ép lớn đối
với mặt bằng lãi suất trong nớc làm cho việc đầu t tại nớc ngoài đối với các ngân

9

hàng trở nên vô cùng hấp dẫn. Loại kinh doanh chênh lệch lãi suất này không tạo
ra rủi ro cho các ngân hàng mà vẫn hợp pháp, nó dẫn đến hiện thực là các ngân
hàng huy động ngoại tệ để đa ra nớc ngoài gửi , trong khi dự trữ ngoại tệ quốc
gia lại đang khan hiếm cho các khoản đầu t phát triển đất nớc. Mặt khác, lãi suất
của USD tăng kéo theo lãi suất trên thị trờng thế giới tăng hơn lãi suất trong nớc
gây cho Việt nam một áp lực phá giá đồng tiền để có thể cạnh tranh xuất khẩu
với các nớc khác.
Th ba, việc xác định tỷ giá thực của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, với chủ

tệ chính là USD, lâu nay các chính giới kinh tế -tài chính nớc ta có đề cập tới,
nhng vẫn gặp bế tắc về cứ liệu kinh tế , giá cả và cả phơng pháp luận tính
toán Nớc ta tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối đoái là thờng xuyên xảy ra. Việc
thiết lập một tỷ giá hối đoái sai lệch so với mức cân bằng vốn có của nó đã phải
trả bằng một chi phí xã hội khá lớn nh sự mất ổn định kinh tế, thất nghiệp gia
tăng
Để hiểu rõ về sự cân bằng tỷ giá hối đoái thực trớc hết ta phải hiểu tỷ giá hối
đoái thực đợc gọi là cân bằng khi tại đó mức giá tơng đối của hàng hoá mậu dịch
và các hàng hoáphi mậu dịch mang lại sự cân bằng đồng thời ở cả khu vực kinh
tế đối ngoại và kinh tế trong nớc của một nền khin tế. Tỷ giá hối đoái thực cân
bằng không phải là bất di bất dịch. Khi có bất kỳ biến số nào ảnh hởng tới mức
cân bằng đối nội và mức cân bằng đối ngoại thì tỷ giá này cũng thay đổi theo. Tỷ
giá hối đoái cân bằng biến động khi những yếu tố cơ bản chi phối thay đổi. Thực
tế này gây ra nhiều hậu quả đối với việc hoạch định chính sách. Tại bất kỳ thời
điểm nào tỷ giá hối đoái thực đều phụ thuộc vào giá trị của những yếu tố
chi phối cơ bản và chịu ảnh hởng từ toàn bộ các sức ép kinh tế vĩ mô nh cung
tiền tệ quá mức cầu, thâm hụt tài chính
Làm thế nào để các nhà hoạch định chính sách, điều hành tỷ giá có thể đối phó
với tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối đoái? Với tình trạng mất cân bằng do các
chính sách kinh tế vĩ mô, một bớc đi có thể phải loại trừ sự mâu thuẫn giữa chính
sách vĩ mô và tỷ giá hối đoái. Ngay cả khi những chính sách gây mất cân bằng
đợc kiểm soát, tỷ giá hối đoái thực vẫn khác biệt với tỷ giá cân bằng. Vấn đề là
làm thế nào để tỷ giá hối đoái thực quay trở lại giá trị cân bằng. Trong nhiều tr-
ờng hợp mất cân bằng tỷ giá hối đoái thực sẽ có dạng đồng tiền bị định giá cao
quá mức và mất khả năng cạnh tranh quốc tế. Nếu tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố
định , việc quay trở lại với mức cân bằng chỉ có thể thực hiện bằng cách giảm
mức giá trong nớc của hangf hoá phi mậu dịch. Điều này rất khó thực hiện trong
thời gian ngắn, chính vì vậy mà tình trạng mất cân bằng sẽ kéo dài cùng với
những tác hại của nó. Những tác hại này nhanh chóng gia tăng khi chính sách
giá cả và tiền lơng không linh hoạt. Kết quả là tình trạng thất nghiệp tăng lên

đồng thời với sự thu hẹp sản lợng đầu ra.
Thứ t, hiện nay chính sách của Nhà nớc là nâng tỷ giá lên làm đồng tiền Việt
Nam mất giá nhằm mục đích khuyến khích xuất khẩu, kích thích đầu t, hạn chế
nhập khẩu, nhất là hàng tiêu dùng. Nhng ai cũng biết rằng nhập khẩu nớc ta còn
phải đáp ứng nhu cầu trên 65% của sản xuất, lu thông trong nền kinh tế . Đối với
giá hàng nhập bằng đồng tiền hiện nay đã là một thách thức cho rất nhiều sản
phẩm Việt Nam, vừa cả trong nội tiêu, vừa trên thị trờng hớng ngoại. Ngay trong
việc nhập siêu của nền kinh tế cũng đang có nhiều yếu tố chi phối, tỷ giá tuy có
tác động điều chỉnh kim ngạch nhập khẩu, nhng yêu cầu đảm bảo các cân đối
của nền kinh tế lại có ý nghĩa quyết định hơn hết.
Thứ năm, trong cơ chế tỷ giá thị trờng đợc xác lập ở nớc ta theo nguyên tắc
một tỷ giá luôn luôn gặp đối kháng giữa các lợi ích. Giải quyết hài hoà là hết
sức khó. Chính vì vậy mà đã từng có ý kiến đề nghị Nhà nớc cho áp dụng chế độ
trợ cấp tỷ giá đối với xuất khẩu, kiều hối và các nguồn thu ngoại tệ của dân c
Việt Nam, còn đối với đối tợng ngời không c trú thì tỷ giá hiện hành là thích
hợp, đảm bảo lợi ích quốc gia trong trao đổi ngang giá quốc tế. Nhng làm nh
vậy, thì vô hình chung chúng ta lại đi theo con đờng cũ của thời đa giá ,đa tỷ
giá , có khi lợi bất cập hại ,xét trên bình diện vĩ mô toàn cục, vì điều đó sẽ

10

không phù hợp với con đờng nhất quán của Đảng và Nhà nớc ta trong các quan
hệ kinh tế đối ngoại theo hớng mở cửa, hội nhập vào tiến trình khu vực hoá, toàn
cầu hoá.
Thứ sáu, việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đa đến khó khăn
nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh té nh: cán cân vay, trả nợ
nớc ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh
tế, thu chi ngân sách Đặc biệt là sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa,
trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích đầu t.
Thứ bảy, không nên mở rộng biên độ giao dịch tỷ giá, tức là quá ỉ lại vào

biên độ tỷ giá, thay cho việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá chính thức sẽ khiến việc
điều hành của NHNN cứng nhắc về kỹ thuật và ít có tác dụng khi tình hình tiền
tệ bất ổn, buộc NHNN thờng xuyên phải điều chỉnh biên độ này. Điều này vô
hình chung tạo kẽ hở lợi dụng cho các lực lợng thị trờng. Các ngân hàng đua
nhau giao dịch theo tỷ giá sát trần mà NHNN khó kiểm soát trạng thái ngoại hối
của họ. Hơn nữa các nguồn ngoại tệ trong và ngoài luồng chính thức thờng
xuyên hoà trộn nhau, đầu cơ chênh lệch tỷ giá kiếm lời nảy sinh. Đành rằng mở
rộng biên độ giao dịch là để tìm ra một tỷ giá phù hợp phản ánh đúng hơn thị tr-
ờng và quy luật cung cầu song sự điều chỉnh bằng việc mở rộng biên độ quá lớn
sẽ tạo cú sốc tâm lý khoong tích cực của ngời dân đối với chính sách tỷ giá của
Nhà nớc. Chẳng hạn, vào quí IV/1997, tỷ giá công bố của NHNN suốt hơn 1
năm là 11170-11175 VNĐ/USD, với biên độ đợc phép là 10% thì tỷ giá giao dịch
thờng xuyên của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng là 11175 VNĐ * 1,1 =12292-
12293 VNĐ. Chênh lệch thấp tới khoảng 7-8% so với tỷ giá thực tế thị trờng (đã
vọt lên mức trên 13000 VNĐ/USD từ tháng 11/1997). Các hiện tợng đầu cơ, găm
giữ ngoại tệ, gây căng thẳng giả tạo cung cầu ngoại tệ, làm phức tạp hoá quản lý
ngoại hối của Nhà nớc, phần nào có nguyên nhân từ sự bất cập của cơ chế điều
hành tỷ giá hối đoái cha thích ứng với hiẹen trạng VNĐ ở xu hớng bị đánh giá
cao quá mức. Mặt khác NHNN thông qua tỷ giá chính thức thấp và biên độ
khống chế 10% đã buộc các NH thơng mại phải giao dịch với tỷ giá ở mức tối đa
sát trần mà vẫn thấp hơn 10% so với thực tế. Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết
bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chứ nới rộng thêm nữa biên độ
giao dịch tỷ giá là hết sức nguy hiểm. Kinh nghiệm Thái Lan sau khi mở biên độ
giao dịch lên 25%( khoảng trớc 1/7/1997) đã nhanh chóng rơi vào hoảng loạn
hối đoái thực khiến NHTƯ nớc này tiêu tốn gần 12 tỷ USD để can thiệp duy trì
biên độ không đem lại kết quả. í thức đợc hiểm hoạ đó NHNN Việt Nam đã thu
hẹp biên độ từ 10% xuống 7% năm 1998.
Một nguyên nhân nữa không nên lạm dụng quá biên độ dao động tỷ giá để điều
chỉnh, kiểm soát thị trờng ngoại tệ vì thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng cha phát
triển hoàn hảo, cha phản ánh đợc toàn bộ quan hệ cung cầu ngoại tệ của đất nớc,

nên bản thân liều lợng dự trữ bỏ ra để can thiệp hết sức hạn hẹp của NHNN
nhằm kiểm soát dao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hẹp t-
ơng ứng. Theo đó , xét cả về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành
mới vẫn còn độ cứng nhắc khá cao.
Thứ tám, chính sách của Chính phủ (trong đó có chính sách tỷ giá ) không
ổn định luôn thay đổi ,không phù hợp với thực tiễn và quá trình phát triển của
nền kinh tế; do nớc ta là nớc đang phát triển nên có những nhiệm vụ chồng chất,
có những mục tiêu mâu thuẫn nhau. Vấn đề là định hớng theo mục tiêu chính, vì
mục tiêu dài hạn nên chính sách tỷ giá cũng có phần định hớng theo chủ quan, bị
áp đặt làm cho hoạt động không có hiệu quả.
Thứ chín, hai năm trở lại đây, Việt Nam thực hiện phá giá đồng tiền để tăng
sự cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu với các nớc khác. nhng biện pháp này không
đạt hiệu quả mấy vì nó không có sự kết hợp phù hợp với chính sách vĩ mô khác,
nó mâu thuẫn với chính sách phát triển kinh tế. Vì Nhà nớc thực hiện song song
với việc mở rộng tín dụng ngân hàng, tăng tiền lơng để kích cầu. Nếu quốc gia
thực hiện phá giá vào thời điểm tỷ giá hối đoái thực đang trong tình trạng định
giá quá cao thì việc phá giá sẽ hiệu quả trong việc lấy lại mức cân bằng tỷ giá

11

hối đoái. Nếu việc phá giá danh nghĩa đợc thực hiện đồng thời với các chính
sách thắt chặt tiền tệ và tài chính không đi đôi với chỉ số tiền lơng thì chắc chắn
sẽ đạt đợc sụ giảm giá tiền thực tế và khiến cho tỷ giá hối đoái thực trở về với
mức cân bằng .
Những nhợc điểm trên bao gồm cả khách quan và chủ quan đều náy sinh
trong thời kỳ nớc ta xây dựng kinh tế theo định hớng XHCN . Những hạn chế
này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cân nhắc, đa ra biện pháp khắc phục
mà không đi ngợc với mục tiêu chính của Đảng và Nhà n
2. Một số những biện pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá cho phù hợp với chính
sách tiền tệ

Chính sách tỷ giá đợc xác định là một bộ phận của chính sách tiền tệ (trớc
tháng 2/1999 Việt Nam duy trì một cơ chế tỷ giá ấn định có điều chỉnh nên
chính sách tỷ giá hối đoái đợc coi là một công cụ của chính sách tiền tệ, nhng từ
tháng 2/1999 cơ chế tỷ giá linh hoạt có điều tiết ra đời, và nh vậy tỷ giá hối đoái
không thể coi là một công cụ của chính sách tiền tệ mà là một mục tiêu trung
gian quan trọng của chính sách tiền tệ ). Nó có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trởng kinh tế ở mức độ cao, bền vững. Với
t cách là một chính sách nên chính sách tỷ giá phải hớng vào thực hiện những
mục tiêu có tính đặc thù của mình:
- ổn định tỷ giá dựa trên mối tơng quan cung cầu trên thị trờng để khuyến
khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và
tăng dự trữ ngoại tệ.
- Từng bớc nâng cao uy tín đồng tiền Việt Nam; đồng thời tạo ra các điều kiện
cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi.
- Phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối để khắc phục tình trạng
đô la hoá trong nền kinh tế.
Từ các mục tiêu trên đòi hỏi chính sách tỷ giá phải đợc xây dựng dựa trên các
quan điểm :
+ Chính sách tỷ giá phải hớng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản
chất vốn có của nó -là một cơ chế giá thị trờng. Một khi đã xem ngoại tệ là một
hàng hoá đặc biệt cũng phải vận hành theo quy luật của giá cả thị trờng và việc
điều chỉnh tỷ giá phải dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trờng và các
nhân tố tác động lên nó. Theo quy luật của giá cả, trong quá trình vận động tỷ
giá cũng có thể hoàn toàn tách rời giá trị của đồng tiền, nhng vì tỷ giá là một
trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm nhất của đời sống kinh tế xã hội, nếu
sự tách rời đó vợt quá biên độ cho phép nào đó thì lập tức tác động đến các loại
giá cả khác trên thị trờng bao gồm thị trờng hàng hoá tiêu dùng, thị trờng tín
dụng, thị trờng ngoại hối. Nói cách khác, một sự bất ổn của tỷ giá chắc chắn gây
ra nhiều tai hại cho nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, trong điều hành tỷ giá mục tiêu
ổn định của tỷ giá luôn phải đợc u tiên hàng đầu.

+ Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất
khẩu để cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ.
Tỷ giá là trọng tâm đối với sự vận hành của nền kinh tế thị trờng mở cửa và có
ảnh hởng rộng khắp đến khả năng cạnh tranh với bên ngoài, đến tình trạng cán
cân thanh toán và mức dự trữ ngoại tệ quốc gia. Một sự thiếu hụt cán cân thanh
toán do tỷ giá gây ra chắc chắn sẽ kéo theo sự bất ổn về tiền tệ và làm giảm
mạnh lợng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tất cả sẽ tạo thành vòng xoáy cuốn nền kinh
tế vào các cuộc khủng hoảng tài chính.
+ Chính sách tỷ giá không đợc tách rời sự quản lý của Nhà nớc.
Trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng gia tăng sự vận hành của tỷ
giá phải nằm trong tầm quản lý của Nhà nớc. Nhà nớc phải biết huy động sức
mạnh quốc tế để phát triển kinh tế, đồng thời phải có kinh nghiẹm nhìn xa trông
rộng, tìm cách tiếp cận, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt kịp thời theo những biến động

12

trong và ngoài nớc sao cho giữ đợc tỷ giá trong mối quan hệ hài hoà với lãi suất,
dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, tăng trởng kinh tế, thâm hụt ngân sách và
duy trì chúng theo hớng tích cực.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm trên cần thiết phải áp dụng hàng loạt các
biện pháp sau đây trong đổi mới chính schs tỷ giá phù hợp với chính sách tiền tệ.
- Lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý, điều tiết của Nhà nớc và thích
hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nớc ta hiện nay. Vì chế độ tỷ giá đó cho
phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa theo quy luật
cung cầu thị trờng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của Nhà nớc
để đạt đợc mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế.
- Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hớng tự do hoá dần.
Việc tự do hoá dần cơ chế điều hành tỷ giá cần phải có những bớc đi thích hợp.
Trớc mắt, trong bối cảnh nền kinh tế tăng trởng cha ổn định, thị trờng hối đoái
mới đang hớng tới hoàn thiện, thị trờng nội tệ cha thực sự phát triển, thị trờng

chứng khoán mới đang ở giai đoạn đầu, việc tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá nh hiện
nay là hết sức cần thiết. Tỷ giá chính thức và biên độ giao dịch vẫn là một mục
tiêu trung gian để điều tiết và kiểm soát tỷ giá rất hiệu quả và phù hợp với thực
lực của NHNN .
- Củng cố và phát triển thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng-một cơ sở hạ tầng
rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều chỉnh tỷ giá. Là một bộ phận quan
trọng của thi trờng tiền tệ, thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng phải hoạt động thông
suốt, liên tục không bị giới hạn bởi không gian và thời gian để tạo điều kiện cho
các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, qua đó giải quyết nhanh chóng
nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp. Đồng thời có cơ chế ràng
buộc các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia trên thị trờng thấy rõ hết trách
nhiệm cũng nh nghĩa vụ và quyền lợi của mình để xây dựng một mô hình thị tr-
ờng ngoại tệ liên ngân hàng hoàn thiện, điều tiết can thiệp mua, bán ngoại tệ
nhằm cân đối cung cầu và thực hiện chính sách tỷ giá theo đúng định hớng của
Nhà nớc.
- Củng cố và phát triển thị trờng nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp
vụ hoạt động của nó để tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hoà giữa hai khu
vực thị trờng ngoại tệ và thị trờng nội tệ một cách thông suốt.
- Nâng cao dự trữ ngoại tệ của Nhà nớc tơng xứng nhịp độ tăng kim ngạch
xuất nhập khẩu và khối loựng ngoại tệ đang có trên thị trờng ở nớc ta. Tập trung
quản lý dự trữ ngoại tệ vào một đầu mối trung tâm là NHNN. Ngoại tệ của kho
bạc Nhà nớc có đợc cũng phải bán ngay cho NHNN và khi cần sử dụng thì mua
lại ở NHNN.
- Xác định đợc một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ
ngoại tệ mạnh để làm căn cứ cho việc ấn định tỷ giá đồng Việt Nam chứ không
nên neo giữ đồng Việt Nam vào đồng USD. Với cơ cấu ngoại tệ đa dạng, Nhà n-
ớc vừa chủ động linh hoạt trong việc bố trí có lợi nhất các phơng tiện thanh toán
quốc tế, cân đối cơ cấu các khoản nợ có liên quan tới các luồng dịch chuyển
ngoại tệ từ thơng mại và đầu t trực tiếp, vừa phân tán đợc rủi ro về tỷ giá, giảm
thiểu sự phụ thuộc vào USD.

- Có chính sách khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ cấu
tiền tệ trong giao dịch thơng mại quốc tế để nâng cao sự cân đối giữa luồng cung
và cầu ngoại tệ, qua đó góp phần đa dạng hoá tiền tệ của nền kinh tế một cách
cân đối hơn.
- Chuẩn xác hoá các chỉ số kinh tế vĩ mô nh: lạm phát, lãi suất, thực trạng cán
cân thanh toán, nợ nớc ngoài để giúp cho Nhà nớc lựa chọn phơng án điều chỉnh
tỷ giá có hiệu quả hơn.
Thực hiện chính sách thặng d hay tối thiểu là thăng bằng trong cán cân thanh
toán quốc tế bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả
các nguồn ngoại tệ.
Kiểm soát và hạ thấp tỷ lệ lạm phát để ổn định giá cả và nâng cao sức mua
đối nội của đồng tiền, tạo sự tác động ngợc lại đối với tỷ giá hối đoái.

13

Có chính sách lãi suất tín dụng thích hợp để thu hút các khoản tiết kiệm và
đầu t, kể cả bằng nguồn ngoại tệ từ ngoài vào, đồng thời hạn chế việc săn lùng
ngoại tệ và vàng bạc.
Tạo quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trờng hối đoái khi cần thiết. Tuy
nhiên trong điều kiện lạm phát không thể khống chế đợc, thì để tỷ giá trợt dần,
hơn là tung hết dự trữ ngoại tệ ra can thiệp.
- Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nghiêm ngặt.
Ngân hàng Nhà nớc xây dựng quy chế thông tin, thống kê, hệ thống hoá kịp thời
số liệu luồng ngoại tệ ra, vào trong nớc, từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên
thị trờng để làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quanr lý ngoại hối. Quản
lý chặt chẽ các khoản vay nợ nớc ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát chặt
chẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của các NHTM cho các ngân hàng vay từ nớc
ngoài.
- Tổ chức hữu hiệu mạng lới thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng ra vào Việt
Nam. Song song với việc thực hiện các biện pháp trên, NHNN phải từng bớc phải

từng bớc đảm bảo cho đồng Việt Nam thực hiện tốt các chức năng của mình.
Muốn vậy phải tạo thêm nhiều phơng tiện chuyển tải giá trị làm phơng tiện lu
thông, thanh toán để giảm bớt áp lực nhu cầu tiền mặt trong lu thông.
Cải cách hệ thống thanh toán ,khuyến khích ngời dân mở tài khoản séc cá nhân
và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, tùng bớc tăng mệnh giá của đồng Việt
Nam.
- Tiếp tục khép dần chênh lệch giữa lãi suất cho vay đồng ngoại tệ với lãi
suất cho vay đồng nội tệ. Về lãi suất đồng ngoại tệ do tính đặc thù của nó là liên
quan đến ngoại tệ, thị trờng quốc tế, nên việc xử lý nó một mặt phải theo sát thị
trờng quốc tế, nhng mặt khác lãi suất ngoại tệ phải có sức hấp dẫn để thực hiệt
tốt chính sách thu hút vốn của nớc ta hiện nay. Việc giảm chênh lệch lãi suất
đồng nội tệ và lãi suất đồng ngoại tệ không có nghĩa là làm cho chênh lệch này
bằng 0, mà là giảm đến mức mà chênh lệch lãi suất là sự phản ánh rủi ro tín
dụng và dự tính tăng của tỷ giá. Theo đó một khi tỷ giá biến động có chiều hớng
tăng lên, thì NHNN có thể tăng lãi suất để phản ánh đầy đủ các rủi ro, và ngăn
chặn đợc xu hớng tăng tỷ giá. Với cách làm này trong chừng mực nào đó giúp
Nhà nớc có thể điều chỉnh tỷ giá mà không cần phải hao tốn lực lợng dự trữ
ngoại tệ của mình.

14

Kết luận
Xu hớng ngày nay là sự hội nhập và phát triển, khu vực hoá, toàn cầu hóa,
nền kinh tế mỗi nớc không còn ở trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng
quan hệ với các nớc trên thế giới. Sự phát triển của hệ thống thơng mại quốc tế
và các quan hệ nh: tín dụng, đầu t quốc tế, thơng mại quốc tế đòi hỏi phải có sự
trao đổi tiền tệ giữa các nớc. Việc trao đổi này đợc thông qua chế độ tỷ giá. Nh
vậy, tỷ giá hối đoái là một trong nhng nhân tố quan trọng của chính sách phát
triển kinh tế.
Trong kinh doanh, tỷ giá hối đoái đợc sử dụng để mua bán và thu đổi

ngoại tệ, đây là một nghiệp vụ đem lại thu nhập tài chính đứng thứ hai sau hoạt
động tín dụng, đợc các tổ chức tín dụng rất chú trọng sử dụng trong cạnh tranh,
tăng lợi nhuận. Mức độ sử dụng công cụ tỷ giá của các tổ chức tín dụng và quá
trình diễn biến tỷ giá trong giao dịch giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phụ
thuộc vào chính sách tỷ giá và cơ chế quản lý ngoại hối của NHNN trong từng
thời kỳ. Việc linh hoạt sử dụng công cụ tỷ giá chỉ diễn ra đối với các tổ chức tín
dụng đợc phép kinh doanh ngoại tệ, tập trung vào các NH thơng mại và quốc
doanh, NH liên doanh.
Trong thời kỳ đổi mới, Việt nam áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự
quản lý của nhà nớc là phù hợp và đã gặt hái đợc những thành công nhất định,
đặc biệt trong lĩnh vực ổn định thị trờng ngoại tệ, góp phần tích cực vào những
thành tựu chung của nền kinh tế. Chính sách tỷ giá đợc hình thành trên quan hệ
cung cầu, đã từng bớc theo sát thực tế và trở nên khách quan hơn, linh hoạt hơn,
góp phần tăng cờng sự hòa nhập của nền kinh tế nớc ta vào cộng đồng kinh tế
thế giới.
Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá vẫn còn những nhợc điểm tồn tại (nh đã
phân tích trong mục 2.2) cần khắc phục. Trớc hết phải có những biện pháp điều
hành tỷ giá thích hợp từ phía NHNN: cần duy trì và tăng dần lu lợng giao dịch
ngoại tệ trên thị trờng liên NH nhằm giảm thiểu tối đa bất cứ sự căng thẳng nào
về ngoại tệ giữa các lực lợng tham gia thị trờng và bào toàn liên tục quỹ dự trữ
can thiệp thị trờng của NHNN, mở rộng và đa dạng hoá hơn nữa các hình thức
tham gia giao dịch trên thị trờng ngoại tệ, điều chỉnh lại hợp lý các mức giới hạn
trần, tỷ lệ tăng thêm giao dịch kỳ hạn trên cơ sở quan hệ cung cầu thực tế và xu
hớng áp dụng hình thức giao dịch ngoại tệ có lợi về mặt chính sách; kiên quyết
duy trì mức tỷ giá tối đa cho phép, kiểm soát, áp dụng hình phạt nặng những tr-
ờng hợp vi phạm. Bản thân mức giới hạn trần tỷ giá giao dịch cho phép cũng
không nhất thiết ấn định một cách cứng nhắc mà phải tuỳ thuộc hơn vào động
thái của thị trờng.
Với những biện pháp đợc nêu ra ở trên, vai trò của tỷ giá hối đoái sẽ trở
thành một mục tiêu trung gian quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ

của Nhà nớc ta.

15

Tài liệu tham khảo
1. Lý thuyết tiền tệ ngân hàng (Học viện ngân hàng, phân viện Hà nội và
Tp.HCM)
2. Kinh tế học vĩ mô (Đại học KTQD)
3. Báo cáo thờng niên NHTW 1996-1999
4. Kinh tế quốc tế (Đại học thơng mại)
5. Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và các vấn đề kinh tế đối ngoại
(NXB Hà nội)
6. Lý thuyết Tiền tệ và Ngân hàng (Fedric Miskin).
7. Thời báo kinh tế Việt nam và thế giới 2000-2001, 2001 2002.




16

Mục lục
Phần mở đầu
Nội dung
Phần I: Những vấn đề chung về tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và
mối quan hệ giữa chúng
1.Tỷ giá hối đoáí
1.1 Khái niệm
1.2 Vai trò của tỷ giá hối đoái
1.3 Cơ chế của tỷ giá hối đoái
1.4 Các nhân tố ảnh hởng đến tỷ giá

2.Chính sach tiền tệ
3.Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với chính sách tiền tệ
Phần II: Thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt
Nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá.

1.Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới.
2.Một số những biện pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá cho phù hợp với chính
sách tiền tệ .
Kết luận
Tài liệu tham khảo

17

×