Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

DI CHÚC của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH và VIỆC vận DỤNG vào GIẢNG dạy các môn KHOA học lý LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.27 KB, 85 trang )

BÁO CÁO ĐỀ DẪN
“DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC VẬN
DỤNG VÀO GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY”
TS-GVC. Nguyễn Trọng Thóc
Trưởng Khoa Lý luận chính trị
Thưa quý vị đại biểu cùng các thầy cô kính mến!
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại bản Di chúc thiêng liêng.
Đó là những lời căn dặn cuối cùng, với
những tình cảm, niềm tin của Người đối
với toàn Đảng, toàn quân, và toàn dân ta
cũng như các thế hệ người Việt Nam
đương thời và muôn đời sau. Bản Di chúc
đã đề cập đến nhiều phương diện, chứa
đựng những giá trị lý luận và thực tiễn cao quý.
Bốn mươi năm qua, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lời
thề trước vong linh của Người, dân tộc ta, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn hy
sinh gian khổ, khó khăn, thách thức, nhưng với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc
như Người hằng vun đắp, các thế hệ con cháu của Người đã tiếp tục phát huy
truyền thống quý báu đó để viết nên những trang sử vẻ vang, những thành tựu vĩ
đại trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong Di chúc, Bác dặn nhiều điều đặc biệt quan trọng cho sự nghiệp
cách mạng nước ta. Đó là những lời căn dặn các thế hệ con cháu hôm nay và
mai sau về những giá trị lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam trong
các lĩnh vực: xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể cũng như
việc bồi dưỡng, giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế,
công tác đối ngoại, Điều Bác hằng mong mỏi là “xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Ngày nay chúng ta
đã thực hiện được “hòa bình, thống nhất và độc lập cho dân tộc”.
1


Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô giá, nó đã
kết tinh những tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp đầy tính nhân văn
cao cả của Người - một vĩ nhân đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và
nhân loại. Di chúc thể hiện một tầm nhìn xuyên suốt thế kỷ của Bác. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết những nội dung cơ bản, những quan
điểm cốt yếu và vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam cả
hôm nay và mai sau. Bốn mươi năm qua, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã
bền bỉ, đồng sức, đồng lòng để thực hiện những ước nguyện thiêng liêng của
Bác kính yêu.
Di chúc là những lời căn dặn và tình cảm thiết tha, là niềm tin sâu sắc của
Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cũng như các thế hệ người
Việt Nam. Di chúc của Người đã trở thành cương lĩnh hành động của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đặc biệt là trong giáo dục và đào tạo cũng như trong công cuộc đổi mới vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với ý nghĩa và
nội dung to lớn đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học của Khoa Lý
luận chính trị, Trường Đại học Nha Trang với chủ đề: “Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và việc vận dụng vào giảng dạy các môn khoa học Lý luận chính trị
trong nhà trường hiện nay”.
2
QUAN ĐIỂM VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
TRONG DI CHÚC CỦA HỒ CHÍ MINH
TS-GVC. Nguyễn Trọng Thóc
Trưởng Khoa Lý luận chính trị
Di chúc Bác viết trong lúc cả dân tộc đang dồn
sức chiến đấu giải phóng miền Nam, đồng thời chống
lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Có
thể nói đó là thời kỳ ác liệt nhất, cam go nhất nhưng
Bác không đề cập nhiều đến lĩnh vực này về mặt
chiến lược và chiến thuật để thắng Mỹ. Nói về cuộc

kháng chiến chống Mỹ, Bác hầu như khẳng định:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo
dài mấy năm nữa”, nghĩa là Bác đã dự báo sẽ thắng
lợi và thời gian ngắn chỉ “mấy năm nữa”.
Trong 40 năm thực hiện Di chúc, điều Bác hằng mong mỏi “xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”,
chúng ta đã thực hiện được “hòa bình, thống nhất, độc lập”. Trong Di chúc, Bác
dặn nhiều điều quan trọng, cốt tử cho sự nghiệp cách mạng, cho sự phát triển
đất nước. Một trong những điều cốt tử, trăn trở và dồn tâm huyết của Bác chính
là về Đảng - Đảng của thì tương lai, xây dựng Đảng phải ngang tầm thời đại để
xây dựng tương lai cho dân tộc. Vì vậy, trong Di chúc, Bác có đến 22 lần viết
về khái niệm Đảng với tư cách là đảng cầm quyền.
Lời đầu tiên trong Di chúc, Bác viết về Đảng: “Trước hết nói về Đảng –
Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
(1)
.
3
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển đoàn kết và
thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”
(2)
.
“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư”
(3)
Các phẩm chất đạo đức cách mạng mà Bác nhấn mạnh ở trên chính là
những phẩm chất làm cho Đảng ta thật sự trong sạch - “phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch”
(4)
, để dẫn dắt dân tộc ta tiến lên. Về trách nhiệm của một Đảng
cầm quyền, Bác chỉ rõ: nếu Đảng cầm quyền không xứng tầm, chưa là tinh hoa
của đất nước thì sự nghiệp cách mạng không thể thắng lợi. Đây chính là tầm
nhìn xuyên lịch sử của Bác.
Tầm vóc của Đảng cầm quyền có thể nói đó là trí tuệ và đạo đức của
Đảng. “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Với tư cách là đội tiên phong, là
người lãnh đạo thì trí tuệ cũng là đạo đức. Đảng cầm quyền phải có trí tuệ để
giải quyết những vấn đề thực tiễn, đưa xã hội phát triển. Trí tuệ ở đây đồng
nghĩa với đạo đức.
Bác cũng khẳng định: người đảng viên “phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”
(5)
. Là người lãnh đạo, đảng viên
phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt; biết nhìn xa trông rộng và trọng
dụng những người hiền tài, đức độ. Nghĩa là người lãnh đạo phải vừa “hiền” lại
vừa “minh”. Còn ở địa vị của người đầy tớ, trước hết Đảng phải tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, phải “lo trước cái lo của thiên hạ,
vui sau cái vui của thiên hạ”. Có như vậy Đảng mới vì dân và phục vụ nhân dân.
- Trong Di chúc, mặc dù Bác chỉ có một lần nói đến đoàn viên thanh niên
ta nhưng qua đó Bác giao nhiệm vụ cho toàn Đảng và toàn dân phải chăm lo
giáo dục, đào tạo họ thành lớp người cho tương lai của đất nước. Bác viết:
“Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ

nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Và “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”
(6)
.
- Bác cũng giao nhiệm vụ cho tổ chức Đảng các cấp và khắp mọi miền đất
nước phải có kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa để nâng cao đời
sống của nhân dân: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã
bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại
kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm,
4
hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung
thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn
hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”
(7)
.
- Bàn đến những công việc đối với con người, Bác đã chỉ ra rằng: Đối
với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ,
binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong ), Đảng, Chính phủ và đồng
bào phải tìm cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở
những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh
sinh".
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần phải xây dựng
vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo
dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động
và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã
cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp,
quyết không để họ đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên
xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng

và Chính phủ cần chọn ra một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các
ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi,
tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần
xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế
hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm có nhiều phụ
nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố
gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ
nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ
bạc buôn lậu, v.v thì nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để
cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện.
Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc
Mỹ, nhân dân ta luôn luôn trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp
của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Vì vậy, đến ngày
cách mạng hoàn toàn thắng lợi, Bác có ý định miễn thuế nông nghiệp một năm
5
cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm
niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Bác cũng đã nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ,
đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế.
Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh
mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao
động. Củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc
Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng rất vẻ
vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo
ra những cái mới mẻ, tốt hơn. Để giành lấy thắng lợi trong công cuộc chiến đấu
khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Bác đã dự kiến những công việc cho tương lai như: Ngay sau khi cuộc
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết
thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra và trong cuộc chiến tranh xâm lược
dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta
phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và
sai lầm. Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho
mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng
giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được việc như vậy,
thì dù công việc lớn mấy, khó khăn đến mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.
Bác lo lắng nhiều nhất và chỉ ra khi thắng Mỹ nhất định phải chỉnh đốn
Đảng. Với Đảng cầm quyền, mục tiêu không có gì khác là đem lại hạnh phúc
cho toàn thể nhân dân, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”, theo Bác đấy mới là đạo đức cao nhất.
Chính vì vậy, Bác nhấn mạnh đến khía cạnh: “Lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”. Bởi với lãnh đạo mà để xã hội kém phát triển, là tụt hậu so với thiên
hạ, chạy theo thiên hạ thì không thể nói là đạo đức mà là có tội với nhân dân.
Đạo đức không chỉ hiểu cụ thể quan hệ tốt, là trong sạch của bản thân mình (tuy
điều đó rất cần) mà đạo đức là đem lại hạnh phúc cho mọi người. Một khi cán
bộ, đảng viên không có được phẩm chất đó thì sự nghiệp cách mạng của Đảng
không thể thắng lợi. Bác yêu cầu Đảng phải là đội tiên phong, là tập hợp những
người tinh hoa của đất nước, “hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của
dân tộc”.
6
- Về bệnh "quan cách mạng" – một căn bệnh rất có hại đối với Đảng
cầm quyền. Trước khi Bác mất 7 tháng, nhân kỷ niệm thành lập Đảng lần thứ 39
(3/2/1969), trong bài viết "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân", Người phê phán gay gắt bệnh "quan cách mạng".
Quan cách mạng chính là bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, hẹp hòi,
quân phiệt quan liêu, ham chuộng hình thức, làm việc bàn giấy xa rời nhân dân,

kiêu ngạo, tự mãn, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, "óc địa vị, cố tranh cho được ủy
viên này, chủ tịch kia", chỉ "lo ăn ngon mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư",
giữ thói “một người làm quan, cả họ được nhờ”, đem bà con bằng hữu đặt vào
chức này, việc kia", rồi "không phê bình giúp nhau sửa đổi, mà lại che đậy cho
nhau", làm hỏng việc của đất nước, mất niềm tin của nhân dân. Người đã tiên
liệu về những nguy cơ trên sẽ tồn tại, ăn sâu và bén rễ trong Đảng. Vì vậy, trong
Di chúc, Bác chỉ ra cần phải có một cuộc chỉnh đốn Đảng toàn diện.
40 năm trôi qua nhưng những căn bệnh trong đảng mà Bác cảnh báo
không hề thuyên giảm, thậm chí nhiều vấn đề hiện nay còn trầm trọng hơn.
Điều này thể hiện qua sự đánh giá của các kỳ Đại hội Đảng. Do đó, để xứng
đáng là Đảng cầm quyền, Đảng cần có cơ chế dân chủ chọn lựa những tinh hoa
nhất của Đảng vào vị trí lãnh đạo các cấp. Chính quá trình chọn lọc công khai,
minh bạch sẽ tìm ra được những nhà lãnh đạo có đầy đủ trí tuệ, nhân cách xứng
đáng lãnh đạo dân tộc trong giai đoạn hiện nay và sẽ thực hiện được đầy đủ Di
chúc của Người.
Vào những năm 60 của thế kỷ trước, phong trào cộng sản trên thế giới có
những sự rạn nứt. Quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc rất xấu nên dẫn đến
xung đột ở biên giới giữa hai nước. Là một người cộng sản chân chính, Bác rất
đau lòng về vấn đề này. Bác viết: “Về phong trào Cộng sản thế giới – Là một
người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu
vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức
hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý,
có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ
phải đoàn kết lại”
(8)
.
Đoạn cuối cùng của Di chúc Bác viết: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn
tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh

niên và nhi đồng”
(9)
. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu
bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế.
7
Như vậy, điều đầu tiên trong Di chúc Bác nói về đoàn kết nhất trí trong
Đảng là cơ sở, nền tảng để Đảng ta tập hợp được sức mạnh của Đảng và của cả
dân tộc, nhờ đó mà Đảng và nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn
trong sự nghiệp cách mạng của mình. Lôgíc của nội dung tư tưởng đó cũng
được Bác thể hiện ở điều cuối cùng trong Di chúc bất hủ là: “Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
(10)
.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- (1),(2),(3),(4),(5),(6) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tr.510.
- (7) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2000, tr.511.
- (8) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2000, tr.511 – 512.
- (9),(10) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2000, tr.512.
- Internet: www.nhandan.org.vn, www.dangcongsan.vn,
8
TƯ TƯỞNG VỀ GIÁO DỤC TRONG DI CHÚC
HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
ĐÓ TRONG SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Th.S. Phạm Quang Tùng
Bộ môn Đường lối cách mạng…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chân lý soi đường cho
cách mạng Việt Nam đi lên giành thắng lợi. Trong
toàn bộ di sản tư tưởng mà Người để lại cho chúng ta,
có tư tưởng về giáo dục. Tư tưởng về giáo dục được
người đề cập đến trong rất nhiều bài báo, bài nói
chuyện nhưng trong phạm vi bài tham luận này
chúng ta chỉ nghiên cứu tư tưởng về giáo dục trong Di
chúc của Hồ Chí Minh và việc vận dụng tư tưởng đó
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở Trường Đại học
Nha Trang.
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ mục đích cao cả
của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi, có nguồn gốc sâu xa từ tình
thương lớn, từ chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Người. Bác luôn quan tâm, yêu
thương, nâng niu trân trọng con người, mong muốn làm cho con người ngày
càng tốt đẹp hơn, biết phát huy tất cả tiềm năng của mình để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Người coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định của sự
nghiệp cách mạng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn lao vào thế hệ trẻ Việt
Nam - những người chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định vai trò to lớn
của tuổi trẻ trong sự phát triển và trường tồn của dân tộc: “Nước nhà thịnh hay
suy yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ Chủ tịch thường xuyên động viên
tuổi trẻ phải ra sức rèn luyện tinh thần, tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập
vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà. Trước lúc đi xa,
9
trong Di chúc của mình Người đã nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải đặc biệt
quan tâm tới việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người căn dặn: “Đoàn viên và

thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ
thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Như vậy chúng ta thấy tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh được thể hiện
trong Di chúc không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người,
mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo
ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng,
đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để đào tạo được những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”,
trong Di chúc người đã căn dặn chúng ta phải: “Sửa đổi chế độ giáo dục cho
hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học
tập nửa ngày lao động; củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ
quốc ”
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo
dục phải nhận thức đúng đắn “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Trong Di
chúc người viết: “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng
là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến
đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”
Tư tưởng lớn này tạo ra sức mạnh để huy động tất cả mọi lực lượng chính
quyền, đoàn thể, gia đình và xã hội tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục nói
riêng và sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm nói chung. Vì vậy, phải phát
huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ
các cấp, giữa nhà trường và nhân dân địa phương.
Tư tưởng “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” của Hồ Chí Minh đã
được Đảng, nhân dân ta và ngành giáo dục và đào tạo vận dụng một cách sáng
tạo thành phong trào xã hội hoá giáo dục đang phát triển sôi nổi và rộng khắp

trên phạm vi cả nước hiện nay trên cơ sở xây dựng mối quan hệ giữa ba lực
10
lượng giáo dục: Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Ở trường Đại học Nha Trang
mối quan hệ giữa Nhà trường - Gia đình - Xã hội trong giáo dục đã được
trường ta thực hiện một cách hết sức nghiêm túc. Từng học kỳ Nhà trường luôn
gửi kết quả học tập của sinh viên về gia đình để thông báo kết quả học tập của
sinh viên cho gia đình biết. Nhờ đó gia đình có thể nắm được kết quả học tập
của con em mình và từ đó có biện pháp đốc thúc, chấn chỉnh con em mình học
tập tốt hơn. Nhà trường luôn tìm hiểu nhu cầu về nguồn nhân lực của xã hội để
từ đó có phương hướng đúng trong chiến lược giáo dục, mở các ngành mới, các
ngành xã hội cần để kịp thời đạo tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu xây
dựng phát triển đất nước.
Để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục phát triển tốt đẹp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ vấn đề then chốt, quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng
được một đội ngũ đông đảo những người làm công tác giáo dục yêu nghề, yêu
trường, hết lòng yêu thương chăm sóc, giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi
đạo đức, tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để thực sự là tấm gương sáng cho học
sinh noi theo.
Kế tục và quyết tâm thực hiện Di chúc của Người, Đảng và Nhà nước nói
chung cũng như Trường Đại học Nha Trang nói riêng đã và đang có chiến lược
xây dựng đội ngũ giảng viên từ khâu tuyển dụng đến khâu bồi dưỡng, đào tạo
nâng cao trình độ. Trong những năm qua, Nhà trường đã cử hàng chục cán bộ
giảng viên đi đào tạo ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ chuyên môn
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, qua đó nâng cao chất lượng
giảng dạy trong Nhà trường.
Bên cạnh đó, Nhà trường cũng không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát
huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng
lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập

bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo
dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành”, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường
gắn với xã hội, nhằm đào tạo, xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn
bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý
chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
11
nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt
Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành
giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như
lời căn dặn trong Di chúc của Bác.
Những tư tưởng quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục trong Di
chúc của Người sẽ mãi mãi tỏa sáng trong suốt hành trình lịch sử của dân tộc
Việt Nam. Trong bối cảnh thời đại và quốc tế ngày nay, những tư tưởng đó lại
càng có giá trị hơn bao giờ hết.
Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào
tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam
của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh
nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với
ngành giáo dục nói chung và Trường Đại học Nha Trang nói riêng trong giai
đoạn hiện nay./.
12
GÍA TRỊ DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VỚI
GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Phạm Thị Châu Hồng
Bộ môn Những nguyên lý…

Hồ Chí Minh – người anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, đồng
thời cũng là nhà giáo dục lớn. Người đã đặt
nền móng cho nền giáo dục Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, nền giáo dục toàn dân, toàn diện,
khoa học và hiện đại. Bên cạnh đó chúng ta
còn biết đến Người là nhà giáo dục chính trị tài tình, Người đã để lại cho chúng
ta những tư tuởng lớn về giáo dục lý luận chính trị. Vì vậy, những tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung và “Di chúc” của Người nói riêng là một di
sản quý báu của dân tộc ta, nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu,
học tập và giảng dạy các môn khoa học Lý luận chính trị ở nước ta hiện nay.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bản Di chúc thiêng liêng.
Đó là lời căn dặn cuối cùng, những tình cảm, niềm tin của Người với toàn
Đảng, toàn dân và các thế hệ người Việt Nam đương thời và muôn đời sau. Di
chúc đã đề cập đến nhiều phương diện, chứa đựng những giá trị lý luận và thực
tiễn cao quý, trong đó, những lời di huấn của Người về bồi dưỡng giáo dục con
người mới xã hội chủ nghĩa là nội dung quý giá mãi mãi soi sáng cho giáo dục
lý luận chính trị cũng như sự nghiệp “trồng người” của Trường đại học Nha
Trang.
Đại học Nha Trang là một trường đại học có quy mô và lâu đời trong hệ
thống các trường đại học ở Việt Nam. Tròn 50 năm xây dựng phát triển và
trưởng thành, trường đã góp phần đào tạo hàng nghìn sinh viên – nhân viên kỹ
thuật trên mọi miền của Tổ quốc. Là trường đại học đa ngành với nòng cốt là
đào tạo các ngành Thủy sản nhưng lãnh đạo trường luôn coi công tác nghiên
cứu, học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng và rất
cần thiết. Đặc biệt, đối với quá trình giảng dạy và học tập các môn lý luận chính
13
trị hiện nay thì việc vận dụng, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu
không thể thiếu. Bởi lẽ, thông qua việc giáo dục chính trị, giảng viên của trường
không chỉ đi sâu giải thích các quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã

hội, v.v… trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm tin của
con người để sinh viên đi đến hành động đúng đắn mà còn đem đến cho sinh
viên những hiểu biết về thế giới quan, nhân sinh quan, đường lối chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống,
hoài bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ
cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái mới Ngoài ra, giáo dục lý luận chính trị là
nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận chính
trị, hình thành và phát triển tư tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn xã hội
và đưa ra những dự báo để phát triển cho tương lai. Cho nên, nhiệm vụ của giáo
dục lý luận chính trị không những truyền bá những kiến thức phong phú của đời
sống xã hội, các quan điểm, những đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát
triển của của xã hội mà còn xác lập thế giới quan khoa học và nhân sinh quan
đúng đắn cho học sinh sinh viên.
Với tầm quan trọng của môn học như vậy, trong giai đoạn hội nhập toàn
cầu hóa hiện nay, nước ta phải đối mặt với biết bao thế lực thù địch nhằm chống
phá thành quả cách mạng của nhân dân thì “Di chúc” là tác phẩm có bàn về xây
dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, điều này giúp cho giáo dục chính trị; truyền
đạt tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay với sinh viên ngày càng thêm sức thuyết phục. Trải qua 40 năm, nhưng
những giá trị của tác phẩm vẫn được kế thừa trong giáo dục lý luận chính trị tại
Trường đại học Nha Trang.
Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ
giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức
mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư
tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới
đất nước.
Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng,
toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về

14
đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phát triển
kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống nhân dân.
Di chúc có giá trị văn hoá rất lớn. Đó là tinh thần nhân văn sâu sắc thể
hiện trong ứng xử với nhân dân, đồng chí, bè bạn. Qua lời dặn dò về việc riêng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới;
một lối sống tiết kiệm, không lãng phí.
Để thực hiện Di chúc của Người, Trường đại học Nha Trang không chỉ
thấm nhuần mà còn thực hiện tốt những lời dặn của Người để lại. Nhà trường
thực sự chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ, coi sinh viên là
lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng của trường luôn tạo mọi
điều kiện cho sinh viên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý
tưởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức cao, có sức khỏe,
sống có văn hóa, giàu lòng yêu nước và có tinh thần quốc tế chân chính.
Bên cạnh đó, Người còn căn dặn lại toàn Đảng, toàn dân “Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Trong Di
chúc Bác viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, gian khổ, có chí tiến thủ. Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Đạo đức cách
mạng là vấn đề được Bác đặc biệt quan tâm. Người coi đây là vấn đề trọng yếu
trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Tiếp đó, Bác nói về việc đào tạo đoàn viên
thanh niên vừa “hồng”, vừa “chuyên”. “Hồng” và “chuyên” được hiểu là lớp
người vừa có lý tưởng cách mạng, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hy sinh, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vừa có trình độ, trí tuệ, vừa có năng lực chuyên môn, tinh
thần trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, cách mạng và nhân
dân giao phó. Đó là sự thống nhất giữa “đức” và “tài”.
Đối với đại học Nha Trang, tất cả các môn học, các ngành khoa học đều

có ý nghĩa, tầm quan trọng lớn lao đối với quá trình xây dựng và bồi dưỡng
“đức”, “tài” của sinh viên. Tuy nhiên, do mối quan hệ đặc thù của các môn lý
luận chính trị mà nó có vai trò, ảnh hưởng đặc biệt, quan trọng nhất đến sự hình
thành nhân cách đạo đức cách mạng của sinh viên. Cho nên, để xây dựng và bồi
dưỡng đạo đức cách mạng cho sinh viên, giảng viên Trường đại học Nha Trang
15
đã sử dụng nhiều phương thức và biện pháp khác nhau, với nhiều nội dung và
hình thức khác nhau. Trong đó việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng thông qua
quá trình giảng dạy các môn học lý luận chính trị kết hợp với học tập chính trị ở
mỗi đầu năm học là biện pháp cơ bản nhất. Đây là biện pháp đóng vai trò then
chốt, quyết định nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình mẫu để học sinh sinh
viên học tập và làm theo.
Như vậy, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị
trong giáo dục người cách mạng hiện tại mà còn là lời nhắn nhủ của người đến
thế hệ trẻ hôm nay, sống không chỉ là người công dân tốt mà còn là con người
đầy nhân cách theo phẩm chất đạo đức của Bác: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng những lời di huấn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong Di chúc còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc.
Công cuộc xây dựng đất nước, kiến tạo chủ nghĩa xã hội đang đòi hỏi phải
không ngừng nâng cao giáo dục lý luận chính nói chung và làm theo Di chúc
của Người nói riêng./.
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI DẠY CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ TINH THẦN
ĐOÀN KẾT TRONG DI CHÚC CỦA NGƯỜI
Hoàng Thị Tuyết Thanh
Bộ môn NHững nguyên lý…
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại
bản Di chúc thiêng liêng có ý nghĩa lịch sử vô giá, là
sản phẩm được kết tinh từ một tấm lòng, một tâm hồn
cao đẹp. Di sản mà Người để lại trong Di chúc không

phải là của cải, tiền bạc, sự kế thừa địa vị, mà là những
lời dặn dò tâm huyết, những bài học được đúc kết từ
thực tế cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, và
từ kết quả của tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam
đã trải qua gần một nửa thế kỷ. Chính vì vậy, Di chúc
16
của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những có ý nghĩa thiêng liêng với hiện tại, mà
còn nguyên giá trị to lớn đối với tương lai.
Riêng đối với bản thân tôi, bản Di chúc của Bác cũng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nó đã ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc sống của tôi, trong ứng xử
hàng ngày cũng như trong công việc. Tôi đã may mắn được tiếp cận bản Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khá sớm, từ khi còn học phổ thông.
Khi đọc bản Di chúc, điều mà tôi cảm nhận sâu sắc nhất đó chính là
phần Bác nói về tình đoàn kết trong Đảng. Trong bản Di chúc Bác khằng định:
"Đoàn kết là một truyền thống quý báu của nhân dân ta và của Đảng ta, các
đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Mặc dù ngày đó, tôi vẫn chưa hiểu
thấu đáo tổ chức Đảng là thế nào, vì sao việc giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng lại
là một nhiệm vụ sống còn đến thế. Nhưng chính việc đề cao nhân tố đoàn kết
của Bác, đã nhen nhóm trong tôi những băn khoăn, suy nghĩ, và tìm hiểu nhiều
hơn về những lời Bác nói. Hồi đó và đến tận bây giờ, thông qua bản Di chúc,
Bác đã dạy tôi cách sống chung với những người xung quanh.
Tôi rất tâm đắc với hình ảnh so sánh của Bác, đó là giữ gìn sự đoàn kết
như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Với hình ảnh so sánh trên, theo cảm nhận
của cá nhân tôi, Bác đã lột tả hết tầm quan trọng về vai trò của đoàn kết trong tổ
chức Đảng nói chung và trong từng tập thể nói riêng như thế nào? Theo tôi,
không phải khi đã được đứng vào hàng ngũ của Đảng mới xây dựng khối đại
đoàn kết, mà ngay từ đầu mỗi cá nhân phải tự ý thức về điều đó. Trong quá trình
sống và làm việc, tôi luôn luôn cố gắng học tập, và làm theo lời dặn của Bác về
xây dựng khối đoàn kết.

Đối với gia đình tôi, sự hòa thuận của các thành viên là tiêu chí quan
trọng nhất. Mặc dù, trong gia đình mỗi thành viên đều có những đặc điểm, sở
thích, quan điểm sống khác nhau, tôi chấp nhận tất cả những điều đó và học
cách sống chung. Tôi làm điều đó cũng vì muốn giữ được tình đoàn kết trong
gia đình. Như Bác đã nói trong Di chúc, phải giữ sự đoàn kết nhất trí như giữ
gìn con ngươi của mắt mình. Làm được như vậy, là một tài sản vô cùng quý giá
đối với bản thân tôi.
Trong công việc, đối với các đồng nghiệp, tôi luôn cố gắng học hỏi và có
ý thức xây dựng khối đoàn kết trong tập thể. Là một giảng viên trẻ khi mới vào
công tác, thông qua các thầy cô trong Khoa, tôi cũng đã có những bài học thực
tế về tinh thần xây dựng khối đoàn kết theo lời dạy của Bác. Tôi đã được các
thầy cô, và Nhà trường quan tâm và giúp đỡ rất nhiều về chuyên môn, về vật
17
chất cũng như là tinh thần. Nhờ đó, tôi thấy mình tự tin hơn, và thấy mình phải
cố gắng nhiều hơn. Tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được sống trong một
tập thể như vậy, đó là một trong những bài học thực tiễn thật quý, của các thầy
cô đã cho tôi, về xây dựng khối đoàn kết theo lời Bác Hồ dạy.
Tuy nhiên, trong tập thể giữ gìn sự đoàn kết theo Bác không phải là xuê
xoa, bỏ qua cho nhau tất cả. Trong bản Di chúc Bác đã viết phải “nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình”, đó cũng là một phần việc quan trọng trong việc xây
dựng một khối đại đoàn kết. Với tôi, được nhận những lời phê bình, góp ý có
tính xây dựng là những bài học mà không dễ gì mình có được. Việc phê bình
đúng, góp ý đúng là một việc làm quan trọng trong việc xây dựng khối đoàn kết
trong tập thể.
Với tôi “phê bình và tự phê bình” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong bản Di chúc là một công việc quả là khó khăn. Về phê bình, thì phê bình
như thế nào để không gây mất đoàn kết là một điều không dễ. Còn tự phê bình
cũng là một việc không phải đơn giản. Vì thông thường, mình nhìn khuyết điểm
của người khác thì dễ, nhưng việc tự nhận khuyết điểm của mình thì quả thật là
khó. Chính vì nhận thức được điều đó, nên tôi luôn có ý thức phải rất thận trọng

khi nhìn nhận đánh giá những người xung quanh.
Là một giảng viên làm công tác giảng dạy các môn học Lý luận chính trị,
việc học và làm theo những lời dạy của Bác Hồ là điều quan trọng. Đó chính là
sự vận dụng thiết thực nhất đối với bản thân và là tấm gương cho học sinh sinh
viên noi theo./.
18
DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA
VIỆC GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA
HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Vũ Thị Bích Hạnh
Bộ môn Đường lối cách mạng…
Mở đầu bài viết xin được trích dẫn
câu nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
về Chủ tịch Hồ Chí Minh để khắc họa chân
dung một nhân cách lớn lao, cao thượng:
“Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà
không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại,
chói sáng mà không làm ai choáng ngợp,
mới gặp lần đầu đã cảm thấy thân thiết từ
lâu”. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để nói
lên nhân cách vĩ đại Hồ Chí Minh - nhà
văn hóa lỗi lạc của nhân loại thế kỷ 20.
Nhân cách đó còn được thể hiện trong bản Di chúc của Người – một văn
kiện mang giá trị tinh thần to lớn để lại cho nhân dân Việt Nam. Những giá trị
mang tính thực tiễn và lịch sử trong bản Di chúc Bác Hồ được nhiều nhà nghiên
cứu văn hóa cho là một hiện tượng văn hóa kỳ diệu và cao thượng trong thế kỷ
20 của nhân dân Việt Nam và nhân loại.
Di chúc là bản tổng kết thực tiễn kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng và
phương hướng phát triển dân tộc, là kết tinh của những giá trị lịch sử, văn hóa,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó mỗi chữ, mỗi câu, mỗi đoạn văn

được viết ra đều là kết quả của sự suy ngẫm, chắt lọc sâu sắc tư tưởng, tình cảm,
trí tuệ của Người, là một chương trình hành động trong đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng lại đất nước sau khi nước nhà thống nhất. Từng dòng nhắn
gửi ấy của Người cho nhân dân Việt Nam đươc viết ra trong lúc nước nhà đang
còn ở thời kỳ chiến tranh ác liệt nhưng cho đến nay nó vẫn sáng ngời tính thời
sự, có sức sống mãnh liệt và giá trị trường tồn.
19
Chúng ta biết rằng, tư tưởng và lý luận xuyên suốt cuộc đời hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhằm xây dựng một nước Việt Nam “Hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm
châu”. Đó là mục tiêu phấn đấu của Người và cũng là của Đảng ta, dân tộc ta
ngày nay. Cùng với tư tưởng về lực lượng cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, thông qua tổ chức cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
lĩnh vực, con đường và phương thức thực hiện đã tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ thuyết giải phóng và phát triển Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong
bài viết này chỉ đề cập đến khía cạnh “Vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng
cho đời sau và ý nghĩa của việc giảng dạy các môn khoa học lý luận chính trị
trong giai đoạn hiện nay”. Một điều tất yếu của quy luật phát triển mà chúng ta
thấy hiện nay đó chính là xu thế toàn cầu hóa và Việt Nam không thể đứng
ngoài làn sóng đó mà phải tích cực chủ động để không chỉ làm chủ được những
con sóng vừa và nhỏ mà còn phải vượt qua thách thức của những cơn sóng lớn
thì mới mong hội nhập thành công được. Và thế hệ trẻ ngày hôm nay chính là
những chủ nhân lèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua những con sóng lớn dữ
dội trên mặt trận kinh tế. Để làm được điều đó đòi hỏi họ phải có một bản lĩnh
chính trị vững vàng để có thể giữ vững đạo đức cách mạng khi tiếp cận các
nguồn tri thức du nhập từ bên ngoài. Vậy vấn đề là phải xây dựng và bồi dưỡng
thế hệ trẻ như thế nào? Làm sao để có được một thế hệ trẻ bản lĩnh và tinh
nhuệ?
1. Vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng cho đời sau
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của việc bồi dưỡng lực lượng cách

mạng cho đời sau, vậy thì hiểu như thế nào về việc xây dựng lực lượng cách
mạng, cần phải đào tạo cho họ những phẩm chất gì?
Bác Hồ đã đặt trọn niềm tin vào sức mạnh và vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong Di
chúc Người đã viết: “Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo
thanh niên thành những người kế tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa
hồng vừa chuyên”. Phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và rất cần thiết.
Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Bác cũng dùng mệnh đề đó để nói về vai trò quan trọng của yếu tố
con người trong xây dựng và phát triển xã hội. Người luôn trăn trở về sự nghiệp
“trồng người”. Người đòi hỏi “tự do học tập” và “thực hành giáo dục cho toàn
dân”, đặc biệt đối với thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
20
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em”.
Từ Việt Nam đi ra thế giới, hòa nhập vào đại dương trí tuệ của thời đại,
Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa của nhân loại, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, từng bước xây dựng
nền giáo dục mới Việt Nam.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã
xóa đi một nền giáo dục đồi bại, xảo trá của thực dân Pháp, chỉ dạy cho nhân
dân ta biết sùng bái kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc
không phải Tổ quốc của mình, dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc
dòng giống mình…đó là một nền giáo dục nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.
Giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh sẽ tạo ra tính liên tục của cách
mạng. Sự thành công của các nước, không có yếu tố nào quan trọng hơn giáo
dục. Giáo dục sẽ tạo ra những nguyên liệu không có sẵn trong tự nhiên như kỹ
sư, chuyên gia, bác học…Giáo dục tạo ra nhân cách và từng bước hoàn thiện

con người. Đối với đời sống tinh thần của mỗi con người thì tư tưởng và tình
cảm là chủ yếu nhất. Những tư tưởng và tình cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời
sống tinh thần cá nhân và cộng đồng. Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả mọi người
không trừ một ai, không trừ một cấp nào đều phải thường xuyên trau dồi đạo
đức cách mạng. Đối với thế hệ trẻ, trong quá trình giáo dục phải xây đắp tư
tưởng và tình cảm cao quý đó chính là nhiệm vụ thường xuyên của giáo dục.
Giáo dục là phải làm cho mỗi con người và mọi người có lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có tinh thần vì nước quên mình, đặt việc chung lên trên,
lên trước công việc riêng. Văn hóa nói chung và văn hóa giáo dục nói riêng phải
đi sâu vào tâm lý quốc dân để vun đắp những tình cảm lớn như yêu nước
thương dân, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu cái chân, thiện, mỹ, yêu tính trung
thực…Những tình cảm trong sáng đó chính là mạch nguồn dẫn tới những tư
tưởng cao đẹp. Không có cuộc cách mạng nào có thể thắng lợi nếu nó không
chuẩn bị, đào tạo được một lớp chiến sĩ tiên phong mang trong mình lý tưởng
và tình cảm cách mạng trong sáng, có đầy đủ cả đạo đức và tài năng, dẫn đắt
quần chúng thay chế độ cũ, xây dựng xã hội mới Trong thời kỳ chiến tranh ác
liệt, chính triết lý giáo dục ấy là vũ khí sắc bén để nuôi dưỡng lòng tin của mỗi
con người và giúp một dân tộc nhỏ bé bị đọa đày trong nghèo đói và lạc hậu lại,
dưới sự lãnh đạo của một Đảng còn non trẻ, chỉ với vũ khí thô sơ nhưng lại rất
dũng cảm đứng lên đập tan guồng máy thống trị của một đế quốc hùng mạnh
21
được xây dựng trong hơn 80 năm, đồng thời kết liễu luôn chế độ phong kiến mở
ra một thời đại mới - thời đại dân chủ cộng hòa.
2. Ý nghĩa của việc học tập các môn Lý luận chính trị trong giai
đoạn hiện nay
Với một tầm nhìn thời đại, Hồ Chí Minh – người sáng lập nền giáo dục
mới, nền giáo dục cách mạng Việt Nam – đã chỉ ra những mục tiêu của giáo dục
là: “đào tạo các em nên những công dân hữu ích cho nước Việt Nam” làm “phát
triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và

nhân loại. Đồng thời, “học để sữa chữa tư tưởng”. “Học để tu dưỡng đạo đức
cách mạng”. “Học để tin tưởng”, v.v… Những nội dung nêu trên không chỉ có ý
nghĩa đối với dân tộc, mà còn hoàn toàn phù hợp với những nguyên lý giáo dục
trong thế kỷ XXI mà UNESCO đã nêu ra. Theo Người, những mục tiêu đó của
giáo dục có mối quan hệ biện chứng với nhau, có phẩm chất chính trị và chuyên
môn mà thiếu phẩm chất đạo đức với ý nghĩa là gốc thì nguồn cũng vô dụng.
Tuy nhiên, nếu không có trình độ học vấn thì không học tập được kỹ thuật,
không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp thời đại mà cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, và như vậy ngày càng
tụt hậu xa so với các nước. Nhưng điều đặc biệt là phải học chính trị. Bởi vì nếu
chỉ học văn hóa, kỹ thuật, chuyên môn mà không có chính trị thì như người
nhắm mắt mà đi. Giáo dục chính trị là nền tảng, trên cơ sở đó nâng cao chất
lượng văn hóa và chuyên môn. Chính trị nói ở đây là chủ nghĩa Mác – Lênin và
đường lối quan điểm của Đảng. Học chính trị không phải để thuộc lầu lầu sách
Mác – Lênin, không phải học một cách giáo điều, mà là “học cái tinh thần xử lý
mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình”.
Nhìn lại nền giáo dục cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy rằng lúc nào và
ở đâu nghiên cứu và quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thì ở
đó đem lại những thành tựu và niềm tự hào lớn cho nền giáo dục Việt Nam.
Hiện nay nền giáo dục nước ta đang ở mức báo động, hơn thế nữa là “sự suy
thoái”. Nghiên cứu 12 nước trong khu vực, dùng thang điểm 10, Việt Nam quy
tròn được 3,7 điểm, xếp thứ 11/12 là không thể chấp nhận được. Lấy tinh thần
Hồ Chí Minh để xử lý mọi việc, một vấn đề đặt ra là phải tìm đúng nguyên nhân
của căn bệnh. Ngày nay chúng ta đang bị chi phối quá nhiều bởi mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường. Một thực trạng mà chúng ta phải đối diện hiện nay
đó là một số nơi coi nhẹ việc giảng dạy các môn khoa học Lý luận chính trị, quá
đề cao các môn khoa học kỹ thuật, tự nhiên, kinh tế, v.v…là những môn học có
tính ứng dụng mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường, trong thời kỳ hội nhập. Ở
22
đây chúng ta không thể phủ nhận vai trò cũng như tác dụng của các môn khoa

học nói trên mà vấn đề đặt ra là phải có cái nhìn đúng đắn về vai trò cũng như
tầm quan trọng của các môn khoa học Lý luận chính trị, tránh những cái nhìn
lệch lạc phiến diện. Bởi Người đã nói Giáo dục chính trị là nền tảng, trên cơ sở
đó nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn.
Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, sự tác động mạnh
mẽ của mặt trái cơ chế thị trường, đã và đang có một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, phai nhạt lý tưởng, mất
cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về lối
sống, quan liêu, xa rời quần chúng. Những hệ lụy đó, suy cho cùng là kết quả
của việc xem nhẹ việc giáo dục và rèn luyện tư tưởng đạo đức cách mạng trong
giáo dục, xem nhẹ công tác tư tưởng. Ngày nay gần như phần lớn thế hệ trẻ
không còn mặn mà với các môn khoa học Mác – Lênin, xa rời lý tưởng, sống
thực dụng và hưởng thụ đó là một thực trạng đáng buồn thể hiện một sự thất bại
trong công tác giáo dục ở nước ta, và như vậy liệu họ có thể là những người
thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa “vừa hồng vừa chuyên” như Bác Hồ hằng
mong muốn.
Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới đây có nhiều thời cơ, thuận lợi,
đồng thời cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Trên thế giới và khu
vực, tình hình còn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh; hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt
động can thiệp lật đổ, chủ nghĩa khủng bố…đang là mối đe dọa với nhiều quốc
gia, dân tộc. Do đó, để có thể thực hiện được quá trình CNH, HĐH, chủ động
hội nhập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vượt qua mọi thách thức thì
thế hệ trẻ những người chủ tương lai của đất nước phải là những con người cách
mạng thực sự, vững vàng về tư tưởng, sáng tạo trong hành động, có trình độ
trong chuyên môn. Hồ Chí Minh đã nói: “muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, những con người của xã hội văn
minh và giàu tính nhân đạo, nhân văn và vì vậy không thể có những con người
xã hội chủ nghĩa mà không nắm vững được chủ nghĩa Mác – Lê nin, không nắm

vững quan điểm đường lối lãnh đạo của Đảng.
Để xây dựng một nền giáo dục phù hợp với khả năng và yêu cầu của nền
kinh tế, phù hợp với định hướng chính trị của dân tộc, đòi hòi Đảng và Nhà
nước cần phải có những chính sách phù hợp. Mục tiêu của Đảng ta là thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội đó phải do
chính sức lao động của nhân dân xây dựng nên. Việc tạo ra nguồn lực để xây
23
dựng xã hội phải huy động lực của nhiều “binh chủng” trong đó ngành giáo dục
đóng vai trò then chốt, là khâu đột phá để tiến lên hiện đại. Ngày nay, Đảng và
Nhà nước ta đã xem vấn đề giáo dục và đào tạo là quốc sách hang đầu, vì vậy
tôi thiết nghĩ chú trọng giáo dục đúng đắn công tác chính trị tư tưởng cho thế hệ
trẻ như lời Bác căn dặn trong Di chúc sẽ là một trong những tiền đề quan trọng
có tính hướng dẫn đúng đắn cho thế hệ trẻ trong việc thực hiện các hoạt động
chuyên môn của mình một cách thành công hơn, hiệu quả hơn và như vậy sẽ
mang lại hiệu quả cho xã hội.
Đã 40 năm Bác đi xa nhưng với dân tộc Việt Nam không lúc nào và
không ở đâu thiếu vắng hình ảnh Bác. Người đã để lại “muôn vàn tình thân
yêu” cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng
trong cả nước. Người suốt đời “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là Tổ
quốc ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Để hiểu rõ việc thực hiện triệt để những tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí
Minh không phải là một vấn đề đơn giản mà cần phải hiểu rằng đó là một quá
trình, với các mức độ khác nhau. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn,
toàn diện hơn những tư tưởng quan trọng trong Di chúc nói riêng và trong tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung để triệt để vận dụng sáng tạo và phát triển trong
thời kỳ mới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số chuyên đề về tư tưỏng Hồ Chí Minh, Đại học quốc gia Hà Nội,
Trung tâm bồi dưỡng giảng viên Lý luận Chính trị, TS. Đinh Xuân Lý.

2. Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, PGS.TS. Bùi Đình Phong.
3. Một số bài nói và viết của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia.
4. Toàn văn Di chúc Hồ Chí Minh, Nxb trẻ.
5. Các nguồn tài liệu trên internet.
24
GIÁ TRỊ DI CHÚC HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC
GIẢNG DẠY TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Tân
Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết
những giá trị tư tưởng lớn lao và định hướng đúng đắn
con đường cách mạng Việt Nam phải đi và phải đến.
Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã được thể hiện thành
những nội dung cụ thể trong hệ thống tư tưởng của
Người đến nay vẫn con nguyên giá trị giáo dục, định
hướng cho thế hệ mai sau phấn đấu vì mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng,
sâu sắc với những nội dung tư tưởng rất cô đọng như về Đảng, về thanh niên, về
nhân dân cũng như về tinh thần quốc tế trong sáng của người Cộng sản.
Mở đầu Di chúc, Hồ Chí Minh “nói về Đảng”, đó không phải là một sự
ngẫu nhiên, mà theo Người: Đảng ta là đảng cầm quyền. Điều đó, Người nhằm
khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội Việt
Nam, nhiệm vụ của Đảng rất vẻ vang nhưng rất nặng nề. Đảng ta từ khi ra đời
đến nay nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm
quyền không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Chính
vì Hồ Chí Minh nhận thấy được vai trò của Đảng trong tiến trình cách mạng nên

Người đã đặc biệt nhấn mạnh trong bản Di chúc của mình trước khi “đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”
(1)
. Để có được những
thắng lợi vẻ vang trong lịch sử cũng như trên chặng đường tiếp theo thì trong
Đảng phải đoàn kết chặt chẽ, “là đảng đạo đức, là đảng văn minh”, chống tư
tưởng cơ hội, thực dụng… Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan
liêu, làm trong sạch đội ngũ đảng viên”
(2)
. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc sinh hoạt đảng và phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng. Đảng là văn minh, là sự khẳng định yêu cầu về trí tuệ, Đảng phải thường
25

×