Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Giáo trình kinh tế tài nguyên môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.66 KB, 153 trang )


1





KINH TẾ TÀI
NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG




TS LÊ NGỌC UYỂN- TS ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH
THS HOÀNG ĐINH THẢO VY









2
MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu
Giới thiệu môn học


Kinh tế tài nguyên và môi trường 3
Phần I: Khái quát về kinh tế tài nguyên và môi trường.
Bài 1: Tài nguyên môi trường
và phát triển kinh tế 8
Bài 2: Nguyên nhân gây suy thoái môi trường 32
Phần II: Các phương pháp đánh giá giá trị
tài nguyên môi trường
Bài 3: Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích 48
Bài 4: Các phương pháp khác 59
Phần III: Các công cụ và chính sách quản lý tài nguyên và môi trường.
Bài 5: Công cụ mệnh lệnh – hành chính
và tuyên truyền, giáo dục 81
Bài 6: Các công cụ kinh tế – tài chính 88
Phần IV: Qu
ản lí tài nguyên thiên nhiên và chất thải.
Bài 7: Quản lí tài nguyên thiên nhiên 115
Bài 8: Quản lí chất thải 126
Phần kết
Bài 9: Các vấn đề môi trường toàn cầu 134
Tài liệu tham khảo 152




3
PHẦN MỞ ĐẦU

GIỚI THIỆU MÔN HỌC
KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG


Chào mừng các bạn sinh viên đến với chương trình đào tạo
từ xa của Đại Học Mở TP. Hồ Chí Minh.

Nhóm biên soạn hi vọng cuốn sách “Hướng dẫn học tập môn
Kinh tế tài nguyên và môi trường” này giúp bạn tự học dễ dàng và đạt
được kết quả tốt trong kỳ thi hết môn.

KHÁI QUÁT VỀ NỘI DUNG MÔN HỌC
Chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được quan tâm nhiều như
hiệ
n nay. Điều đó là do tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác
quá mức và môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Môn Kinh tế tài nguyên
và môi trường chỉ mới xuất hiện và phát triển trong những năm 60 của
thế kỷ 20 do nhu cầu bức bách của thực tiễn. Tuy nhiên những khái
niệm căn bản làm nền tảng cho Kinh tế tài nguyên và môi trường đã
có từ thế kỷ thứ 18. Kinh tế tài nguyên và môi trường nghiên cứu các
vấn đề tài nguyên và môi trường với viễn cảnh và nh
ững ý tưởng phân
tích kinh tế từ cả hai giác độ kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô nhưng từ
kinh tế vĩ mô nhiều hơn.
Kinh tế tài nguyên và môi trường sử dụng tổng hợp các phương
pháp và công cụ nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên và

4
khoa học xã hội khác nhau như toán, lý, hóa, địa lý, sinh vật, khí
tượng, thiên văn, kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô.

MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Môn học này cung cấp những kiến thức nền tảng để sau khi học

xong các bạn sẽ có khả năng:
 Hiểu biết một cách khái quát và cơ bản các khái niệm về kinh
tế tài nguyên và môi trường; mối liên hệ giữa các khái niệm; môi
trường xung quanh chúng ta.
 Biết cách thức người ta ra quyế
t định như thế nào? Tại sao quá
trình ra quyết định gây suy thoái môi trường?
 Hiểu rõ các nguyên nhân làm cho tài nguyên ngày càng cạn
kiệt và môi trường ngày càng suy thoái. Sự suy thoái môi trường dẫn
đến những hậu quả gì?
 Đánh giá tầm quan trọng về mặt kinh tế của sự suy thoái môi
trường.
 Biết được các thể chế, chính sách kinh tế được thiết kế ra sao
để tránh tác động xấu đối với môi trường, các biện pháp khả thi để
ngăn chặn, làm chậm lại hay chấm dứt sự suy thoái môi trường một
cách hiệu quả nhất.

YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC
Môn Kinh tế tài nguyên và môi trường là một học phần 45 tiết (3
tín chỉ), gồm 40 tiết lý thuyết và 5 tiết bài tập. Để học tốt môn này bạn
cần trang bị trước những kiến thức về Kinh tế học bao gồm Kinh tế vĩ
mô và Kinh tế vi mô.


5
CẤU TRÚC MÔN HỌC
Ngoài phần mở đầu giới thiệu về môn học, nội dung quyển sách
được thiết kế thành 4 phần với 9 bài, mỗi bài ứng với một buổi học 5
tiết, theo trình tự như sau:
Phần I: Khái quát về kinh tế tài nguyên và môi trường

Bài 1: Tài nguyên môi trường và phát triển kinh tế.
Bài 2: Nguyên nhân gây suy thoái môi trường.
Phần II: Các phương pháp đánh giá giá trị tài nguyên môi trường
Bài 3: Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích
Bài 4: Các phương pháp khác
Phần III: Các công c
ụ và chính sách quản lý tài nguyên và môi
trường
Bài 5: Công cụ mệnh lệnh – hành chính và tuyên truyền, giáo dục.
Bài 6: Các công cụ kinh tế – tài chính
Phần IV: Quản lí tài nguyên thiên nhiên và chất thải
Bài 7: Quản lí tài nguyên thiên nhiên.
Bài 8: Quản lí chất thải.
Phần kết
Bài 9: Các vấn đề môi trường toàn cầu

NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN NÊN THAM KHẢO
Môn học này có nhiều sách của tác giả trong và ngoài nước, các
bạn có thể tham khảo bất kì cuốn sách nào có tựa đề “Kinh tế
tài
nguyên và môi trường” hoặc “ Kinh tế môi trường”. Các bạn cũng có
thể đọc các cuốn sách bằng tiếng Anh có tựa đề “Environment
Economics” hay “The Economics of Natural Resourse Use”. Ngoài ra,
các bạn có thể tham khảo trên các trang web:

6
– Trang web của Ngân hàng thế giới World Bank
(www.worldbank.com)
– Trang web của Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc
(www.unep.org)

– Trang web của Chương trình môi trường Đông Nam Á
(www.eepsea.org)
Tuy nhiên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Kinh tế Tài Nguyên
và Môi Trường này sẽ giúp các bạn dễ dàng hơn rất nhiều khi mới bắt
đầu tìm hiểu về Kinh tế tài nguyên và môi trường vì là tài liệu được
biên soạn dành cho những người tự học.

CÁCH HỌC VÀ DÙNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cuố
n “ Tài liệu hướng dẫn học môn Kinh tế tài nguyên và môi
trường” có nội dung được chia thành 9 bài, mỗi bài có thời lượng 5
tiết. Trong mỗi bài đều có phần giới thiệu mục tiêu, yêu cầu của bài
nhằm giúp bạn học tập dễ dàng và hiệu quả hơn. Phần câu hỏi và bài
tập có hướng dẫn trả lời giúp bạn tự xác định mức độ tiếp thu bài học
của mình.
Các bạn cũng nên vào Internet để tìm thêm tài liệu tham kh
ảo
nhằm cập nhật thông tin thường xuyên trong lĩnh vực kinh tế tài
nguyên và môi trường. Những thông tin này giúp bạn hiểu sâu hơn nội
dung môn học qua các sự kiện diễn ra trong thực tế cuộc sống. Nếu
trong quá trình tự học các bạn gặp những vấn đề không thể tự giải đáp
được, các bạn nên vào trang Web của trường (www.ou.edu.vn) đến
mục e-learning vào “Diễn đàn tư vấn học tập của Khoa Kinh tế –
Quản trị kinh doanh” để nhờ giảng viên giải đáp hoặc trao đổi với các
bạn khác. Trong trường hợp không có điều kiện vào mạng Internet,

7
các bạn hãy chuẩn bị những câu hỏi để trao đổi với giảng viên trong
các buổi hướng dẫn học tập do Trung tâm đào tạo từ xa tổ chức.


Chắc chắn các bạn sẽ thành công như mong đợi nếu các bạn
tổ chức việc học của mình đúng theo hướng dẫn.

Nhóm biên soạn tài liệu hi vọng nhận được những góp ý của các
bạn để lần tái bản sau quyể
n sách được hoàn thiện hơn. Mọi ý kiến xin
vui lòng gửi về địa chỉ hoặc Tổ học liệu Đại Học
Mở TP. Hồ Chí Minh, P.005, 97 Võ Văn Tần, Quận 3, TP. Hồ Chí
Minh.
Chân thành cám ơn các bạn sinh viên và quý đồng nghiệp đã đọc
quyển sách của chúng tôi.
Các tác giả

8
Phần I

KHÁI QUÁT VỀ
KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

BÀI 1



Khoa học Kinh tế tài nguyên và môi trường mới xuất hiện trong
những năm 60 của thế kỷ 20, khi mà con người nhận thấy nguy cơ tài
nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm do phát triển
kinh tế. Bài đầu tiên của môn học này sẽ giới thiệu với các bạn một số
khái niệm căn bản cũng như những vấn đề mà khoa học Kinh tế tài
nguyên và môi trường nghiên cứu giải quyế
t.


MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, các bạn phải:
 Biết được môn học nghiên cứu vấn đề gì.
 Hiểu được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân
số và môi trường.
 Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế bền
vững.


9
NỘI DUNG CHÍNH
Môi trường là gì?
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm môi trường, trong đó
một số ý kiến đáng chú ý như sau:
Theo Albert Einstein (1870 – 1955 – Nobel Kinh tế năm 1921)
thì môi trường là tất cả những gì ngoài tôi ra.
Theo Masn và Langenhim (1957), môi trường là tổng hợp các
yếu tố tồn tại chung quanh sinh vật và ảnh hưởng đến sinh vật. Ví dụ:
bông hoa mọc trong rừng chịu ảnh hưởng của những điều kiện nhất
định nh
ư nhiệt độ, ánh sáng, không khí, đất, khoáng chất, cây cối bên
cạnh, con thú, gió…
Theo Joe Whitenney (1993), môi trường là tất cả những gì ngoài
cơ thể có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến sự tồn tại của con
người như đất, nước, không khí, ánh sáng mặt trời, rừng, biển, tầng
ozon, đa dạng sinh học…
Môi trường là tổng hợp các điều kiện và ảnh hưởng ngoại cảnh
tác động lên sự sống và s
ự phát triển của cơ thể sống. Sự sống được

biểu hiện thông qua các quá trình trao đổi chất, năng lượng, thông tin,
quá trình biến dị và di truyền, quá trình thích nghi, phát triển và hủy
diệt.
Một cách khái quát nhất môi trường tự nhiên là một tập hợp của
những nhóm yếu tố thiên nhiên gồm: một không gian với những yếu
tố vật chất biến động trong không gian đó, một hay nhiều nguồn năng
l
ượng khống chế các yếu tố này và thời gian. Các yếu tố biến động
trong không gian và thời gian đó là: đất, nước, không khí, sinh vật, địa
chất, khí hậu.
Môi trường bao gồm 3 quyển là:

10
– Khí quyển: là lớp không khí bao bọc trái đất, được chia ra
nhiều tầng theo chiều cao và theo sự chênh lệch nhiệt độ. Khí quyển
bảo vệ sinh vật khỏi bị ảnh hưởng bởi các tia bức xạ mặt trời, duy trì
cân bằng nhiệt trên trái đất, vận chuyển nước trong chu trình thủy văn
toàn cầu và cung cấp oxy cho sự sống, CO
2
cho quá trình quang hợp,
dự trữ Nitơ.
– Thủy quyển là diện tích bề mặt trái đất gồm toàn bộ đại dương,
biển, sông, suối, ao, hồ.
– Địa quyển: là lớp vỏ đất đá ngoài cùng cứng nhất của trái đất.
Trong mỗi quyển đó có sinh quyển là phần môi trường có sự
sống tồn tại sâu tới 100m trong địa quyển (có những vi khuẩn có thể
sống ở độ sâu 60m trong lòng đấ
t); toàn bộ thủy quyển tới đáy biển
sâu trên 8 km (có nhiều loài sinh vật sống dưới đáy đại dương); lên
cao tới 20 km trong khí quyển (ví dụ: chim chỉ có thể sống trong

khoảng từ 0 – 12 km).
Ba quyển có liên hệ chặt chẽ với nhau, khi một quyển thay đổi
các quyển khác có thể sẽ thay đổi theo (ví dụ: khi tỉ lệ CO
2
trong
không khí tăng lên, khí hậu nóng lên làm băng tan khiến thủy quyển
thay đổi).

Kinh tế tài nguyên và môi trường nghiên cứu vấn đề gì?
Kinh tế tài nguyên và môi trường là một môn khoa học nghiên
cứu vận dụng các quy luật phát triển kinh tế vào việc sử dụng tiết kiệm
và hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường khỏi sự suy thoái.
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng nền kinh tế là một hệ thống
gồ
m những tổ chức và các hoạt động nhằm phân bố sao cho hiệu quả
các tài nguyên khan hiếm để thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của con
người. Các mô hình kinh tế cổ điển không nói gì đến tương quan kinh

11
tế – môi trường. Nền kinh tế được coi như là một hệ thống khép kín
(xem hình 1.1).
Mô hình kinh tế cổ điển được xây dựng dựa trên các giả thuyết
sau:
a) Không có chính quyền.
b) Tất cả thu nhập được chi tiêu.
c) Không có mậu dịch quốc tế.
d) Hệ thống kín tự túc.











Hình 1.1: Nền kinh tế khép kín

Trong thực tế, nền kinh tế là một hệ thống mở
và vận động theo
đường vòng tròn. Để hoạt động (tức là để cung cấp hàng hóa, dịch vụ
hay của cải cho con người), nền kinh tế phải khai thác tài nguyên
(nguyên liệu và nhiên liệu) từ môi trường, chế biến những tài nguyên
này (biến chúng thành những sản phẩm hoàn chỉnh để tiêu thụ) và thải
trở lại môi trường chung quanh một khối lượng lớn những tài nguyên

CÁC HỘ GIA ĐÌNH
(sở hữu vốn, sức lao
động, quyền sử dụng
đất đai)
CÁC DOANH NGHIỆP
(thuê lao động, thuê đất,
vay vốn)
nhận lương, tiền lời
bán sức lao
động, cho vay
vốn, cho thuê
đất
m

ua
h
à
n
g
h

tr


t
i

n
Thị trường
hàng hoá
Bán hàng hóa
Thu ti

n
Thị trường
yếu tố sản xuất

12
bị hao mòn hoặc/và đã qua quá trình biến đổi hóa học (thành những
chất thải).

Quan hệ giữa kinh tế và môi trường
Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường được thể hiện dưới dạng
mô hình cân bằng vật chất, dựa trên cơ sở nhiệt động lực học.

Quy luật nhiệt động lực học thứ I: Hoạt động kinh tế là một quá
trình chuyển
đổi vật chất và năng lượng.
Chúng ta không thể hủy hoại vật chất và năng lượng theo nghĩa
tuyệt đối, nên chúng sẽ tái xuất hiện như chất thải và cuối cùng được
thải ra môi trường. Nói cách khác tất cả các hoạt động khai thác, sản
xuất hay tiêu thụ tài nguyên cuối cùng đều đưa đến những sản phẩm
phế thải bằng với lượng tài nguyên đưa vào các hoạt động này khi tính
theo lượ
ng vật chất và năng lượng.
Quy luật nhiệt động lực học thứ II: Không thể nào có khả năng
thu hồi (tái sinh) 100% những sản phẩm phế thải để đưa vào lại chu
trình tài nguyên.
Mô hình này cho thấy nền kinh tế là một hệ thống chế biến
nguyên liệu và chuyển đổi thành sản phẩm. Các nguyên liệu hữu dụng
(gồm các tài nguyên không thể tái tạo như khoáng sản, dầu và những
tài nguyên có thể tái t
ạo như lâm sản, thủy hải sản, cây trái…), được
hút vào hệ thống kinh tế – đó là những đầu vào chủ yếu của khu vực
sản xuất. Sau đó chúng trải qua một loạt những thay đổi về năng
lượng và tính hữu dụng của chúng tạo thành những sản phẩm và dịch
vụ. Hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra là hiện thân của một phần nguồn
vật chất và nhiên li
ệu này sau đó đến tay người tiêu dùng.
Cuối cùng, sau một thời gian ở đầu ra của hệ thống chế biến này,
những xuất lượng không phải là sản phẩm sẽ được tái sinh lại một

13
phần với những chất vô ích còn lại (chất thải) sẽ được thải trở lại môi
trường (bầu khí quyển, đất, nước và không khí…) ở nhiều chặng khác

nhau của hệ thống chế biến.
Các chất thải gồm nhiều loại như dioxit lưu huỳnh, hợp chất hữu
cơ bay hơi, dung môi độc hại, phân động vật, thuốc trừ sâu, các loại
bụi lơ lử
ng, vật liệu xây dựng thải ra, kim loại nặng… Năng lượng
thải ra dưới dạng nhiệt và tiếng ồn, chất phóng xạ… Người tiêu thụ
cũng thải vào môi trường một lượng chất thải khổng lồ qua hệ thống
cống rãnh và thải khí từ các nhà máy hay ô tô vào không khí.
















(1), (2), (3), (4), (5): các dòng tái sinh
thải chất thải không tái chế được ra môi trường
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
(TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN)
NHỮNG HOẠT ĐỘNG KHAI
THÁC, THU HOẠCH

NHỮNG HỌAT ĐỘNG CHẾ
BIẾN VÀ CHỀ TẠO CĂN BẢN
(nghiền gỗ, nấu quặng, sản xuất
vật liệu căn bản )
HOẠT ĐỘNG CHẾ TẠO
BIẾN ĐỔI
PHÂN PHỐI (sỉ và lẻ)
TIÊU THỤ (sỉ và lẻ)

BẦU KHÍ
QUYỂN


ĐẤT
NƯỚC
KHÔNG KHÍ


NƠI CHỨA
CHẤT THẢI







(1)
(5)
(2)

(3)
(4)

14

Hình 1.2: Mô hình cân bằng vật chất
Có thể trình bày mô hình cân bằng vật chất cho thấy sự thể hiện
hai quy luật nhiệt động lực học như hình 1.3.


Hình 1.3: Mô hình cân bằng vật chất

Định luật nhiệt động lực học thứ 1 cho ta thấy:
M = Rp + Rc = G + Rp – Rp’ – Rc’
Nghĩa là số lượng nguyên liệu (M) bằng sản phẩm sản xuất ra
(G) cộng với chất thải trong quá trình sản xuất Rp trừ đi ph
ần chất thải
được tái tuần hoàn của người sản xuất Rp’ và của người tiêu thụ Rc’.
Có 3 cách chủ yếu để giảm M và do đó giảm chất thải vào môi
trường tự nhiên, đó là:
a) Giảm G
: tức là giảm số lượng hàng hóa và dịch vụ do nền kinh
tế sản xuất ra. Muốn thế cần phải giảm tốc độ tăng dân số. Dân số
không tăng hoặc tăng chậm có thể làm cho việc kiểm soát tác động
môi trường dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ngay cả khi dân số không tăng,
khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu vẫn có thể tăng (ví dụ: ở các nước
Sản xuất
Tiêu thụ
Hàng hóa (G)
Nguyên liệu M lấy từ môi trường

Tái tuần hoàn (Rc’)
Thải ra môi trường
Ch

t thải
(
Rc
)
Tái tuần hoàn Rp’
Chất thải (Rp)
Thải ra môi trường

15
phát triển có công nghệ kiểm soát ô nhiễm nên lượng khí thải do mỗi
ô tô thải ra đã giảm đáng kể nhưng do số lượng ô tô tăng nên tổng ô
nhiễm tăng lên); hơn nữa tác động môi trường có thể lâu dài và tích
lũy nên ngay cả khi dân số không tăng, môi trường vẫn có thể bị suy
thoái dần.
b) Giảm Rp
: có nghĩa là thay đổi tổng lượng chất thải sinh ra
trong quá trình sản xuất. Cách thứ 1 là nghiên cứu, chế tạo và áp dụng
các công nghệ và thiết bị mới ít gây ô nhiễm. Cách thứ 2 là thay đổi
thành phần bên trong của sản phẩm (G). Sản phẩm G bao gồm một số
lớn các hàng hóa và dịch vụ khác nhau, mỗi loại có lượng chất thải
khác nhau. Do đó, ta có thể thay đổi theo hướng giảm từ tỉ lệ chất thải
cao sang t
ỉ lệ chất thải thấp trong khi vẫn giữ nguyên tổng số.
c) Tăng (Rp’+ Rc’): khả năng thứ ba là tăng tái tuần hoàn để
giảm bớt lượng chất thải. Tuy nhiên, nguồn vật chất đã chuyển hóa
thành năng lượng thì không thể phục hồi được. Ngoài ra bản thân quá

trình tái tuần hoàn cũng có thể tạo nên chất thải.

Bản chất đa chức năng của tài nguyên môi trường
Mô hình cân bằng vật chất cho chúng ta thấy rõ môi trường có 3
chức năng và dịch vụ cơ b
ản có giá trị về mặt kinh tế:
– Cung cấp tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo và không tái tạo:
các tài nguyên này cung cấp nơi ở, thức ăn, vật liệu làm công cụ cho
sản xuất sản phẩm tiêu dùng.
– Tạo ra không gian sống, phục vụ con người với những cảnh
quan thiên nhiên để thưởng thức về mặt thẩm mỹ, vui chơi giải trí,
đem lại niềm vui tinh thần.
– Hấp thụ chất thải.

16
Ba chức năng này được coi là ba thành phần của một chức năng
tổng quát của môi trường đó là: Một hệ thống hỗ trợ sự sống
.
Các chức năng này đều có giá trị kinh tế nhưng trên thực tế, do
không nhận ra các giá trị này nên các hàng hóa và dịch vụ môi trường
thường không có giá cả thị trường dẫn đến việc chúng ta thường lạm
dụng tài nguyên môi trường. Các tài nguyên môi trường ngày càng
khan hiếm, do đó cần tiến hành phân tích kinh tế, lập những chiến
lược để giảm bớt hậu quả của quá trình đó. Cần có sự cân bằng giữa
quyền lợ
i của những người sử dụng trực tiếp (như một nguồn nguyên
liệu hay bãi đổ chất thải) và những người sử dụng gián tiếp (thưởng
thức cảnh quan) hay giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai.
Lí thuyết kinh tế chứng minh rằng với một số giả định nhất định
khi không có các ngoại tác, cơ chế thị trường có khả năng th

ực hiện
phân phối tài nguyên một cách có hiệu quả. Khi xuất hiện các ngoại
tác hay hàng công cộng cần được phân phối, thị trường sẽ bị thất bại.


17
Ngoại tác và hàng hóa công cộng với vấn đề môi trường
Ngoại tác là những hoạt động gây tác động phụ không chủ ý của
sản xuất hay tiêu thụ gây ảnh hưởng có lợi hay có hại cho người thứ
ba mà những người này không phải trả tiền hoặc không được trả tiền
vì hoạt động đó.
Ví dụ: Một nhà máy luyện thép thải chất thải xuống sông làm ô
nhiễm nước hay nhà máy xi măng thải khí thải làm ô nhi
ễm không
khí. Đây là những ngoại tác gây ảnh hưởng có hại cho người khác.
Ngoại tác tồn tại khi:
– Cái giá phải trả hoặc cái lợi của tư nhân không bằng cái giá
phải trả hoặc cái lợi của xã hội.
– Phúc lợi của người tiêu dùng hay người sản xuất bị ảnh hưởng
bởi những người tiêu dùng hay những người sản xuất khác.
– Các chi phí, các lợi ích không được xem xét đầy đủ bởi những
ngườ
i sản xuất hay những người tiêu dùng khi họ tiến hành các hoạt
động sản xuất hay tiêu dùng.

Chi phí xã hội = Chi phí tư nhân + chi phí ngoại tác

Chi phí tư nhân
: là những chi phí được chi trả trực tiếp bởi người
tiêu dùng trong các hoạt động tiêu dùng của họ hay bởi người sản xuất

trong các hoạt động sản xuất của họ.
Giá thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ là những ví dụ rõ ràng
về chi phí tư nhân vì các chi phí này phải được trả để hưởng thụ hàng
hóa và dịch vụ. Tương tự, doanh nghiệp phải trả tiền nguyên liệu, lao
động, nhiên liệ
u để sản xuất ra sản phẩm.
Chi phí ngoại tác: là chi phí được chi trả bởi người tiêu dùng hay
người sản xuất không phải là những người tiến hành các hoạt động đó.

18
Ví dụ: một người lái xe chạy từ TP. Hồ Chí Minh đến Bình
Dương thì chỉ phải tốn tiền xăng, còn những người khác thì phải trả
những chi phí do anh ta làm ô nhiễm không khí, tạo ra tiếng ồn, góp
phần làm tắt nghẽn giao thông… Đây là những chi phí ngoại tác đối
với người sử dụng xe theo nghĩa là họ không phải trả những chi phí
này.

Lợi ích xã hội = lợi ích tư nhân + lợi ích ngoại tác

Lợi ích t
ư nhân: lợi ích thu được một cách trực tiếp của người
tiêu dùng từ hoạt động tiêu dùng của họ, hay lợi ích thu được một
cách trực tiếp của người sản xuất từ hoạt động sản xuất của họ.
Ví dụ: tất cả các hoạt động tiêu dùng được thực hiện vì tạo ra các
lợi ích tư nhân: người tiêu dùng được thỏa mãn, người sản xuất thu
được lợi nhuậ
n.
Lợi ích ngoại tác
: là lợi ích của những người tiêu dùng hay
những người sản xuất không phải là những người tiến hành các hoạt

động đó thu được.
Ví dụ: một nhà máy năng lượng chuyển từ việc sử dụng nguồn
nhiên liệu là dầu mazut sang khí tự nhiên có thể giảm bớt chi phí sản
xuất và đồng thời giảm được lượng khí ô nhiễm sinh ra từ nhà máy, đó
là lợi ích ngoại tác đối với những c
ư dân sống gần nhà máy (họ có lợi
do giảm được chi phí y tế liên quan tới ô nhiễm không khí).
Tính chất chủ yếu của ngoại tác là ở chỗ có những hàng hóa mà
người ta quan tâm như nước sạch, không khí sạch, cảnh quan… nhưng
không có bán trên thị trường, được gọi là hàng hóa công cộng.
Hàng hóa công cộng là hàng hóa được cung cấp cho nhiều người
với mức giá không cao hơn mức giá để cung cấp nó cho một người và

19
một khi nó được cung cấp cho một số người tiêu dùng này thì những
người tiêu dùng khác vẫn có thể tiêu dùng chúng được. Như vậy hàng
hóa công cộng có 2 đặc trưng sau:
(1) Một số người có thể tiêu dùng mà không làm giảm số lượng
vốn có của chúng đối với những người khác.
(2) Không độc chiếm: có nghĩa là một người không thể ngăn cản
người khác tiêu dùng hàng hóa đó.
Ví dụ: Một biện pháp y tế công cộng nhằm loại trừ
bệnh đậu mùa
bảo vệ tất cả mọi người, chứ không chỉ bảo vệ cho những người đã trả
tiền cho việc tiêm chủng. Tương tự, đèn hải đăng, sóng radio, không
khí sạch… cũng là những hàng hoá công cộng.
Những ngoại tác và hàng công cộng là nguồn gốc gây suy thoái
môi trường và do đó cần có những chính sách bảo vệ môi trường.
Ví dụ: Các nhà máy được phép thải bao nhiêu nước thải xuống
sông và các nguồ

n nước khác? Các chuẩn mực xả khí thải của ô tô vào
không khí là bao nhiêu? Chính phủ phải chi bao nhiêu tiền cho y tế,
giáo dục, quốc phòng, nghiên cứu cơ bản, phủ sóng phát thanh và
truyền hình?
Khi tồn tại các ngoại tác và hàng hóa công cộng thì giá cả sản
phẩm không còn phản ánh giá trị xã hội của nó. Vì vậy các doanh
nghiệp có thể sản xuất quá nhiều hay quá ít, nên sự điều tiết của thị
trường là vô hiệu quả.
Môi trường là hàng hóa công cộng. Thị tr
ường có xu hướng
không cung cấp đủ hàng hóa này, do đó Chính phủ phải đảm nhiệm
việc cung ứng nó.
Ngoại tác có thể xảy ra trong mối quan hệ giữa những người sản
xuất – sản xuất; sản xuất – tiêu dùng, tiêu dùng – tiêu dùng. Ngoại tác
có thể tích cực hay tiêu cực.

20
Ngoại tác tiêu cực phát sinh khi hoạt động của một bên làm phát
sinh các chi phí cho bên khác. Khi một nhà máy thải nước ra sông làm
số cá sống được ít đi và làm ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt cá.
Ngoại tác tiêu cực xuất hiện vì doanh nghiệp không muốn chịu
trách nhiệm về các chi phí ngoại tác mà họ gây ra cho ngư dân khi đưa
ra các quyết định sản xuất của mình.
Ngoại tác tiêu cực làm phát sinh chi phí ngoại tác, do đó chi phí
xã hội lớn hơn chi phí tư nhân.
Ngo
ại tác tích cực nảy sinh khi hoạt động của một bên làm lợi
cho bên khác.
Ngoại tác tích cực mang lại lợi ích ngoại tác nên lợi ích xã hội
lớn hơn lợi ích tư nhân.

Ví dụ: một người sửa sang lại ngôi nhà của mình, trồng phía
trước một vườn hoa thì tất cả những người láng giềng đều có lợi vì
được ngắm hoa dù chủ nhân không tính đến những lợi ích đó với láng
giềng.

Tăng trưở
ng kinh tế, gia tăng dân số và môi trường
Khi nền kinh tế tăng trưởng, thể hiện qua mức gia tăng sản phẩm
quốc gia (GNP) thì khối lượng chất thải cũng gia tăng so với khả năng
hấp thụ hạn chế của môi trường. Khi vượt qua khả năng này, sự thiệt
hại nghiêm trọng có thể xảy đến cho môi trường, lớn đến mức phúc
lợi của con ngườ
i có thể thực sự giảm sút. Chúng ta gọi đó là: “giới
hạn tăng trưởng”: đầu tiên là giới hạn nhận chất thải đối với sự tăng
trưởng. Nhưng đây không phải là giới hạn duy nhất có thể có. Vật chất
và năng lượng được chuyển đổi bởi hệ thống kinh tế phải lấy từ hai
nguồn cơ bản: các tài nguyên có thể tái tạo như lâm, th
ủy hải sản… và
không tái tạo như dầu, than đá, các loại khoáng sản khác… Nếu một

21
tài nguyên có thể tái tạo được sử dụng một cách bền vững, cẩn thận thì
phần lấy đi được bù đắp trở lại. Ví dụ: chặt cây này trồng cây khác
thay vào. Như vậy sẽ không có giới hạn đối với tăng trưởng của những
tài nguyên này. Nhưng với tài nguyên không tái tạo sẽ có một giới hạn
khả năng có sẵn tài nguyên đối với sự tăng trưởng. Như vậy chúng ta
có 2 giới hạn thích hợp có thể có đối với sự tăng trưởng kinh tế:
– Khả năng hạn chế của môi trường thiên nhiên trong việc hấp
thụ chất thải từ hệ thống kinh tế.
– Tính chất có giới hạn của các nguồn tài nguyên không thể tái

tạo.
Sự tăng trưởng kinh tế có thể đo lường một cách chặt chẽ hơn
bằng chỉ tiêu mức tăng GNP tính bình quân
đầu người. Ở một số quốc
gia, dân số gia tăng với tốc độ nhanh đến nỗi mặc dù nền kinh tế có
tăng trưởng nhưng GNP bình quân đầu người vẫn bị giảm. Như vậy
gia tăng dân số cũng là một áp lực lên môi trường tự nhiên.
Hiện tại, nhân loại đang phải đối mặt với 4 vấn đề lớn: bảo vệ
hoà bình, gia tăng dân s
ố, ô nhiễm môi trường và sự nghèo đói. Trong
đó vấn đề gia tăng dân số được coi là nguyên nhân chung của 3 hiểm
họa trên, đặc biệt là đối với những nước nghèo đang phát triển như
Việt Nam.
– Dân số và đất đai
: dân số tăng nhanh, môi trường sống bị ô
nhiễm vì dân số tăng thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng. Để
có nhiều lương thực thực phẩm cần phải đưa đất vào canh tác nông
nghiệp, thay thế rừng và nhiều sinh vật khác.
– Dân số và nhu cầu nước
: dân số tăng nhanh, công nghiệp và
nông nghiệp phát triển thì nhu cầu sử dụng nước cũng tăng trong khi
nguồn cung nước giảm dần do ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp,
chất thải sinh hoạt và do phá rừng bừa bãi.

22
– Dân số và tài nguyên rừng: dân số tăng, nhu cầu năng lượng
cũng tăng lên, do đó tăng phá rừng.
– Dân số và chất lượng không khí
: dân số tăng lên thì khí thải
công nghiệp, nông nghiệp và từ các phương tiện giao thông… làm ô

nhiễm không khí.
Sự gia tăng dân số càng nhanh thì chúng ta càng tiến gần đến cả
hai giới hạn tiếp cận chất thải của môi trường và khả năng có sẵn của
tài nguyên và do đó, làm giảm tốc độ tăng trưởng.
Một cách khác để tiếp cận với các hạn chế của việc gia tăng dân
số là xem xét khả nă
ng tải của môi trường. Khả năng tải của một vùng
đơn giản là số lượng người tối đa có thể tồn tại ở mức sống tối thiểu
cần thiết với những tài nguyên trên vùng đó. Tổ chức lương nông thế
giới (FAO) xác định khả năng tải của môi trường dựa vào tiềm năng
sản xuất lương thực. Tiềm năng này phụ
thuộc vào mức độ kỹ thuật áp
dụng. Có ba mức như sau:
(1) Mức thấp: không sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu hay thuốc
diệt cỏ, sử dụng các loại giống truyền thống, không sử dụng các
phương pháp bảo tồn dài hạn.
(2) Mức trung bình: có sử dụng cơ bản phân bón, thuốc trừ sâu,
một số giống mới, một số các phương pháp bảo tồn c
ơ bản.
(3) Mức cao: sử dụng đầy đủ phân bón, thuốc trừ sâu, các loại
giống mới, các phương pháp bảo tồn và các phương pháp canh tác tốt
nhất.
Các chính sách về dân số và môi trường:
• Giảm tốc độ tăng dân số bằng những biện pháp như kiểm soát
tốc độ sinh (quy định số lượng con trong một gia đình, đẩy mạnh việc
tuyên truyền về các biện pháp phòng tránh thai, tă
ng cường giáo dục

23
cho quần chúng nhất là phụ nữ…). Ngay cả khi áp dụng các biện pháp

này dân số cũng vẫn tăng vì tuổi thọ tăng, tử vong giảm.
• Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
• Giải quyết vấn đề sở hữu tài nguyên. Ví dụ: Trung Quốc đã
tăng sản lượng nông nghiệp một cách rất ấn tượng bằng những khuyến
khích đối với nông dân và trao đất cho các nông hộ.
• Chính sách giá c
ả thích hợp cũng có tác động tích cực đối với
bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên.
Một số nhà nghiên cứu đã xác định quan hệ giữa thu nhập và môi
trường qua đường cong Kuznets có dạng chữ U ngược: đầu tiên mức
độ môi trường bị phá hủy tăng lên sau đó giảm đi khi thu nhập cao. Sự
hợp lý bên trong quan sát này như sau: khi tăng trưởng kinh tế gia
tăng, thâm canh nông nghiệp cao hơn, khai thác tài nguyên nhiều hơn,
công nghiệp hóa cất cánh, tỉ
lệ phá hủy tài nguyên tăng lên, lượng chất
thải tăng lên. Tuy nhiên, khi cơ cấu nền kinh tế chuyển sang công
nghiệp và dịch vụ ít sử dụng tài nguyên hơn, người ta quan tâm đến
môi trường nhiều hơn và sẵn sàng chịu tốn kém để làm sạch môi
trường.
Ngày nay, các nước rất quan tâm và tăng cường các quy định về
môi trường. Kết quả là mức phá hủy môi trường dần dần giảm xuống.
Ví dụ: hiệ
n nay các thành phố ở các nước mới công nghiệp hoá như
Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan… ô nhiễm nhiều hơn cách đây 20,
30 năm và mức độ ô nhiễm vượt quá tốc độ tăng trưởng trong khi các
thành phố ở các nước công nghiệp sạch hơn cách đây 20, 30 năm.
Một nghiên cứu ở các nước Châu Á cho thấy trong vòng 20, 30
năm tới chất lượng môi trường sẽ dần dần cải thiện ở các nước Đông
Á, trong các n
ước Đông Nam Á thu nhập cao như Malaysia và tiếp tục

bị phá hủy ở các nước Nam Á và Đông Nam Á có thu nhập thấp hơn.

24

Môi trường và vấn đề phát triển bền vững
Theo Ủy Ban Thế giới về môi trường và phát triển (WCED) thì
Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện
tại nhưng không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn nhu cầu của thế hệ
tương lai do khai thác quá mức làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường. Nói cách khác phát triển bền vững là sự phát triển tồn tạ
i lâu
dài.
Phát triển bền vững bao gồm sự cân bằng giữa 3 lĩnh vực: tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Định nghĩa này tương ứng với tư tưởng của cải thiện Pareto (cải
thiện Pareto là sự phân phối làm cho một người có lợi hơn nhưng
không làm bất kỳ ai bị thiệt). Tối ưu Pareto là điều kiện hiệu quả rấ
t
hữu ích cho việc phân tích hiệu quả của các hệ thống kinh tế và cho
việc hình thành các chính sách kinh tế. Việc phân phối hàng hóa hay
dịch vụ trong nền kinh tế được gọi là tối ưu Pareto nếu không có phân
phối nào có thể làm ít nhất một cá nhân có lợi hơn mà không làm bất
kỳ ai bị thiệt hại. Phát triển bền vững bảo đảm sự gia tăng liên tục hay
ít nhất duy trì phúc lợi theo thời gian. Có ba quan điểm về phúc lợi
theo thời gian. Các con đường tối ưu có thể bền vững hay không bền
vững và những con đường bền vững có thể không tối ưu. Trong nhiều
trường hợp, một dự án hay một chính sách cho trước sẽ làm cho một
số người bị thiệt thòi và một số khác được lợi hơn. Theo tiêu chuẩn
cải thiện Pareto không có một dự án hay một chính sách nào có thể có
lợi cho toàn xã hội.

Giả định một chính sách bao gồm chi phí
đối với xã hội là 10 tỉ
đồng, tạo lợi ích cho nhóm A là 20 tỉ đồng, gây thiệt hại cho nhóm B
là 8 tỉ đồng. Nếu so sánh lợi ích và chi phí, chúng ta có thể nói rằng

25
lợi ích đối với xã hội là 20 – 8 = 12 tỉ đồng và chi phí đối với xã hội là
10 tỉ đồng. Do đó, lợi ích ròng của xã hội là 2 tỉ đồng. Nhưng vì nhóm
B bị thiệt, nhóm A được lợi, theo tiêu chuẩn Pareto nghiêm ngặt
chúng ta có thể không chấp nhận chính sách này. Một cách xem xét
cải thiện Pareto là nếu nhóm A chấp nhận bù đắp thiệt hại cho nhóm B
8 tỉ đồng thì lợi ích ròng của nhóm A là 20 – 8 = 12 tỉ đồng. Tổng thể
chi phí đối với dự án là 10 t
ỉ đồng. Nếu chúng ta giả định rằng chi phí
này được nhóm A chi trả, cuối cùng lợi ích ròng của A là 12 – 10 = 2
tỉ đồng. Trong thực tế, nếu chính sách được thực hiện nhưng nhóm A
không đền bù cho nhóm B thì nhóm A có lợi 20 tỉ đồng và nhóm B bị
thiệt 8 tỉ đồng.
Trên giác độ kinh tế, dựa vào phương pháp phân tích lợi ích – chi
phí, về nguyên tắc một dự án được chấp nhận nếu lợi ích lớn hơn chi
phí. Phương pháp này bỏ qua việc xem xét ai ch
ịu chi phí và ai được
lợi. Nhưng trên giác độ môi trường, một dự án sinh ra lợi ích hiện tại
nhưng gây hại trong tương lai có thể được điều chỉnh nếu lợi ích hiện
tại có thể được sử dụng để bù đắp cho thế hệ tương lai.
Trên cơ sở định nghĩa này, phát triển bền vững phải đảm bảo vấn
đề công bằng trong cùng một thế hệ cũ
ng như giữa các thế hệ. Phát
triển kinh tế và xã hội phải được thực hiện sao cho có thể tối thiểu hóa
ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế đối với môi trường mà chi phí

thế hệ sau phải gánh chịu. Ngoài ra những nhu cầu thiết yếu của người
nghèo trên thế giới phải được ưu tiên.

Điều kiện để phát triển bền vững
Để bồi thường cho th
ế hệ tương lai những thiệt hại mà hoạt động
của chúng ta gây ra hôm nay chúng ta phải chuyển giao di sản tư bản
có nghĩa là để lại cho thế hệ sau một lượng tư bản (vốn) không ít hơn

×