Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN an sinh xã hội, thực trạng và giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.91 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ
quyền của công dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội của các nước có sự khác nhau, tùy thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị -
xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định
chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Với ý nghĩa đó, trong
quá trình nghiên cứu môn quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa, tác giả lựa
chọn vấn đề:'' An sinh xã hội, thực trạng và giải pháp thực hiện hiệu quả
chính sách an sinh xã hội ở nước ta." Để nghiên cứu làm tiểu luận.
NỘI DUNG
1. Khái niệm, bản chất và các bộ phận của an sinh xã hội.
1.1. Khái niệm an sinh xã hội
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, con người muốn tồn tại và phát
triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con
người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng
nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu
phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc
đời, không phải khi nào con người cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập.
Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con
người bị giảm, mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị
1
bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong… Hơn nữa,
cuộc sống của con người trên trái đất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên và môi trường sống. Để hiểu rõ khái niệm an sinh xã hội (ASXH), cần
nhìn lại điêù kiện tự nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm cho một bộ phận
dân cư cần phải có sự giúp đỡ nhất định để bảo đảm nhu cầu tối thiểu cuộc


sống bình thường. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người đã có nhiều biện
pháp khác nhau để khắc phục khó khăn.
Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã
tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”;
đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự
tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác
nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý
thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác
nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng
công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát
triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương
tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm
thuê đem lại. song sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm
đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe
doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu
nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu
cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách
khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương
tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ
giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh
2
tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ
tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi
ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này
là bảo hiểm xã hội) đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không
chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện
nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được
thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, người khoẻ –

người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài bảo hiểm xã hội(BHXH), các
hình thức truyền thống về tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để
giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như những người già cô đơn,
người tàn tật, trẻ em mồ côi, người goá bụa và những người không may gặp
rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng
tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người
già, bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều
kiện tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ
thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức
khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong đó BHXH là
trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social Security) trên thế giới là
Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất,
tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến
năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế.
3
ASXH đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con
người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền
do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên
ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã
hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày
25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được
gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ
về ASXH đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ phận.

Tuy nhiên, cho đến nay, do tính chất phức tạp và đa dạng của ASXH nên
vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Khái niệm về ASXH cũng
còn khá khác biệt giữa các quốc gia.
Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security và khi dịch
ra tiếng Việt, ngoài ASXH thì thuật ngữ này còn được dịch là bảo đảm xã hội,
bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không
hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm
bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do
làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp;
được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có
nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu
khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…Theo nghĩa này thì tầm “ bao” của Social
Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên
cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo
đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao
động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ
côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch
4
hoạ…Theo chúng tôi, ASXH mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu theo
nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ
những cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa học đưa ra những khái niệm
rộng- hẹp khác nhau về ASXH, chẳng hạn:
- Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (1879-
1963), ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo
đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
- Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ, ASXH được hiểu khái quát hơn, đó
là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân,
đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát
triển tài năng đến tột độ.

Để dễ thống nhất, theo các nhà nghiên cứu nên dùng khái niệm của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,
tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình đông con.
Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời
sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các
biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên
trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
1.2. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
Bản chất của ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các
công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp
công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy
mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ bản chất của ASXH
5
từ những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên
hợp quốc thừa nhận.
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của
ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả
mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu
nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên
nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố và
những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH
dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực
hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.
ASXH, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn
đề chủ yếu:

- Một là, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự BHXH. Có
thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống
BHXH hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có một nền ASXH vững mạnh.
BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Thông qua các
trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay
thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ
bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
- Hai là, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động
và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao
động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt
cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
- Ba là, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những
người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự
6
giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích,
thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn,
ở, dịch vụ đi lại…
Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay
thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những
chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những biện pháp phân phối lại tiền
bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn
(hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất) trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ
cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
Thứ hai, ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác
nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng
vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi
mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã

hội, chủng tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người
kém may mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện,
những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”,
có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực
xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người
may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của
Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt
khác, có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy
rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính
kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới
một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
Thứ ba, ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương
7
thân tương ái của cộng đồng.
Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân
tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những
người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo
đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
- ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình diện
xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp
dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó, những nhóm dân cư “yếu
thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại
thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều
ngang và dọc. Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại
giữa những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và
người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người có gánh nặng gia
đình. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc
đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với
các điều kiện xác định. Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ
xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập

hợp đóng” tương đối).
Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức
mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp,
cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực
hiện bằng nhiều kỹ thuật khác nhau: trực tiếp (thuế trực thu, kiểm soát giá cả,
thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật
hoặc các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ
em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện
cho một “tập hợp mở” tương đối).
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc còn
8
gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng có thể có
một số biện pháp để thực hiện một số chế độ cho những người có thu nhập
thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp. Những người có thu
nhập thấp thường được miễn giảm chế độ đóng góp, hoặc được người chủ sử
dụng lao động (kể cả Nhà nước) đóng cho hoàn toàn. Hệ thống trợ cấp cũng
lưu ý tới những người có thu nhập thấp (tỷ lệ trợ cấp cao hơn so với những
người có thu nhập cao). Sự phân phối theo chiều ngang và theo chiều dọc đã
tạo ra một lưới ASXH (social safety net hoặc social security net).
- ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đến nay người ta đã ý thức
được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, trong đó các nhân tố kinh
tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau. Sự phát triển của thế
giới trong những năm gần đây đặt ra mục tiêu là bảo đảm những cải thiện
nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại những lợi ích cho mọi
người; bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công
bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải
thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường…
Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh
là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới
đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát triển sau

này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được
những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi
ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được sự nghèo
túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc
đẩy tiến bộ xã hội.
- ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những
nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được
9
cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu thế”
trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những người
gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế
hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống
ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển
toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.
1.3. Các bộ phận của an sinh xã hội.
Về mặt cấu trúc ASXH gồm những bộ phận cơ bản là:
* Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có
BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH ra đời và phát
triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu. BHXH nhằm
bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và gia đình họ
trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm…, làm giảm hoặc
mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái
niệm BHXH đến nay cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và gần đây
có xu hướng hòa nhập giữa BHXH với ASXH. Khi đề cập đến vấn đề chung
nhất, người ta dùng khái niệm SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là BHXH,
nhưng khi đi vào cụ thể từng chế độ thì BHXH được hiểu theo nghĩa của từ
SOCIAL INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có nghĩa là hai
thuật ngữ này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là sự bảo

đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất
hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao
động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài
chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần
bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội.
10
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia
sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải
đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ
gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả
bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người
tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động,
với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những
trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư tăng
trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ BHXH; các chế độ
được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản
của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập
trước khi hưởng BHXH…
* Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện
sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những
trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc
sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa
nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
* Trợ cấp gia đình
-Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ BHXH dựa trên

những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
- Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn
với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn những
người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con…
11
* Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ
tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
- Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi sự cố
xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định.
- Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không
chia sẻ rủi ro cho người khác…
* Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước phát triển, trong hệ thống ASXH có
nhiều dạng dịch vụ xã hội, được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng (ngân sách
Nhà nước), bao gồm:
- Trợ cấp cơ bản cho mọi cư dân, hoặc tất cả những người đã từng làm
việc trong một khoảng thời gian nhất định.
- Trợ cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ hưởng;
các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.
* Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động
- Thường chỉ là hệ thống tai nạn nghề nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho
người lao động.
- Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
- Trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với chăm sóc y tế và bồi
thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
- Có thể bao gồm một phần để chi trả chế độ cho người lao động trong
thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).
* Dịch vụ xã hội khác
- Quy định thêm về ASXH dưới các hình thức khác.

- Khi không có hệ thống ASXH.
- Có thể được thực hiện bởi các tổ chức tự nguyện hoặc phi Chính phủ.
12
- Bao gồm các dịch vụ đối với người già, người tàn tật, trẻ em, phục hồi
chức năng cho người bị tai nạn và tàn tật, các hoạt động phòng chống trong y
tế (ví dụ tiêm phòng), kế hoạch hóa gia đình.
2. Thực trạng và giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã
hội góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân hiện nay.
2.1. Thực trạng của việc thực hiện chính sách an sinh xã hội những
năm qua.
*Ưu điểm:
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong hơn 25 năm qua, công tác bảo đảm
an sinh xã hội ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống an
sinh xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng
được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng
được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người
nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội
không còn nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
của sự phát triển đất nước.
Về mặt thể chế, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta
đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách an sinh xã hội quan trọng, huy
động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tượng
(người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối
tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải
pháp bảo đảm an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện:
(1) Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công
cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, ; (2) Hỗ trợ
phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín dụng,
việc làm; (3) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ
người dân tốt hơn.

13
Đến nay công tác bảo đảm an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu
nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ
29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ số phát triển con người
(HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728 (năm 2011), xếp thứ
128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; năm 2011 nước ta đã
hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp
quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở
thành căn cứ pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội được quan tâm phát triển với nội dung và hình
thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho
những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại
hình là: bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế), bảo hiểm tự
nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng
nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,7 triệu (năm 2011). Sau gần 3 năm triển
khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người
tham gia. Năm 2011 có khoảng 7,6 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm
2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em
dưới 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế
cho các hộ cận nghèo, v.v
Hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được
hoàn thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2010 tăng 2,2 lần so với năm 2006. Thực
hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến
nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức
trung bình của dân cư cùng địa bàn.
Các chính sách trợ giúp xã hội (thường xuyên và đột xuất) được thực
14
hiện rộng hơn cả về quy mô và đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày

càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người
được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỉ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm
2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hằng năm
Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục nghìn tấn
lương thực, thuốc men, chủ yếu để trợ giúp khắc phục thiên tai.
Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo“, “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự
hưởng ứng của nhiều lực lượng xã hội, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao
an sinh xã hội cho mọi người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo
*Hạnchế
Đến nay, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều bất
cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa
giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng. Tình trạng thiếu việc làm ở nông
thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để
thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước,
với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khả năng cân đối giữa nguồn và sử
dụng của hệ thống an sinh xã hội, kể cả các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước
mắt, cũng như trong trung và dài hạn. Các quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là
quỹ bảo hiểm y tế ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần. Nguồn lực
đầu tư cho an sinh xã hội của Nhà nước khó đáp ứng được yêu cầu an sinh xã
hội ngày càng tăng của người dân, trong khi đó huy động từ các nguồn khác,
đặc biệt từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. Các hình thức bảo
hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch
15
vụ nhìn chung còn thấp, vẫn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà. Một số chính
sách an sinh xã hội còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách an
sinh xã hội đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc,

miền núi có điều kiện sống khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ an
sinh xã hội, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Hệ thống hành
chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ an sinh xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát
triển, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình an
sinh xã hội.
Những hạn chế trên đây đã đặt hệ thống an sinh xã hội của nước ta
trước nhiều thách thức lớn, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh chính sách
để vượt qua. Cụ thể là:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề an sinh xã hội
bức xúc, mới phát sinh chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận
và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội theo mô hình
hiện nay không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và tiến trình hội nhập quốc tế.
Thứ hai, cùng với sự phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội
ngày càng có xu hướng tăng. Là nước đang phát triển với điều kiện địa - tự
nhiên, địa - kinh tế đặc thù, nên Việt Nam rất dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng
đến sinh kế và thu nhập của người dân. Trong khi đó, do nguồn lực còn hạn
chế, nên chúng ta chưa thật chủ động bảo đảm an sinh xã hội cho đông đảo
dân cư.
Thứ ba, xu thế già hóa dân số đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho hệ
thống an sinh xã hội hiện hành và trong tương lai, sẽ tạo áp lực lớn lên hệ
thống y tế, bảo hiểm xã hội, các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi.
Thứ tư, mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp lý, chưa
16
bảo đảm cuộc sống cho các đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài
chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất
cập.
Thứ năm, những rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có
diện ảnh hưởng rộng. Tác động tiêu cực của những “cú sốc khó lường trước”

từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch
bệnh đến quốc kế dân sinh ngày càng nhanh và mạnh. Trong khi đó chúng
ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu
hóa và còn hạn chế về nguồn lực dành cho các hoạt động phòng, chống rủi ro.
Thứ sáu, sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường, đã làm
cho các nhóm xã hội yếu thế ngày càng trở nên yếu thế hơn và dễ bị tổn
thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh tranh, khả năng phòng ngừa rủi ro
trên thương trường. Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra
với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ
hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an
sinh của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.
Như vậy, các nhóm đối tượng của an sinh xã hội sẽ ngày càng đa dạng,
đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh
hoạt và đủ khả năng thực hiện những mục tiêu an sinh xã hội chủ yếu đến
năm 2015, như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra là: “Tạo bước tiến bộ
rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm
tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Giải
quyết việc làm cho 8 triệu lao động Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74
tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm"(4). Để đạt được những mục
tiêu đó, cần khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội lành
mạnh, đủ khả năng thực hiện các chức năng của mình.
2.2. Yêu cầu và giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội từ
17
năm 2010 -2020
* Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống an sinh xã hội.
Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi
bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường
xuyên. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định:
Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao
không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh

xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng
thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục tiêu đến năm
2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 -
3.200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế
giới; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% -
3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo
đảm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp
khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư Xóa nhà tạm đơn sơ, tỷ
lệ nhà kiên cố đạt 70%, bình quân 25m2 sàn xây dựng/người. Cải thiện chất
lượng môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động ứng phó có hiệu quả
với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.
Quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước cùng với tiềm lực kinh tế của đất
nước được nâng lên là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn,
thách thức: công cuộc xóa đói giảm nghèo phải tập trung vào các vùng, các đối
tượng khó khăn nhất; một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có
nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định
với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp; những rủi ro về kinh tế - xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên… tác động tiêu cực đến
đời sống và an sinh xã hội của nhân dân. Chính vì vậy, cần có nhận thức mới,
18
đầy đủ hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những
kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục những yếu kém, bất cập để xây dựng
một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao.
*Yêu cầu:
Trước hết, cần khẳng định bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là
một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm
của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các cơ chế chính sách và nguồn lực của
mình, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm an sinh xã hội

và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Nhà nước thực hiện tốt chính sách phân phối
và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả
nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện chính sách cơ cấu nhằm thúc đẩy
tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội, coi việc thực hiện nhiệm vụ này là một nội dung quan
trọng thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Thứ hai, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ
động, tích cực và có tính xã hội hóa cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò
của Nhà nước, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm
và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ giúp
kịp thời, hiệu quả trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của người dân, vừa
góp phần quan trọng thúc đẩy xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đa tầng,
linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi
ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những
người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước và tiếp cận với thông lệ quốc tế.
* Nhiệm vụ và giải pháp hiện thực hóa các mục tiêu về an sinh xã
19
hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, hiện thực hóa các mục tiêu về an sinh
xã hội và phúc lợi xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020,
cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
gắn với giải quyết việc làm.
Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
phát triển mạnh sản xuất, kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ
người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xóa đói giảm nghèo và bảo

đảm an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này,
một mặt phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi
đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn
nông thôn; mặt khác phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm gắn với thực hiện đề án Đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020,
chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng
bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính
sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu đãi học nghề,
hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh
niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Phấn đấu hàng năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1,8 triệu người,
trong đó có 1 triệu lao động nông thôn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị xuống còn 4%; năm 2020 lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào
tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa,
điều kiện và môi trường lao động an toàn.
Hai là, Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo
hiểm, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.
20
Trong điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng
biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ
thống bảo hiểm và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp
quan trọng nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người tham gia bảo hiểm khi xảy ra
các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường. Cần khẩn trương hoàn
thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hệ
thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được
nâng cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp
ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây
dựng và hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về
quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham

gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo
trợ xã hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với
yêu cầu của giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách
tiền lương. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao
động, trong đó có chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động
ở nông thôn tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo
hiểm thất nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và
khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người
nghèo, người dân ở vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi
chính thức. Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014.
Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm
khác thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó
có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm
duy trì sản xuất và bảo đảm đời sống.
Ba là, Thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững.
21
Trong thập kỷ tới, xóa đói giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết với
quy mô rộng lớn, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một
trọng tâm trong công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta.
Để thực hiện xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển
khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là triển
khai có hiệu quả Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn
2011-2020 với chuẩn nghèo mới phù hợp với tình hình phát triển của nước ta
và tiếp cận với chuẩn quốc tế. Các chính sách và giải pháp xóa đói giảm
nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống,
tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo
bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương
trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người

dân, cộng đồng và cơ sở.
Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy
động sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên
người nghèo, vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm
giàu. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo
hiện có, nhất là chương trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao.
Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội
và bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.
Bốn là, Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính
sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng
chính sách trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ
cấp xã hội thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn
rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già
22
chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh,
thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn
1
. Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu
đãi người có công với nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.
Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ người trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao chế
độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng thời
hỗ trợ các gia đình người có công phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao
thu nhập; vận động toàn xã hội tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, bảo
đảm cho những người có công có mức sống cao hơn mức trung bình của dân

cư cùng địa bàn.
Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh
hoạt, ứng phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc
tăng cường trợ giúp thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải
đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu
trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn
của các doanh nghiệp, của xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ
giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở rộng đối tượng và điều kiện hưởng
thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức trợ
giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới
mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội.
Đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có hiệu quả
thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại về người và
1
Bình quân 5 năm gần đây, mỗi năm thiên tai làm chết hơn 500 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 15
nghìn tỷ đồng, bằng 1,2% GDP.
23
của, nhất là những vùng thường xuyên xảy ra bão lũ; nghiên cứu hình thành
các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa phương để hỗ trợ kịp thời cho
nhân dân khi có rủi ro đột xuất.
Năm là, Nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng
cao phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản.
Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ
xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình
đẳng cho mọi người. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh
lệch về thu nhập và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân cư, các
nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn,
thực hiện tốt yêu cầu này cũng là một biểu hiện thực tế và sinh động bản chất

ưu việt của chế độ ta.
Trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh phát
triển các dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các
dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện,
nước sinh hoạt, văn hóa, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi
trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân
đối với các dịch vụ này. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả
3 cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh
doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát triển hệ thống dịch vụ ngày
càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất lượng ngày càng nâng
lên. Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và
dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực,
phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ
này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.
24
Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát
triển giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là ở các
vùng nghèo, đặc biệt khó khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn
giảm học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục
mầm non 5 tuổi; chính sách khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hóa, thông tin,
trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở… cho các đối tượng chính sách, đối tượng
khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ,
tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,
ấm no, hạnh phúc.
Sáu là, Huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội.
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu
cơ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và

toàn xã hội. Cùng với việc nâng cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn
lực của Nhà nước, phải thực hiện chủ trương “các chính sách xã hội được tiến
hành theo tinh thần xã hội hóa”
2
. Phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội
để nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của
mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các
dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách
nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình an sinh xã hội tự
nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ
chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận
2
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 204.
25

×